Trang chủ » Chân ngã (Atman)

Chân ngã (Atman)

by Trung Kiên Lê
128 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại Brooklyn, 2 tháng 2, 1896)

Nhiều người trong các bạn có lẽ đã đọc tác phẩm nổi tiếng “Ba bài giảng về triết học Vedānta” của Max Müller, và một số trong các bạn có lẽ đã đọc sách tiếng Đức của giáo sư Deussen cùng bàn về nền triết học đó.

Trong những gì được viết và giảng dạy tại phương Tây về tư tưởng tôn giáo của Ấn Độ, có một trường phái tư tưởng Ấn Độ được trình bày như là tư tưởng chủ đạo, đó là Advaitism hay nhất nguyên luận trong tôn giáo Vedānta; và đôi khi người ta ngỡ rằng mọi lời giảng của kinh Veda đều nằm trong hệ thống triết học đó cả.

Tuy nhiên, còn có những giai đoạn khác nhau trong tư tưởng Ấn Độ; và có lẽ hình thức phi nhị nguyên này chỉ là một phần nhỏ khi so sánh với triết học trong những giai đoạn đó.

Tại thời kỳ xa xưa nhất, tại Ấn Độ đã có nhiều học phái tư tưởng; và bởi vì không hề có một giáo hội có tổ chức hay được thừa nhận nào, cũng không có một tập thể nào đứng ra chỉ định giáo lý của từng học phái cần phải tin theo, cho nên dân chúng được quyền tự do chọn lựa hình thức tín ngưỡng để biến thành triết học riêng, và thành lập nên tông phái của riêng mình.

Do đó, chúng ta thấy rằng ngay từ thời kỳ xa xưa nhất, nhiều tông phái đã tràn lan khắp Ấn Độ. Tại thời điểm hiện nay, tôi cũng không biết có tới mấy trăm tông phái tại Ấn Độ, và hàng năm lại có thêm bao nhiêu tông phái mới nữa ra đời. Hoạt động tôn giáo của xứ sở này tựa hồ như không bao giờ cạn kiệt.

Trước hết, trong những tông phái khác nhau đó, có hai nhánh chính: chính thống và phi chính thống.

Những tông phái nào tin vào kinh điển Hindu, tin kinh Veda là sự khải thị chân lý vĩnh cửu thì được xem là chính thống; còn những tông phái nào dựa vào những thẩm quyền khác, phủ nhận kinh Veda thì được xem là phi chính thống ở Ấn Độ.

Những tông phái phi chính thống chủ yếu hiện nay là Jaina giáo và Phật giáo. Trong những tông phái chính thống, một số tuyên bố rằng kinh điển có thẩm quyền cao hơn rất nhiều so với lý trí, còn một số thì lại cho rằng chỉ có một bộ phận kinh điển đó là hợp lý cần giữ lại, phần còn lại thì nên bỏ đi.

Trong số ba tông phái chính thống – Sāmkhya (Số luận), Naiyāika (Chính lý học phái) và Mimāmsaka (Di mạn sai) – thì hai tông phái đầu dù tồn tại như là hai trường phái triết học, nhưng lại không phát triển để tạo thành một tông phái.

Tông phái duy nhất, mà ảnh hưởng thực sự bao trùm cả Ấn Độ, là Mimāmsaka thời hậu kỳ. Triết học của họ được gọi là triết học Vedānta.

Tất cả những trường phái triết học Ấn Độ đều xuất phát từ triết học Vedānta hoặc kinh thư Upanishad, nhưng các triết gia nhất nguyên luận tự gán danh hiệu đó cho mình như là đặc điểm, bởi vì họ muốn đặt toàn bộ nền thần học và triết học của họ trên các Upanishad, chứ không trên một thứ gì khác.

Theo thời gian, triết học Vedānta ngày càng chiếm ưu thế, và mọi tông phái khác nhau, hiện đang tồn tại ở Ấn Độ, có thể được coi là một trong những trường phái của nó. Tuy nhiên, những trường phái này lại không nhất trí với nhau về giáo lý.

Chúng ta thấy đó là ba dòng chủ lưu khác nhau của các triết gia Vedānta. Chỉ một điểm duy nhất mà tất cả đều nhất trí, đó là cả ba đều tin vào Thượng Đế.

Mọi triết gia Vedānta đều tin rằng kinh Veda là lời khải thị của Thượng Đế, nhưng có lẽ không hoàn toàn giống như cách tín đồ Cơ Đốc giáo hay Hồi giáo tin vào Kinh Thánh của họ, mà theo một nghĩa rất đặc thù.

Họ cho rằng kinh Veda là sự biểu hiện của tri thức về Thượng Đế, và bởi vì Thượng Đế là vĩnh cửu, Chân Trí của Ngài cũng vô cùng như Ngài, cho nên kinh Veda cũng có giá trị vĩnh cửu.

Còn có một nền tảng tín ngưỡng chung khác – đó là sự sáng tạo theo chu kỳ: toàn bộ sự sáng tạo cứ sinh rồi diệt, nó được phóng chiếu ra, mỗi lúc trở nên một thô hơn, đến giai đoạn cuối của một thời gian vô lượng thì nó trở nên tế vi dần lên, nó tan rã dần và bước vào thời kỳ yên nghỉ.

Rồi nó lại xuất hiện, và lại đi xuyên suốt qua chính quá trình đó. Các triết gia Vedānta xác lập một bản thể vật chất mà họ gọi là ākāśa, hơi giống với khái niệm ether của các nhà khoa học, và một năng lực mà họ gọi là prāna.

