Trang chủ » 10. KẾT CỤC

10. KẾT CỤC

by Trung Kiên Lê
151 views

TÁC GIẢ - LỜI GIỚI THIỆU

I. PLATON

1. Bối cảnh

2. Socrate

3. Thời kỳ học hỏi của Platon

4. Vấn đề đạo đức

5. Vấn đề chính trị

6. Vấn đề tâm lý

7. Giải pháp tâm lý

8. Giải pháp chính trị

9. Giải pháp luân lý

10. Phê bình

II. ARISTOTE

1. Một chút lịch sử

2. Công việc của Aristote

3. Nền tảng của luận lý học

4. Hệ thống khoa học

5. Siêu hình học và thực chất của Thiên Chúa

6. Tâm lý học và bản chất của nghệ thuật

7. Đạo đức học và bản chất của hạnh phúc

8. Khoa học - chính trị

9. Phê bình

10. Tuổi già và chết

III. FRANCIS BACON

1. Từ ARISTOTE đến thời phục hưng

2. Sự nghiệp chính trị của Bacon

3. Những bài tiểu luận

4. Cuộc tái tạo vĩ đại

5. Phê bình

6. Kết luận

IV. SPINOZA

1. Tiểu sử

2. Luận về tôn giáo chính trị

3. Sự cải tiến trí năng

4. Đạo đức học

5. Chính trị luận

6. Ảnh hưởng của Spinoza

V. VOLTAIRE

1. Paris: Oedipe

2. London: những lá thơ từ Anh quốc

3. Cuộc sống ở Cỉrey

4. Ở Potsdam với hoàng đế Frédérique

5. Les délices: "Luận về đạo đức"

6. Ferney: Candide

7. Bách khoa tự điển và triết lý tự điển

8. Chống độc tài áp bức

9. Voltaire và Rousseau

10. Đoạn kết

VI. IMMANUEL KANT

1. Những nẻo đường đến KANT

2. Con người

3. Phê bình lý tính thuần túy

4. Phê bình lý tính thực tiễn

5. Về tôn giáo và lý trí

6. Về chính trị và nền hòa bình vĩnh cửu

7. Phê bình và đánh giá

8. Vài lời về Hegel

VII. SCHOPENHAUER

1. Thời đại

2. Con người

3. Thế giới kể như biểu tượng

4. Thế giới: dục vọng

5. Thế giơi: Sự ác

6. Minh triết về nhân sinh

7. Minh triết về cái chết

8. Phê bình

VIII. HERBERT SPENCER

1. COMTE và DARWIN

2. Sự phát triển của Spencer

3. Nguyên lý đầu

4. Sinh vật học: quá trình tiến hóa của sự sống

5. Tâm lý học: sự tiến hóa của tâm trí

6. Xã hội học: tiến hóa của xã hội

7. Đạo đức học: tiến hóa của đạo đức

8. Phê bình

9. Kết luận

IX. FRIEDRICH NIETZSCHE

1. Dòng dõi

2. Tuổi trẻ

3. Nietzsche và Wagner

4. Tiếng hát Zarathustra

5. Đạo đức siêu nhân

6. Siêu nhân

7. Suy tàn

8. Quý tộc

9. Phê bình

10. Kết cục

“Ta yêu con người muốn tạo một cái gì cao hơn chính mình, và chết vì thế”, Zarathustra đã nói.

Chắc hẳn nồng độ mãnh liệt của tư tưởng Nietzsche đã sớm tiêu diệt chàng. Cuộc chiến chống lại thời gian làm tâm trí chàng mất quân bình; “người ta đã luôn luôn nhân thấy rằng thật là một điều ghê gớm khi tuyên chiến với hệ thống đạo đức của thời đại mình; việc ấy sẽ gây cuộc phục thù từ bên trong và từ bên ngoài” (Ellis, 39). Càng về cuối đời, tác phẩm Nietzsche càng chua chát; chàng đả kích nhân vật cũng như tư tưởng Wagner, đấng Ki-tô v.v. “Sự tăng trưởng trí tuệ – chàng viết – có thể được đo chính xác bằng sự giảm thiểu tính cách cay chua” nhưng chàng không thể thuyết phục được ngọn bút của chàng.

