Trang chủ » 5. PHÊ BÌNH

5. PHÊ BÌNH

by Trung Kiên Lê
148 views

TÁC GIẢ - LỜI GIỚI THIỆU

I. PLATON

1. Bối cảnh

2. Socrate

3. Thời kỳ học hỏi của Platon

4. Vấn đề đạo đức

5. Vấn đề chính trị

6. Vấn đề tâm lý

7. Giải pháp tâm lý

8. Giải pháp chính trị

9. Giải pháp luân lý

10. Phê bình

II. ARISTOTE

1. Một chút lịch sử

2. Công việc của Aristote

3. Nền tảng của luận lý học

4. Hệ thống khoa học

5. Siêu hình học và thực chất của Thiên Chúa

6. Tâm lý học và bản chất của nghệ thuật

7. Đạo đức học và bản chất của hạnh phúc

8. Khoa học - chính trị

9. Phê bình

10. Tuổi già và chết

III. FRANCIS BACON

1. Từ ARISTOTE đến thời phục hưng

2. Sự nghiệp chính trị của Bacon

3. Những bài tiểu luận

4. Cuộc tái tạo vĩ đại

5. Phê bình

6. Kết luận

IV. SPINOZA

1. Tiểu sử

2. Luận về tôn giáo chính trị

3. Sự cải tiến trí năng

4. Đạo đức học

5. Chính trị luận

6. Ảnh hưởng của Spinoza

V. VOLTAIRE

1. Paris: Oedipe

2. London: những lá thơ từ Anh quốc

3. Cuộc sống ở Cỉrey

4. Ở Potsdam với hoàng đế Frédérique

5. Les délices: "Luận về đạo đức"

6. Ferney: Candide

7. Bách khoa tự điển và triết lý tự điển

8. Chống độc tài áp bức

9. Voltaire và Rousseau

10. Đoạn kết

VI. IMMANUEL KANT

1. Những nẻo đường đến KANT

2. Con người

3. Phê bình lý tính thuần túy

4. Phê bình lý tính thực tiễn

5. Về tôn giáo và lý trí

6. Về chính trị và nền hòa bình vĩnh cửu

7. Phê bình và đánh giá

8. Vài lời về Hegel

VII. SCHOPENHAUER

1. Thời đại

2. Con người

3. Thế giới kể như biểu tượng

4. Thế giới: dục vọng

5. Thế giơi: Sự ác

6. Minh triết về nhân sinh

7. Minh triết về cái chết

8. Phê bình

VIII. HERBERT SPENCER

1. COMTE và DARWIN

2. Sự phát triển của Spencer

3. Nguyên lý đầu

4. Sinh vật học: quá trình tiến hóa của sự sống

5. Tâm lý học: sự tiến hóa của tâm trí

6. Xã hội học: tiến hóa của xã hội

7. Đạo đức học: tiến hóa của đạo đức

8. Phê bình

9. Kết luận

IX. FRIEDRICH NIETZSCHE

1. Dòng dõi

2. Tuổi trẻ

3. Nietzsche và Wagner

4. Tiếng hát Zarathustra

5. Đạo đức siêu nhân

6. Siêu nhân

7. Suy tàn

8. Quý tộc

9. Phê bình

10. Kết cục

Chúng ta phải phê phán làm sao cái triết lý ấy của Bacon? Có gì mới lạ trong đó? Macaulay nghĩ rằng phép quy nạp theo Bacon mô tả là một chuyện có từ khuya, không có gì phải ồn ào về nó, lại càng không nên xây đài kỉ niệm cho nó. “Phép quy nạp vốn dĩ mọi con người đều sử dụng từ sáng đến tối kể từ thuở khai thiên lập địa. Khi một người bảo rằng chả lụa không hạp với y bởi vì y bị đau bụng khi ăn nó vào, không đau nữa nếu không ăn, đau nhiều nhất nếu ăn nhiều, và đau ít nhất nếu ăn ít, thì y đã sử dụng vô ý thức song rất đầy đủ, tất cả những mục của cuốn Novum Organum” (op cit., p. 471).

Nhưng người ấy không sử dụng bảng “tăng hay giảm” đúng cách, và rất có thể cứ tiếp tục ăn chả lụa mặc dù bị sôi bụng. Và dù cho người ấy có khôn ngoan, điều ấy cũng không làm giảm bớt giá trị Bacon; vì luận lý học là gì nếu không phải là lập thành công thức những kinh nghiệm và phương pháp của những người khôn ngoan? – một kỷ luật là gì nếu không phải là sự chuyển nghệ thuật của một số ít người trở thành định luật khoa học để giảng dạy cho tất cả?