Về cái prāna này thì họ tuyên bố rằng dao động của nó đã tạo nên vũ trụ. Khi một chu kỳ kết thúc, tất cả sự hiển lộ của thế giới tự nhiên dần trở nên tế vi hơn, rồi tan biến vào ākāśa vô hình vô ảnh, nhưng ākāśa này chính là nguồn gốc sinh ra vạn vật.

Tất cả những lực mà ta thấy trong thế giới tự nhiên, chẳng hạn như lực hút của quả đất, lực hút và lực đẩy, thậm chí đến cả tư tưởng, cảm xúc và dao động thần kinh – tất cả những thứ lực khác nhau đó đều dung hóa trong prāna, và dao động của prāna ngừng lại.

Nó ở mãi trong trạng thái đó cho đến khi bắt đầu một chu kỳ kế tiếp. Lúc đó, prāna bắt đầu dao động trở lại, dao động đó tác động trên ākāśa, và rồi tất cả mọi hình thể cứ đều đặn kế tục nhau được ném ra ngoài. Trường phái đầu tiên mà tôi sẽ trình bày cùng các bạn là trường phái được định hình theo quan điểm nhị nguyên.

Những triết gia nhị nguyên tin rằng Thượng Đế – đấng Sáng Tạo nên vũ trụ và đấng Cai Quản vũ trụ – vĩnh viễn tách biệt với thiên nhiên, vĩnh viễn tách biệt với linh hồn con người. Thượng Đế vĩnh cửu, thiên nhiên vĩnh cửu, và mọi linh hồn cũng đều vĩnh cửu.

Thiên nhiên và linh hồn hiển lộ và biến chuyển, còn Thượng Đế thì như như bất biến. Theo các nhà nhị nguyên luận đó, Thượng Đế mang bản chất người vì Ngài có những phẩm tính, chứ không phải vì có một thể xác.

Ngài mang những thuộc tính của con người, Ngài nhân từ, công chính, có quyền lực, toàn năng, ta có thể đến gần Ngài, cầu nguyện với Ngài, yêu thương Ngài và được Ngài yêu thương lại, v.v… Tóm lại, Ngài là một Thượng Đế mang bản chất người, chỉ khác ở điểm là vĩ đại hơn con người đến vô biên vô tận.

Ngài không có một nết xấu nào của con người. “Ngài là kho vô tận những phẩm tính đầy lạc phúc” – đó là định nghĩa của họ về Thượng Đế. Ngài không thể sáng tạo mà không dùng tới chất liệu, và thiên nhiên là chất liệu mà Thượng Đế dùng để sáng tạo nên toàn thể vũ trụ.

Còn có những nhà tư tưởng Vedānta phi nhị nguyên, được gọi là là triết gia nguyên tử luận [ Atomist], họ tin rằng thế giới tự nhiên chỉ là vô số những hạt nguyên tử, ngoài ra chẳng có gì khác; và ý chí của Thượng Đế tác động trên những nguyên tử để sáng tạo nên vũ trụ.

Các triết gia Vedānta phản bác thuyết nguyên tử, vì cho rằng nó hoàn toàn phi lý. Những nguyên tử bất khả phân đó giống như khái niệm điểm trong hình học, không có độ lớn hay thành phần cấu tạo; mà cái gì không có độ lớn hay thành phần cấu tạo thì dù có được nhân bội lên vô số lần cũng vậy thôi.

Bất cứ cái gì đơn thể, không có thành phần cấu tạo thì sẽ không bao giờ tạo nên được một thể phức hợp; tổng số của một số lượng số không bất kỳ cũng sẽ không bao giờ tạo ra được một con số đơn lẻ nào. Do đó, nếu những nguyên tử này không có độ lớn hay thành phần cấu tạo thì chúng hoàn toàn không thể tạo ra vũ trụ được.

Do đó, theo các triết gia Vedānta nhị nguyên thì có một bản tính bất khả phân hay vô sai biệt, mà Thượng Đế dùng để sáng tạo nên vũ trụ. Đông đảo người Ấn đều tin theo thuyết nhị nguyên. Bản tính con người, theo lẽ thường, không thể quan niệm được một cái gì cao siêu hơn.

Chúng ta thấy rằng chín mươi phần trăm dân số trên thế giới, dù sống ở bất cứ nơi nào, cũng đều tin theo thuyết nhị nguyên. Tất cả tôn giáo ở châu Âu và Tây Á đều theo thuyết nhị nguyên; chúng phải như vậy. Một người bình thường không thể tư duy về một cái không cụ thể.

Theo lẽ tự nhiên, anh ta sẽ bám chặt vào cái mà trí năng anh ta có thể hiểu được. Điều đó có nghĩa là anh ta chỉ có thể quan niệm được những ý tưởng tâm linh cao siêu bằng cách kéo chúng xuống ngang tầm với mình. Anh ta chỉ có thể lãnh hội được những tư tưởng trừu tượng bằng cách biến chúng thành cụ thể.

Đó là tôn giáo của quần chúng trên khắp thế giới. Họ tin vào một Thượng Đế hoàn toàn tách biệt với họ, xem đó là một ông vua vĩ đại, một đấng quân vương toàn năng, cao cả, có thể nói như vậy.

Đồng thời họ lại biến Ngài trở nên trong sạch hơn các ông vua trên trái đất; họ gán cho Ngài mọi phẩm tính tốt đẹp, và loại bỏ đi tất cả những phẩm tính xấu xa – làm như có thể có chuyện: chỉ có toàn điều tốt đẹp tồn tại mà không hề có điều xấu xa, chỉ có quan niệm về ánh sáng mà không hề có quan niệm về bóng tối!