Ngay giọng cười của Nietzsche cũng trở thành bệnh hoạn khi tâm trí chàng suy sụp; không có gì có thể chỉ bày chất độc đang làm tiêu mòn Nietzsche rõ hơn ý tưởng này: “Có lẽ tôi biết rõ vì sao con người là con vật duy nhất có nụ cười: vì chỉ mình nó là đau đớn dữ dội đến nỗi buộc lòng phải phát minh tiếng cười” (Ý chí quyền lực, 1, 24). Bệnh hoạn và sự mù loà càng ngày càng tăng là khía cạnh sinh lý trong cơn suy sụp của chàng.

Nietzsche bắt đầu tuôn ra những cơn ám ảnh của bệnh vọng tưởng, như cảm thấy mình vĩ đại, cảm thấy bị hành hạ; chàng gởi một trong những cuốn sách của chàng cho Taine với một lời ghi cả quyết với nhà phê bình lỗi lạc ấy rằng đấy là tác phẩm tuyệt diệu nhất từ xưa tới nay, và trong tác phẩm cuối cùng của Nietzsche, Ecce Homo (Đây, con người), chàng trút đầy những lời tự tán dương điên loạn như ta đã thấy Ecce homo – than ôi, chúng ta đã thấy con người ấy ở đây quá rõ!

Có lẽ nếu được những người khác tán thưởng thì chàng đã bớt được kiểu tự tôn tự đại, và có chỗ bám víu vững hơn vào tương lai và vào sự sáng suốt bình thường. Nhưng sự khen ngợi đến quá muộn. Taine gởi cho chàng một lời khen nồng hậu trong khi hầu hết mọi người khác đều xem chàng như không có, hoặc chửi rủa chàng; Brandes viết cho chàng hay, ông đang giảng một khoá về “chủ nghĩa cấp tiến quý tộc” của Nietzsche ở đại học Copenhagen; Strindberg viết rằng ông đang đưa những tư tưởng của Nietzsche vào kịch nghệ; và có lẽ điều hay hơn cả là một người hâm mộ vô danh đã gửi một chi phiếu 4000 Mỹ kim. Nhưng khi những mảnh tia sáng như thế đến, thì Nietzsche đã gần như mù loà về thị giác lẫn tâm hồn, chàng đã bỏ hy vọng, “Thời tôi chưa đến”, -chàng viết – “chỉ có cái ngày sau ngày mai mới thuộc về tôi” (Đây, con người, 55).

Tai hoạ cuối cùng xảy đến ở Turin vào tháng giêng năm 1889, dưới hình thức một cơn trúng gió, chàng lảo đảo quờ quạng đi trở về gian phòng sát mái của chàng, và tung ra những bức thư điên: gởi cho Cosima Wagner bốn chữ “Ariadne, anh yêu em”; gởi cho Brandes một thư dài hơn, ký tên “Đấng Bị Đóng Đinh” (trên thập giá -chú thích của người đánh máy) và gởi cho Burckhardt và Overbeck những bức thư quái dị đến nỗi Overbeck vội vàng đến thăm chàng. Ông bắt gặp Nietzsche đang nện chiếc dương cầm bằng hai khuỷu tay, vừa hát vừa gào lên cơn mê cuồng kiểu Dionysus.

Ban đầu họ đưa chàng đến một viện dưỡng trí, nhưng mẹ già chàng liền đến xin đem chàng về dưới sự săn sóc đầy bao dung của bà. Cảm động làm sao! Người đàn bà ngoan đạo ấy đã chịu đựng một cách đau đớn nhưng kiên nhẫn cơn kinh hoàng trước sự bội giáo của con bà, đối với tất cả những gì bà yêu quý, song không vì thế mà bớt yêu thương chàng, bây giờ bà đang đón nhận chàng trong đôi tay, như hình ảnh một Pieta. Bà chết năm 1897, và Nietzsche được em chàng đem đến sống ở Weimar.