Nhưng việc lập thành công thức có phải của riêng Bacon? Phương pháp của Socrate không quy nạp sao? Sinh vật học của Aristote không quy nạp sao? Há Roger Bacon đã không thực hiện phương pháp quy nạp mà Francis Bacon chỉ có giảng diễn? Galilée há đã không lập thành công thức rõ ràng phương pháp mà khoa học đã thực sự sử dụng? Điều này đúng trong trường hợp Roger Bacon, ít đúng hơn với Galilée, lại ít đúng hơn nữa với Aristote và đúng ít nhất với Socrate.

Galilée phát họa mục tiêu hơn là phương pháp của khoa học, đưa ra trước những tín đồ khoa học cái đích của sự lập thành công thức toán học và đo lường mọi thí nghiệm và mọi tương quan. Aristote thực hành pháp quy nạp khi không có việc gì khác để làm và khi tài liệu không cho phép ông tự do quen thói diễn dịch ra những kết luận đặc trưng từ những giả thuyết quá tổng quát; còn Socrate thì không phải dùng quy nạp – tức gom góp dữ kiện – mà là dùng phân tích, nghĩa là định nghĩa và phân biệt những danh từ và ý tưởng.

Bacon không tự hào mình hoàn toàn độc sáng; giống như Shakespeare ông làm cho những gì ông để tay đến đều trở nên rực rỡ. Mọi người đều có nguồn gốc, cũng như mọi cơ thể phải có thức ăn; phần thuộc về của ông chính là phương pháp ông tiêu hoá thức ăn và biến nó thành ra máu và thịt. Như Rawley nói, “Bacon không bao giờ coi thường những quan sát của một người nào, ông mượn nến của bất cứ ai để thắp ngọn đuốc của ông”[6]. Nhưng Bacon ghi nhận những món nợ này:

Ông nói đến “phương pháp tiện lợi của Hyppocrate” (TTTT, IV, 2) đưa chúng ta ngay đến nguồn thực của luận lý quy nạp trong người Hy lạp; và Platon “đã đưa ra một tấm gương sáng của sự nghiên tầm bằng phép quy nạp và xét những điểm đặc thù; mặc dù bằng một lối bấp bênh có vẻ không lợi ích gì” (Filum Labyrinthi, đoạn cuối). Có lẽ ông đã không màng nhắc đến nợ ông đối với những người tiền bối ấy; và chúng ta cũng đừng nên phóng đại món nợ kia.

Nhưng còn một điều khác: phương pháp của Bacon đúng chăng? Đó có phải là phương pháp được sử dụng hữu hiệu nhất trong khoa học tiên tiến? Không, thông thường khoa học đã sử dụng với hiệu quả tốt đẹp nhất, không phải là sự tích chứa những dữ kiện (Vạn vật học) và sử dụng chúng bằng những bảng phức tạp trong Novum Organum mà phương pháp giản dị hơn với giả thuyết, diễn dịch và thí nghiệm.

Như Darwin khi đọc cuốn Luận về dân số của Malthus liền có ý nghĩ áp dụng cho mọi cơ thể giả thuyết của Malthus, theo đó dân số có khuynh hướng tăng nhanh hơn phương tiện sống; và diễn dịch từ giả thuyết này kết luận có thể rằng áp lực của dân số trên sự cung cấp thực phẩm có hậu quả là một cuộc cạnh tranh sinh tồn trong đó kẻ khéo thích nghi nhất sẽ sống sót, và qua cuộc cạnh tranh ấy trong mỗi thời đại mỗi loài trở nên thích ứng với hoàn cảnh hơn; và cuối cùng (sau khi đã giới hạn vấn đề và lãnh vực quan sát của ông bằng giả thuyết và diễn dịch) quay về “bộ mặt không héo tàn của thiên nhiên” và trong 20 năm đã làm một cuộc xenm xét kiên nhẫn những sự kiện để đi đến quy nạp.