Với tất cả những nhị nguyên luận đó thì điều khó khăn đầu tiên là như vầy: dưới sự cai quản của một Thượng Đế công bình và nhân hậu, là kho công đức vô lượng, làm sao lại có thể có biết bao nhiều điều tội lỗi, xấu xa trên cõi thế?

Câu hỏi này được nêu ra trong tất cả các tôn giáo nhị nguyên, nhưng người Ấn không hề phát minh ra một Satan để giải đáp nó.

Người Ấn nhất trí đổ lỗi cho con người, và đối với họ thì làm điều đó thật dễ. Vì sao? Vì như tôi đã nói với các bạn, họ không tin rằng linh hồn được tạo ra từ hư không.

Trên đời này, chúng ta thấy rằng ta có thể định nên tương lai; từng ngày, mỗi người trong chúng ta lại cố gắng chuẩn bị kế hoạch cho ngày hôm sau; hôm nay chúng ta chuẩn bị kế hoạch cho ngày mai, ngày mai chúng ta lại chuẩn bị kế hoạch cho ngày mốt, và cứ tiếp tục hoài như thế. Kiểu lý luận này có thể bị đẩy lùi lại về sau, điều đó cũng hoàn toàn hợp lý.

Nếu những hành động của chính chúng ta định nên số phận của chúng ta trong tương lai thì cớ sao lại không vận dụng quy luật đó vào quá khứ? Giả sử có một chuỗi xích dài vô tận, với những mắt xích luân phiên nhau thay đổi, và được chia thành các nhóm.

Nếu giải thích được một nhóm mắt xích này thì ta có thể giải thích được toàn bộ chuỗi xích[1]. Cũng vậy, trong chuỗi thời gian vô tận, nếu chúng ta có thể cắt ra một bộ phận để giải thích và hiểu được nó, và nếu giả định rằng thiên nhiên đồng nhất thì chúng ta có thể vận dụng cách giải thích tương tự cho toàn bộ thời gian.

Nếu đúng là chúng ta vạch ra số phận của mình ở nơi đây, trong một quãng thời gian ngắn ngủi; nếu đúng là mọi sự vật đều có một nhân, như giờ đây ta đang nhìn thấy thì điều này cũng phải đúng: ta bây giờ là gì thì đó là quả của toàn bộ quá khứ của chính mình.

Do đó, không cần thiết phải có một ai khác định hình nên tương lai cho con người, trừ chính họ. Những điều xấu xa tồn tại trong thế gian này đều do chính chúng ta tạo ra, chứ chẳng phải do một ai khác.

Chúng ta đã gây ra tất cả những điều xấu xa này, và chỉ khi thường xuyên nhìn thấy cảnh khốn khổ phát sinh từ những hành vi xấu xa thì chúng ta có thể hiểu rằng biết bao điều thống khổ trong thế gian này đều là hậu quả của sự tàn độc của chúng ta trong quá khứ.

Do đó, theo thuyết này, chỉ có con người chịu trách nhiệm. Đừng đổ lỗi cho Thượng Đế. Ngài – người Cha muôn đời nhân hậu – không thể bị đổ lỗi. “Chúng ta gieo gì gặt nấy”. Một thuyết quan trọng khác của những triết gia nhị nguyên luận là rốt cuộc mọi linh hồn đều được cứu rỗi.

Sẽ không để sót một ai. Trải qua bao thăng trầm sóng gió, trải qua bao buồn vui sướng khổ, cuối cùng thì người nào cũng thoát được ra ngoài.

Thoát ra ngoài cái gì?

Quan niệm chung duy nhất của mọi tông phái Ấn Độ là tất cả linh hồn đều phải thoát ra khỏi cái thế giới vật chất này; bởi vì cái thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy và cảm nhận, cho dù nó có lộng lẫy đến đâu chăng nữa thì cũng không phải là thế giới đúng đắn, thế giới chân thực, bởi vì nó là nơi thiện ác bất phân, thị phi hỗn tạp.

Theo các triết gia nhị nguyên luận thì bên ngoài thế giới này có một cõi chỉ toàn hạnh phúc và điều tốt đẹp; khi đạt đến cõi đó thì không còn sống chết, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi; và họ rất trân trọng quan niệm đó.

Ở nơi đó không còn bệnh tật, không còn cái chết. Chỉ có hạnh phúc đời đời, lúc nào họ cũng sẽ được gặp Thượng Đế và chiêm ngưỡng Ngài mãi mãi.

Những triết gia đó tin rằng mọi sinh linh, từ loại sâu bọ thấp hèn nhất cho đến chư thiên tôn quý nhất, sớm muộn gì cũng đều đi đến thế giới đó, nơi không còn khốn khổ đau buồn. Nhưng thế giới của chúng ta sẽ không bao giờ kết thúc, nó vẫn tiếp tục như thế mãi cho đến thiên thu.

Mặc dù vận hành theo chu kỳ, nhưng nó sẽ không bao giờ kết thúc. Số lượng linh hồn cần được cứu rỗi, cần được hoàn thiện, là vô số.

Một số ở trong cây cỏ, một số ở trong loài vật thấp kém hơn, một số ở trong loài người, một số ở trong chư thiên, nhưng tất cả, kể cả những vị thần tối cao, đều bất toàn và bị ràng buộc. Điều gì ràng buộc? Sự ràng buộc tất yếu của tử sinh.

Ngay cả những vị thần tối cao cũng phải chết. Những vị thần này là gì? Họ mang nghĩa tượng trưng cho những trạng thái nào đó, những chức vụ nào đó.