Ở đây Kramer đã nặn một bức tượng của chàng – một cảnh đau lòng, cho ta thấy bộ óc một thời oanh liệt bây giờ đã tan rã, vô vọng. Tuy nhiên chàng không phải hoàn toàn bất hạnh; niềm bình an mà chàng chưa bao giờ hưởng được lúc lành mạnh bấy giờ đã đến với chàng. Trời đã thương khi làm cho chàng điên loạn. Một lần bắt gặp em chàng khóc khi nhìn chàng, Nietzsche không thể hiểu được, chàng hỏi: “Này Lisbeth, tại sao em khóc? Chúng ta không hạnh phúc đấy hay sao?”. Vào một dịp khác, khi nghe nói đến sách vở, gương mặt xanh xao của Nietzsche vụt ngời sáng: “A, tôi cũng thế, tôi cũng đã từng viết vài cuốn sách hay!”. Rồi giây phút minh mẫn ấy vụt tắt.

Chàng mất năm 1900. Chưa ai từng phải trả một giá lớn lao đến thế cho thiên tài.

[1] Before Christ: Trước Công Nguyên (Tây Lịch)

[2] Về bản năng trong người

[3] Bảy tác phẩm trên của Bacon mang nhan đề như sau:

1. De Interpretatione Naturae Proemium – Dẫn nhập việc giải thích thiên nhiên, 1603 -; Redargutio Philosophiarum -Phê bình các ngành triết học, 1609-.

2. The Advancement of Learning, 1603 -được dịch ra La-tinh dưới nhan đề De Augmentis Scientiarum, 1622)

3. Cogitata et Visa (Những điều nghĩ và thấy, 1607); Filum Labỷinthi (Sợi chỉ và mê lộ, 1606); Novum Organum (Dụng cụ mới, 1608-20).

4. Historia Naturalis (Vạn vật học, 1622); Descriptio Globi Interlectualis (Mô tả quả cầu tri thức; 1612).

5. Sylva Sylvarum (Rừng của rừng, 1624)

6. De Principils (Về căn nguyên, 1621).

7. The New Atlantis (Đảo thần thoại mới, 1624).

Tất cả, trừ The Advancement of Learning và The New Atlantis, đều được viết bằng tiếng La-tinh, 2 quyển này Bacon và người cộng sự dịch ra La ngữ để người Âu châu đọc.

[4] Những yếu tố được Spinoza khai triển trong cuốn Đạo đức học!.

[5] Tăng tiến tri thức

[6] J.M. Robertson trích dẫn trong lời tựa cuốn Tác phẩm Triết học của F. Bacon, tr. 7

[7] Froude: Life and Letters of Thomas Carlyle I, p. 52

[8] Sau khi Napoléon thất bại với trận Waterloo, dòng Bourbons trở lại với Louis 18 lên ngôi

[9] Wallace “Cuộc đời Schopenhauer”, trang. 59

[10] Thế giới…, 199, Tiểu luận “Về tiếng ồn”

[11] Nietzsche: Schopenhauer nhà giáo dục, London, 1910, tr.122

[12] Một nguồn gốc của học thuyết Freud.

[13] Phải chăng đây là một nguồn gốc cho thuyết cảm xúc của J. Lange?

[14] Nhưng há không có cái gọi là sự ngấy chán hay kiệt dục? Trong sự mệt mỏi hay đau yếu quá độ, thì ngay cả ý chí muốn sống cũng phai tàn

[15] Tiểu luận “Về mối liên lạc giữa chúng ta với chúng ta”

[16] Một nguồn gốc của thuyết Freud về “chơi chữ và vô thức”

[17] Một nguồn gốc của thuyết Weininger

[18] Xem thuyết của Nietzsche về “Sự tái hồi bất tận”

[19] III, 167 – 9. Một nguồn cho thuyết Freud

[20] Theo thần thoại, Ixion bị Jupiter trừng phạt bằng cách trói vào một bánh xe quay bất tận

[21] Hãy so sánh nỗi hờ hững chán chường của Âu châu ngày nay (1924) và sự thịnh hành của những tác phẩm như cuốn “Sự suy tàn của thế giới Tây phương của O. Spengler.