Lại nữa, Einstein nghĩ ra, hay mượn của Newton, giả thuyết rằng ánh sáng đi theo đường cong chứ không thẳng; rồi diễn dịch ra hết kết luận rằng một ngôi sao mà ta xem có vẻ như đang ở một vị trí nào đó trên trời thì kỳ thật hơi thiên về một bên của vị trí ấy; và ông thí nghiệm, quan sát để kiểm chứng lại. Rõ ràng là vai trò của giả thuyết và trí tưởng tượng thật quan trọng hơn Bacon nghĩ; và phương pháp của khoa học thật ra trực tiếp và có giới hạn hơn trong kế hoạch của Bacon. Chính Bacon cũng thấy trước sự lỗi thời của phương pháp ông; việc thực hành khoa học sẽ tìm ra những nghiên tầm hữu hiệu hơn là những phương pháp được nghĩ ra bởi chính khách trong lúc trà dư tửu hậu. “Những việc này cần vài thế kỷ để trưởng thành”.

Ngay cả một người yêu mến tinh thần Bacon cũng phải công nhận rằng ông quan lớn ấy trong khi đặt ra định luật cho khoa học, đã không theo dõi trào lưu khoa học của thời ông. Ông phủ nhận Copernic và không biết đến Kepler và Tycho Brahe; ông chê Gilbert và dường như không biết có Harvey. Quả thế, ông thích bàn luận hơn nghiên tầm; hoặc có lẽ ông không có thì giờ cho việc tra cứu công phu. Những tác phẩm viết trong lãnh vực triết học và khoa học là những đoạn thiếu mạch lạc, lộn xộn, để lại sau khi ông chết, đầy những trùng lập, mâu thuẫn, ước vọng và giới thiệu. Ars longa, vita brevis, nghệ thuật thì lâu dài, mà đời người quá ngắn: đấy là thảm kịch của mọi thiên tài.

Bắt một người quá bận rộn như Bacon, mà công việc tái tạo triết học phải nhét vào những khe hở của một sự nghiệp chính trị nặng nề đầy sóng gió, sáng tạo dồi dào phức tạp như Shakespeare, thì thật là phí thời giờ học giả với những tranh luận phòng trà của những người lý thuyết rởm. Shakespeare thiếu chính cái yếu tố tạo nên con người của vị quý tộc quan lớn kia – sự bác học và óc triết lý-. Shakespeare biết chút ít về mọi khoa học; nhưng không nắm vững khoa nào; trong mọi ngành khoa học ông đều phát ngôn với sự hùng hồn của một người tài tử.

Ông công nhận khoa chiêm tinh “Quốc gia lớn lao nầy…(Sonnet, XV), ông luôn luôn có những lỗi mà học giả Bacon không bao giờ có; nhân vật Hectoz của ông trích dẫn Aristote và nhân vật Coriolanus nói đến Cato; ông cho Lupercalia là một ngọn đồi và ông hiểu César có lẽ cũng sâu sắc như H.G. Wells đã hiểu. Ông không ngừng nói đến thời niên thiếu của ông và những đau buồn trong đời hôn phối. Ông có những cái tầm thường, thô tục, những trò đùa khác hẳn với nhà triết học lạnh lùng bình thản, Carlyle gọi Shakespeare là con người có trí năng vĩ đại nhất, nhưng đúng hơn phải nói Shakespeare có trí tưởng tượng vĩ đại nhất, con mắt tinh anh nhất, ông không cố ý thống nhất tư tưởng cho cuộc đời mình và cho nhân loại.

Ông đắm mình trong tình yêu và chỉ nghĩ đến triết lý khi trái tim tan vỡ. Khi nó chưa vỡ thì ông cũng khá yêu đời, ông không thèm bận tâm đến viễn tượng tái tạo triết học đã nâng cao Platon, Nietzsche hay Bacon.

Ưu điểm và cũng là nhược điểm của Bacon nằm ở chính lòng yêu chuộng sự thống nhất của ông, ước vọng của ông muốn phối hợp hằng trăm khoa học lại. Ông muốn như Platon “một người có thiên tài cao cả nhìn khắp mọi sự như đứng từ một mỏm đá cao”. Ông ngã quỵ dưới gánh nặng của công việc ông đã tự vạch cho mình; ông đã thất bại, nhưng điều đó khả thứ, vì ông đã quá ôm đồm. Ông đã không thể đi vào mảnh đất hứa của khoa học, song ít ra ông cũng đã đứng ở biên giới, và chỉ cho thấy những nét phong quang của nó từ xa.