Chẳng hạn, thần Indra – vua của chư thần – có nghĩa là một chức vụ nào đó. Một vài linh hồn, sau khi lập được công trạng cao cả ở thế gian, đã đến cõi trời để đảm nhận chức vụ đó trong chu kỳ này; sau chu kỳ này thì người đó lại xuống thế gian để tái sinh làm người trở lại; và trong chu kỳ này, người nào làm được điều tốt sẽ đến cõi trời để đảm nhận chức vụ đó trong chu kỳ tiếp theo.

Tất cả chư thần đều như thế cả: họ là những chức vụ nào đó được hàng triệu triệu những linh hồn kế tiếp nhau đảm nhận; những linh hồn này, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lại xuống thế gian để trở lại làm người.

Người nào làm được những điều tốt đẹp trong thế gian này và giúp đỡ kẻ khác, nhằm mục đích được đáp đền, hy vọng đến được cõi trời hay được đồng loại ngợi khen thì, khi chết đi, sẽ gặt hái được thành quả của những hành động tốt đẹp đó. Họ trở thành các vị thần.

Nhưng đó không phải là sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi không bao giờ đến do hy vọng được đáp đền. Con người ước điều gì thì đấng Chúa Tể ban cho điều đó. Con người ước ao quyền lực, uy tín, họ ước ao được hưởng thụ như thần thánh, và họ được toại nguyện.

Nhưng không một hiệu quả nào của công việc có giá trị vĩnh cửu, mà chúng sẽ cạn kiệt dần sau một khoảng thời gian nào đó, có thể là một vô lượng kiếp, nhưng rồi sau đó thì nó sẽ mất đi; và những vị thần này lại phải quay xuống trần gian để làm người, và tìm một cơ hội khác để giải thoát.

Những con vật thấp kém sẽ phát triển thành người, có thể thành cả chư thần, nhưng rồi thành người trở lại hoặc quay về làm thú vật, cho đến khi nào chúng thoát ra khỏi ước ao hưởng thụ, không còn khát khao được sống, và thôi bám vào “tôi” và “của tôi”. “Tôi” và “của tôi” chính là căn nguyên của mọi điều xấu xa, tội lỗi trong thế gian này.

Nếu các bạn hỏi một người theo thuyết nhị nguyên: “Đứa nhỏ này có phải là con của bạn không?” thì anh ta sẽ đáp: “Không! Nó là con của Thượng Đế. Tài sản của tôi cũng không thực là của tôi, mà nó là của Thượng Đế”. Bất cứ thứ gì cũng đều được xem là thuộc về Thượng Đế.

Hiện nay, tín đồ các tông phái nhị nguyên luận này ở Ấn Độ là những người ăn chay vĩ đại, những nhà truyền giáo vĩ đại về giới luật không sát sinh. Nhưng họ quan niệm chuyện này khác hẳn với các tín đồ Phật giáo.

Nếu các bạn hỏi một Phật tử: “Vì sao bạn thuyết giảng không nên sát sinh?” thì anh ta sẽ trả lời: “Ta không có quyền lấy đi bất kỳ sinh mạng nào”.

Còn nếu các bạn hỏi một tín đồ theo thuyết nhị nguyên: “Vì sao bạn không giết bất kỳ con vật nào?” thì anh ta sẽ trả lời: “Bởi vì nó thuộc về Thượng Đế”. Bởi thế, người theo thuyết nhị nguyên bảo rằng “Tôi” và “của tôi” chỉ áp dụng được cho Thượng Đế, và chỉ cho Thượng Đế mà thôi.

Ngài là “Tôi” duy nhất, và mọi thứ đều thuộc về Ngài. Khi một người tiến đến cảnh giới không còn “Tôi” và “của tôi”, xem mọi vật đều thuộc về Thượng Đế, yêu thương mọi người và sẵn sàng hiến dâng cuộc sống cho cả loài vật thì tâm anh ta sẽ thuần tịnh, và tràn ngập tình yêu Thượng Đế.

Thượng Đế là trung tâm hấp dẫn của mọi linh hồn, và người theo thuyết nhị nguyên nói: “Cây kim phủ đầy bùn đất thì không bị nam châm hút, nhưng ngay khi rửa sạch bùn đất đi thì nó sẽ hút ngay”.

Thượng Đế là nam châm, và linh hồn con người là cây kim, và những hành vi xấu xa tội lỗi là lớp bùn đất che phủ bên ngoài. Khi linh hồn thuần tịnh thì tự nhiên nó sẽ bị hút về Thượng Đế, và sẽ ở đó với Ngài mãi mãi, nhưng vẫn đời đời tách biệt.

Linh hồn thuần tịnh, nếu muốn thì nó có thể nhận mang bất kỳ hình tướng nào; nó có thể mang một trăm thể xác nếu muốn, hoặc không mang thể xác nào nếu thích. Nó hầu như trở nên toàn năng, trừ một việc là không thể sáng tạo ra vũ trụ, vì quyền năng sáng tạo chỉ thuộc về Thượng Đế.

Nhưng dù hoàn hảo đến mấy thì cũng không một linh hồn nào có thể quản lý công việc trong vũ trụ, chức năng đó chỉ thuộc về Thượng Đế. Những mọi linh hồn, khi đã trở nên hoàn hảo, sẽ được hạnh phúc đời đời và sống cùng Thượng Đế mãi mãi.

Đó là lời phát biểu của thuyết nhị nguyên. Những người theo thuyết nhị nguyên còn thuyết giảng một điều khác nữa. Họ phản đối thói quen cầu nguyện Thượng Đế: “Hỡi đấng Chúa Tể, hãy cho con cái này, cho con cái nọ”. Họ khẳng định không nên làm thế.