[22] Babbitt, Rousseau and Romantism, tr.20

[23] Xem thêm chính Schopenhauer cũng viết: “Không có công việc đều đặn, không có lãnh vực hoạt động nhất định, đấy thật là một điều khốn nạn nhất!… Nỗ lực, đấu tranh với gian khó là điều tự nhiên cho một con người, chẳng khác nào đối với việc đùn đất đối với một con mối. Được thoả mãn tất cả mọi nhu cầu là một điều không thể chịu đựng -không thể chịu đựng cái cảm giác tù đọng phát sinh bởi sự kéo dài quá lâu những lạc thú. Thắng lướt những khó khăn chính là cảm nghiệm để niềm lạc thú viên mãn của cuộc sống” (Lời khuyên và châm ngôn, tr. 53). Chúng ta sẽ muốn biết thêm Schopenhauer khi trưởng thành đã nghĩ gì về cái triết lý xuất sắc của ông vào thời niên thiếu.

[24] Anatole France (hoá thân cuối cùng của Voltaire) đã dành trọn một tuyệt tác của ông -Bi kịch thế nhân- để chứng minh rằng “niềm vui của tri thức là một lạc thú buồn thảm”, tuy nhiên, “ai đã từng nếm trải nó một lần sẽ không chịu đổi nó để lấy tất cả những sự vui nhộn phù phiếm, những niềm hy vọng trống trơn của đám đông phàm tình” (Cf. The Garden of Epicurus, N.Y., 1908, p. 120)

[25] Cf. Schopenhauer “Những khả năng tri thức vĩ đại nhất chỉ để tìm thấy, đi đôi với một ý chí hăng hái và đam mê” (II,413)].

[26] Newgate: nhà ngục xưa ỏ London, bị phá vào năm 1902.

[27] Dĩ nhiên sự phân tích này không đầy đủ. “Vì giới hạn cuốn sách không cho phép” (tác giả vẫn thường mỉm cười trước chiếc áo che đậy sự lười biếng này, song ở đây phải dùng đến) bàn đến các tác phẩm Giáo dục, Tiểu luận và nhiều phần lớn của cuốn Xã hội. Bài học về Giáo dục đã được học quá kỹ; và chúng ta ngày nay cần ít chất điều hoà cho lời quyết đoán đã thắng của Spencer về đòi hỏi của khoa học chống lại văn học nghệ thuật. Về tiểu luận, đặc sắc nhất là những tiểu luận về văn pháp, về cái cười, và về âm nhạc. Cuốn Herbert Spencer của Hugh Elliott là một thiên trình bày tuyệt diệu.

[28] Xã hội học, iii, 697. Xem nghiên cứu xã hội học, trang 335: “Bằng chứng là lương bổng tăng thường chỉ có hậu quả là nếp sống lố bịch hơn hoặc rượu chè quá chén hơn mà thôi”].

[29] Trích dẫn trong Faguet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71

[30] The Birth of Tragedy, dẫn nhập, tr. Xvii.

[31] Chiếc nhẫn (của vương quốc) Nibelungen – Tác phẩm opera vĩ đại của Richard Wagner dựa trên Anh hùng ca thần thoại Đức về kho tàng châu báu của vương quốc Nibelungen ở khu vực sông Rhein (Rhin), gồm bốn vở: 1. Das Rheingold, 2. die Wallküre, 3. Siegfried và 4. Goetterdaemmerung- chú thích của người đánh máy.

[32] Trong Halevy, Life of F.Nietzsche, London, 1911, tr. 106.

[33] Một kịch sĩ Do thái, mà Nietzsche nghi là cha ruột của Wagner. Ludwig Geyer cưới mẹ Wagner sau khi cha chàng mất (lúc ấy chàng mới ra đời được 6 tháng).

[34] Ám chỉ tác phẩm Goetterdaemerung – Hoàng hôn của Thượng đế – của Wagner

[35] Rốt cục có ai hiểu, dù muốn hiểu, Phục hưng là cái gì? -dịch theo bản tiếng Đức – chú thích của người đánh máy.

[36] Carlyle, Past and Present, NY 1901.

❁ ❁ ❁ 
Tác giả: William Durant
Nguồn: DTV eBook

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x