Tuy nhiên công trình của Bacon không vì thế mà kém phần to tát. Tác phẩm triết học của ông, mặc dù ngày nay không mấy ai đọc đến, “đã đánh động các tri thức điều động thế giới” (Macaulay). Ông đã trở thành tiếng nói hùng hồn của lạc quan và quyết định của thời Phục Hưng. Chưa ai đã là nguồn hứng khởi quan trọng cho các tư tưởng gia khác như thế. Đã đành vua James từ chối đề nghị của ông về việc bảo trợ khoa học, và nói về tác phẩm Dụng cụ mới rằng: “Tác phẩm này giống như sự bình an của Thiên chúa, vượt quá mọi tầm hiểu biết”. Nhưng những người khá hơn, vào năm 1662 sáng lập ra Hội Hoàng Gia sau này sẽ trở thành hội đoàn các khoa học gia lớn nhất của thế giới, đã xem Bacon là gương mẫu và nguồn cảm hứng cho họ; họ hy vọng rằng tổ chức này của Anh quốc sẽ đưa đến một hiệp hội của toàn Âu châu như cuốn

Tăng tiến tri thức đã chủ trương. Khi những bộ óc vĩ đại của phái Tôn Sùng Lý Trí ở Pháp khởi thảo kiệt tác của tri thức, Bộ Bách Khoa Từ điển, họ đã đề tặng Francis Bacon. Diderot đã nói trong chương trình: “Nếu chúng tôi thành công trong việc này, đây là nhờ phần lớn vào vị Tể tướng Bacon, người đã đưa ra kế hoạch một bộ tự điển phổ quát khoa học và mỹ nghệ vào một thời, ta có thể nói, chưa từng có khoa học hay mỹ nghệ. Thiên tài phi thường ấy, khi ông không thể nào viết một cuốn lịch sử về những gì biết được, đã viết một cuốn sách để nói về những gì cần phải biết”. D’Alembert gọi Bacon là: “triết gia vĩ đại nhất, phổ quát nhất, hùng hồn nhất trong các triết gia”. Hội nghị đã xuất bản tác phẩm của Bacon do quốc gia ra vốn. Tất cả sự nghiệp tư tưởng Anh quốc đã theo đường hướng triết học Bacon.

Hobbes thừa hưởng quan điểm của ông để khởi xướng một thuyết duy-vật, Locke theo phương pháp quy nạp của ông để lập một nền tâm lý học thực nghiệm, nhấn mạnh sự quan sát và loại bỏ khía cạnh thần học và siêu hình; và Bentham cũng ảnh hưởng Bacon khi đồng hoá cái hữu ích và cái thiện. Bất cứ ở đâu có tinh thần khắc phục thay vì tinh thần cam chịu, ở đó có ảnh hưởng Bacon. Ông là tiếng nói của những người Âu châu đã biến đổi một lục địa từ một cánh rừng hoang trở thành một mảnh đất của kho tàng mỹ nghệ và khoa học, đã biến bán đảo nhỏ của họ thành trung tâm thế giới. “Con người không phải là những con vật đứng thẳng, nhưng chính là những thần linh bất diệt”. Bacon bảo “Thượng đế đã ban cho chúng ta những linh hồn bằng cả vũ trụ, nhưng chúng ta vẫn chưa thoả mãn dù chiếm được cả vũ trụ”. Mọi sự đều khả hữu đối với con người.

Thời gian còn ít, hãy cho chúng ta vài thế kỷ, chúng ta sẽ chế phục và tái tạo tất cả. Có lẽ ít nhất chúng ta sẽ học được bài học cao quý hơn cả, đấy chính là con người không phải cần đánh giặc với người mà chỉ cần tuyên chiến cùng những chướng ngại mà thiên nhiên đã đặt để cản ngăn chiến thắng của mình”. Ta có thể nói không ngoa rằng có ba loại hay bực tham vọng trong con người. Loại thứ nhất là tham vọng của những người muốn bành trướng quyền hạn mình trong xứ sở mình; điều ấy tầm thường và thoái hoá. Loại thứ hai là tham vọng của những người nỗ lực bành trướng quyền lực xứ sở mình và thống trị nhân loại, điều này dĩ nhiên có tư cách hơn song cũng không kém tham tàn.

Nhưng nếu một người nỗ lực xây dựng và bành trướng quyền lực và sự thống trị của loài người trong vũ trụ thì loại tham vọng ấy rõ ràng là vừa lành mạnh hơn, vừa cao quý hơn hai loại kia” (Dụng cụ mới, 129). Định mệnh quả đã khiến Bacon phải bị dằn vặt giữa những khuynh hướng ấy xâu xé nhau để chiếm đoạt linh hồn ông ta.

❁ ❁ ❁ 
Tác giả: William Durant
Nguồn: DTV eBook

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x