Nếu con người muốn cầu xin món quà vật chất thì nên cầu xin những nhân vật thấp bé hơn Ngài, anh ta nên cầu xin với một vị thần, hay một vị hiền triết ban cho những đồ vật phù du.

Còn Thượng Đế chỉ để yêu thương mà thôi. Thật là tội báng bổ Thượng Đế khi cầu nguyện: “Hỡi đấng Chúa Tể, hãy cho con cái này, cho con cái nọ”.

Theo các nhà nhị nguyên luận, con người cần thứ gì thì trước sau gì cũng có, bằng cách cầu xin với một trong các chư thần, nhưng nếu anh ta muốn được cứu rỗi thì phải sùng bái Thượng Đế.

Đó là tôn giáo của đám đông quần chúng tại Ấn Độ. Triết học Vedānta bắt đầu với những người được xem là theo thuyết phi nhị nguyên hạn chế [ qualified non-dualist].

Những người này phát biểu thuyết nhân quả tương đồng, cho rằng quả không khác với nhân; quả chỉ là nhân được tái tạo dưới hình thức khác. Nếu vũ trụ là quả và Thượng Đế là nhân thì vũ trụ phải chính là Thượng Đế – không thể nào khác được.

Họ khởi đầu bằng lời khẳng định rằng Thượng Đế vừa là nhân vật chất vừa là nhân hiệu năng của vũ trụ; Ngài chính là đấng Tạo Hóa, và Ngài chính là chất liệu mà từ đó toàn thể thế giới tự nhiên được phóng chiếu ra ngoài.

Danh từ “sáng tạo” trong tiếng Sanskrit không có danh từ tương đương nào trong ngôn ngữ các bạn[2], bởi vì không một tông phái nào ở Ấn Độ lại tin vào sự sáng tạo theo cách được mô tả trong Kinh Thánh, xem như có một cái gì đó được sinh ra từ hư không.

Dường như tại một giai đoạn nào đó cũng có một đôi người mang ý tưởng như thế, nhưng họ nhanh chóng bị buộc phải im lặng. Hiện nay, tôi không biết có tông phái nào lại tin như thế hay không. Chúng tôi hiểu sáng tạo theo nghĩa là sự phóng chiếu của cái đã hiện hữu trước đó rồi.

Giờ đây, toàn thể vũ trụ, theo tông phái này, là chính Thượng Đế. Ngài là chất liệu của vũ trụ. Chúng ta đọc trong kinh Veda: “Như con nhện nhả tơ ra khỏi cơ thể nó… toàn thể vũ trụ này cũng được sinh ra từ đấng Hằng Hữu kia như vậy đó”.

Nhưng nếu quả là nhân được tái tạo thì câu hỏi đặt ra là: “Vấn đề sẽ ra sao nếu ta thấy cái vũ trụ vật chất đần độn, đờ đẫn này lại được sinh ra từ một Thượng Đế không phải là vật chất, mà là trí thông minh vĩnh hằng? Vấn đề sẽ ra sao nếu nhân thì thuần tịnh và hoàn hảo, liệu quả có thể hoàn toàn khác biệt hay không?”

Những triết gia phi nhị nguyên hạn chế này nói gì? Học thuyết của họ vô cùng đặc thù. Họ cho rằng cả ba sự tồn tại này – Thượng Đế, thế giới tự nhiên và linh hồn – chỉ là một. Có thể nói rằng Thượng Đế là Linh Hồn, còn thế giới tự nhiên và những linh hồn là thể xác của Ngài.

Giống như tôi có một thể xác và một linh hồn thì cũng vậy, toàn thể vũ trụ và mọi linh hồn đều là thể xác của Thượng Đế, và Thượng Đế là Linh Hồn của mọi linh hồn.

Do đó, Thượng Đế là nhân vật chất của vũ trụ. Thể xác có thể biến đổi – có thể già nua hay trẻ trung, mạnh khỏe hay yếu ớt – nhưng điều đó chẳng hề có ảnh hưởng gì đến linh hồn. Thể xác đến rồi đi, nhưng linh hồn thì bất biến.

Cho đến toàn thể vũ trụ này cũng là thể xác của Thượng Đế, và theo nghĩa đó thì nó chính là Thượng Đế. Nhưng những biến đổi trong vũ trụ không hề ảnh hưởng gì đến Thượng Đế.

Từ chất liệu này Ngài đã tạo ra vũ trụ, và đến cuối chu kỳ thì thể xác Ngài dần trở nên tế vi hơn, nó co rút lại; đến thời điểm khởi đầu của một chu kỳ khác thì nó lại giãn nở ra, rồi nó tiến hóa thành tất cả những thế giới khác.

Đến lúc này thì cả những người theo thuyết nhị nguyên lẫn những người phi nhị nguyên hạn chế đều công nhận rằng linh hồn vốn thuần tịnh từ bản chất, nhưng chính những hành động của nó làm cho nó trở nên ô nhiễm.

Những người phi nhị nguyên hạn chế diễn tả điều này hoa mỹ hơn những người theo thuyết nhị nguyên, họ bảo rằng sự thuần tịnh và hoàn hảo của linh hồn bị co rút lại và hiển lộ ra ngoài; và tất cả những gì ta cần phải làm tái hiển lộ trí thông minh, sự thuần tịnh cùng năng lực vốn có của linh hồn.

Linh hồn có vô số phẩm tính, trừ sự toàn năng và nhất thiết trí. Mỗi hành vi độc ác đều làm co rút bản chất của linh hồn lại, còn từng hành vi tốt đẹp lại khiến nó giãn nở thêm ra, và những linh hồn này là tất cả những thành phần của Thượng Đế.

“Giống như hàng triệu đốm lửa cùng bản chất bắn ra khỏi ngọn lửa rực sáng, những linh hồn này cũng bắn ra khỏi đấng Hằng Hữu Vô Biên – tức Thượng Đế – như vậy đó”. Mỗi linh hồn đều có một mục đích chung.

Thượng Đế của những người phi nhị nguyên hạn chế cũng là một Thượng Đế Nhân Thể, cũng là kho vô tận các phẩm tính hưởng lạc phúc, chỉ có Ngài mới thấu nhập vào lòng vạn hữu trong vũ trụ. Ngài tự tại trong muôn vật và hiện hữu mọi nơi.

Khi kinh điển nói rằng Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật thì có nghĩa là Ngài đang thấu nhập trong lòng vạn hữu; không phải Thượng Đế trở thành bức tường này mà ngài đang hiện hữu trong bức tường.

Không có một phân tử nào, không có một nguyên tử nào trong vũ trụ mà Ngài lại không hiện hữu ở bên trong. Mọi linh hồn đều bị giới hạn, chúng không thể hiện hữu ở khắp nơi. Khi chúng khoáng trương năng lực và trở nên hoàn hảo thì chúng sẽ vượt ra ngoài vòng sinh tử, và sống với Thượng Đế đời đời.

Bây giờ, chúng ta đến với Advaita hay nhất nguyên luận Vedānta, trường phái cuối cùng của triết học Vedānta, mà chúng tôi cho là bông hoa rực rỡ nhất của triết học và tôn giáo của mọi xứ sở ở mọi thời đại, trong đó tư tưởng con người đã được biểu hiện đến mức tối cao, vượt qua cả sự huyền nhiệm bất khả lý giải.

Đây là thuyết phi nhị nguyên Vedānta. Nó quá thâm thúy, quá cao siêu để có thể trở thành tôn giáo của quần chúng. Thậm chí tại Ấn Độ là nơi khai sinh ra nó, là nơi nó đã giữ uy quyền tối thượng, triết học này cũng không thể nào phổ cập được cho quần chúng.

Càng nghiên cứu sâu hơn, chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả những người thâm thúy, sâu sắc nhất tại bất kỳ nước nào cũng khó lòng hiểu được Advaita. Chúng ta đã tự biến mình thành những kẻ bạc nhược, chúng ta đã tự hạ mình quá mức.

Chúng ta có thể phô diễn sức mạnh, nhưng lại phải dựa vào một kẻ khác. Chúng ta như những thân cây nhỏ nhoi yếu ớt, luôn cần đến một giá đỡ.

Đã biết bao lần, người ta hỏi tôi về một “tôn giáo dễ chịu”! Rất ít người hỏi về chân lý, số người dám học hỏi chân lý càng ít hơn nữa, và ít nhất là những người dám cưu mang chân lý. Đó không phải là lỗi của họ, mà tất cả là do sự bạc nhược của đầu óc.

Bất kỳ tư tưởng mới nào, nhất là những tư tưởng cao siêu, đều gây nên xáo trộn, đều cố gắng tạo ra một thông lộ mới, có thể nói như vậy, trong bộ não và làm chao đảo hệ thống, và làm con người mất cả thăng bằng.

Họ đã quen với những lớp tường rào vây bọc chung quanh, và giờ đây phải vượt qua khối lượng khổng lồ những điều mê tín xa xưa, những điều mê tín của tổ tiên, của giai cấp, của thành phố, của đất nước, và đằng sau tất cả những thứ đó là lòng mê tín bẩm sinh của mỗi con người.

Tuy nhiên, vẫn có một vài người dũng cảm dám cưu mang chân lý, đảm nhận chân lý, và dám dấn thân theo nó đến cùng. Một triết gia Advaita tuyên bố điều gì? Ông ta nói rằng nếu có Thượng Đế thì Thượng Đế đó phải vừa là nhân vật chất, vừa là nhân hiệu năng của vũ trụ.

Ngài không chỉ là Hóa Công mà còn là Tạo Vật. Ngài chính là vũ trụ này. Làm sao mà Thượng Đế, đấng Thuần Tịnh, là Tinh Thần lại có thể trở thành vũ trụ? Vâng, có lẽ là thế. Cái mà tất cả kẻ ngu đều nhìn thấy như là vũ trụ thực ra không tồn tại.

Bạn và tôi, hay tất cả những gì chúng ta thấy, là gì? Chỉ là sự tự thôi miên. Chỉ có duy nhất một Tồn Tại, một đấng Vô Biên, một đấng Hưởng Lạc Phúc Vĩnh Viễn.

Trong Tồn Tại đó, chúng ta mơ tới tất cả những giấc mơ khác. Nó là Ātman, siêu việt tất cả, là Cái Vô Biên, vượt quá cái sở tri, cái khả tri; trong Cái Đó và thông qua Cái Đó, chúng ta thấy được vũ trụ này.

Nó là Thực Tại duy nhất. Nó là cái bàn này; Nó là thính giả trước mặt tôi; Nó là bức tường này; Nó là vạn vật – trừ đi hình thể và tên gọi[3]. Lấy hình thể ra khỏi cái bàn này, lấy đi tên gọi thì cái còn lại chính là Nó.

Một triết gia Vedānta không gọi Ātman là Nam hay Nữ – giới tính chỉ là thứ hư cấu hoang đường trong bộ não con người – không hề có giới tính trong Linh Hồn.

Những kẻ nào đang mắc ảo tưởng, những kẻ nào đã biến thành như loài vật, mới thấy có nam có nữ; chư thần sinh động không hề thấy có nam hay nữ.

Làm sao một kẻ đã vượt ra ngoài vạn hữu lại có ý niệm về giới tính? Một người và mọi vật đều là Ātman, là Chân Ngã – không giới tính, thuần tịnh, luôn hưởng lạc phúc.

Chính hình thể và tên gọi – do māyā tạo ra – tạo ra tất cả sự khác biệt mà chúng ta nhìn thấy trong thế giới này giữa những sự vật với nhau.

Nếu các bạn loại bỏ đi sự khác biệt về tên gọi và hình thể thì toàn thể vũ trụ này là một. Không có hai, mà chỉ là một, ở khắp mọi nơi. Các bạn và tôi là một.

Không có thế giới tự nhiên, không có Thượng Đế mà cũng chẳng có vũ trụ; mà chỉ có một Tồn Tại Vô Biên Duy Nhất, từ đó mà vạn vật được tạo dựng, thông qua hình thể và tên gọi.

Làm sao các bạn biết được Chủ Thể Biết [ Knower]? Chủ Thể Biết là bất khả tri. Làm sao các bạn có thể thấy được Chân Ngã của mình? Các bạn chỉ có thể tự phản chiếu chính bản thân mình.

Cho nên vũ trụ này là sự phản chiếu của Hằng Hữu Vĩnh Viễn Duy Nhất – tức Ātman. Và khi sự phản chiếu này rơi trên những vật phản chiếu tốt hay xấu như thế nào thì những hình ảnh tốt hay xấu được tạo ra như thế ấy. Bởi vậy, trong kẻ sát nhân, vật phản chiếu có bản chất xấu xa chứ không phải là Chân Ngã.

Nơi bậc hiền triết, vật phản chiếu có bản chất thuần tịnh. Chân Ngã – hay Ātman – đã thuần tịnh trong tự tính. Cũng chính Tồn Tại Duy Nhất đó, cũng chính Ātman đó đang phản chiếu trong Tự Thân từ loài sâu bọ thấp hèn nhất cho đến con người cao nhất, và hầu như hoàn hảo.

Toàn thể vũ trụ là Nhất Thể duy nhất, là Tồn Tại duy nhất cả về phương diện vật chất, đạo đức lẫn tâm linh. Chúng ta đang nhìn Tồn Tại duy nhất này trong nhiều hình tướng khác nhau, và đang sáng tạo nên mọi hình ảnh trên Nó.

Đối với những người tự giới hạn mình vào thân phận con người thì Nó xuất hiện như là thế giới con người. Đối với những người ở trong cảnh giới tồn tại cao hơn thì nó có thể xuất hiện như là thiên đàng. Nhưng chỉ có một Linh Hồn duy nhất trong vũ trụ, không hề có hai.

Nó không đến cũng không đi, bất lai bất khứ. Nó không sinh cũng chẳng tái sinh. Làm sao Nó có thể chết được? Nó có thể đi đâu sau khi chết? Mọi cõi trời, mọi cõi đất đều là trí tưởng tượng hão huyền của tâm thức.

Chúng không tồn tại, chưa từng tồn tại trong quá khứ, cũng không bao giờ tồn tại trong tương lai. Tôi vô sở bất tại, tôi hiện hữu khắp nơi, và thường tồn vĩnh cửu. Tôi có thể đi đâu được? Tôi đang đọc cuốn sách của thế giới tự nhiên.

Tôi đang đọc hết trang này sang trang khác, và hết giấc mộng đời này đến giấc mộng đời khác cứ nối tiếp nhau lần lượt ra đi. Một trang đời khác được giở ra, một giấc mộng đời khác lại đến, và mọi sự cứ trôi chảy hoài như thế.

Và khi đã đọc xong, tôi gác hết mọi chuyện lại và đứng qua một bên; tôi vất cuốn sách đó đi, và mọi chuyện chấm dứt. Triết gia Advaita đó truyền giảng điều gì?

Ông ta lật đổ ngai vàng của tất cả những chư thần đã từng tồn tại, hoặc sẽ tồn tại trong vũ trụ, và trên ngôi báu đó, ông đặt Chân Ngã con người – tức Ātman, cao siêu hơn mặt trời, mặt trăng, cao siêu hơn những cõi trời, vĩ đại hơn chính cái vũ trụ vĩ đại này.

Không sách vở nào, không kinh điển nào, không khoa học nào có thể hình dung được sự huy hoàng chói lọi của Chân Ngã đang xuất hiện như là con người – đó là Thượng Đế rực rỡ nhất đã từng tồn tại, Thượng Đế duy nhất đã từng tồn tại, và sẽ tồn tại vĩnh viễn.

Bởi vậy, tôi không sùng bái ai ngoài chính Chân Ngã của tôi. “Tôi sùng bái Chân Ngã của mình”, triết gia Advaita nói, “Tôi sẽ cúi đầu trước ai? Tôi cúi đầu trước Chân Ngã. Tôi sẽ cầu xin ai giúp đỡ? Ai có thể giúp được tôi – đấng Hằng Hữu Vô Biên của vũ trụ này?”.

Đừng mơ tưởng đến những giấc mơ xuẩn ngốc. Ai có thể giúp được ai? Không một ai cả. Có khi các bạn thấy một người bạc nhược, một kẻ theo thuyết nhị nguyên, đang khóc lóc cầu xin trời cao phù hộ, đó là vì anh ta không hiểu rằng các cõi trời kia đều đã ở cả trong anh ta rồi.

Anh ta muốn trời cao giúp đỡ, và sự giúp đỡ đó xuất hiện. Chúng ta thấy rằng nó đến, nhưng đến từ bên trong anh ta, và anh ta nhầm lẫn là nó đến từ bên ngoài. Đôi khi, một người bệnh nằm trên giường có thể nghe tiếng gõ cửa. Anh ta đứng dậy, đi ra mở cửa nhưng chẳng thấy ai.

Anh ta quay vào giường, lại nghe tiếng gõ của. Anh ta lại đứng dậy, và đi ra mở cửa. Chẳng có một ai. Cuối cùng, anh ta phát hiện ra đó chính là tiếng đập của trái tim mình, mà anh ta tưởng lầm là tiếng gõ cửa.

Con người cũng vậy, sau khi tìm tòi vô vọng những thần linh ở bên ngoài, sau khi hoàn tất một chu kỳ và quay về lại điểm xuất phát, tức linh hồn con người, anh ta mới phát hiện ra rằng vị Thượng Đế mà anh ta đi tìm ở khắp chân trời góc biển, trong mọi hang cùng ngõ hẻm, trong tất cả đền thờ, chùa chiền, tu viện, vị Thượng Đế mà anh tưởng tượng là đang ngự trị trên thiên đàng và cai trị thế gian, vị đó chính là Chân Ngã của anh ta.

Ta là Ngài, và Ngài là Ta. Chỉ có ta mới chính là Thượng Đế, cái “Tôi” hèn mọn nhỏ bé này chưa hề tồn tại. Làm thế nào một Thượng Đế hoàn hảo lại có thể bị lừa gạt? Không bao giờ. Làm thế nào một Thượng Đế hoàn hảo lại có thể ước mơ? Không bao giờ.

Chân lý không bao giờ ước mơ. Ngay câu hỏi về vọng tưởng phát sinh từ đâu cũng đã là phi lý. Vọng tưởng chỉ phát sinh từ vọng tưởng.

Sẽ không còn vọng tưởng ngay khi ta thấy được chân lý. Vọng tưởng luôn dựa vào vọng tưởng;nó không bao giờ dựa vào Thượng Đế, Chân Lý hay Ātman. Các bạn không bao giờ ở trong vọng tưởng; mà vọng tưởng ở trong các bạn, trước mắt các bạn.

Giả sử ở đây đang có một đám mây, một đám mây khác đến và đẩy dạt nó đi để chiếm chỗ; rồi một đám mây khác nữa cũng đến và đẩy dạt đám mây đó đi.

Giống như bầu trời mãi mãi xanh lơ, cho dù có vô số các đám mây đủ màu xuất hiện trước nó, rồi tan; Ātman cũng thế, vẫn mãi mãi thuần tịnh, vẫn vĩnh viễn hoàn hảo; đó là Chân Ngã của các bạn. Bạn là Thượng Đế chân chính của vũ trụ này; vâng, không hề có hai, chỉ có Nhất Thể.

Thật là lầm lẫn khi nói: “Bạn” và “Tôi”. Chính Tôi đang ăn trong muôn triệu cái miệng; làm sao tôi có thể đói được? Chính Tôi đang làm việc qua vố số bàn tay; làm sao tôi có thể thụ động được? Chính Tôi đang sống xứ sở của toàn thể vũ trụ; đâu là cái chết dành cho tôi? Tôi vượt qua sống chết, thoát khỏi tử sinh.

Tôi sẽ tìm giải thoát ở nơi đâu? Bởi vì tôi đã giải thoát, đã tự do từ bản tính. Ai có thể ràng buộc được tôi – vị Thượng Đế của vũ trụ này? Tất cả kinh điển của thế gian chỉ là những tấm bản đồ nhỏ bé, đang cố gắng miêu tả sự vinh quang rực rỡ của tôi; tôi là sự tồn tại duy nhất.

Vậy thì những cuốn sách đó là gì đối với tôi? Triết gia Advaita đã nói như thế. “Hãy nhận biết Chân Lý và giải thoát trong chốc lát”.

Lúc đó, tất cả bóng đêm đều sẽ tan biến. Khi con người thấy mình đã hợp nhất với Hằng Hữu Vô Biên của vũ trụ rồi, khi mọi sự phân cách không còn nữa, khi tất cả nam nữ, chư thần, thú vật, cây cỏ và toàn thể vũ trụ đều viên dung tương nhập trong Nhất Thể Tính đó thì mọi sợ hãi đều tan biến.

Tôi có thể xúc phạm đến tôi chăng? Tôi có thể giết tôi chăng? Tôi có thể làm tổn thương tôi chăng? Tôi phải sợ ai? Các bạn có thể nào sợ hãi chính mình chăng? Lúc đó, mọi phiền não ưu sầu đều biến sạch. Điều gì có thể khiến tôi ưu ầu? Tôi là Tồn Tại duy nhất.

Mọi sự ganh tỵ, do vậy, cũng sẽ tan biến hết. Tôi ganh tỵ với ai đây? Với chính tôi sao? Mọi ác cảm, do vậy, cũng sẽ tan biến hết.

Tôi ác cảm với ai đây? Với chính tôi sao? Không còn gì trong vũ trụ ngoài tôi. Đây là con đường duy nhất dẫn đến Tri Thức, triết gia Advaita nói như thế. Hãy trừ tuyệt tâm phân biệt, hãy trừ tuyệt óc mê tín cho rằng có sai biệt đa thù.

“Người nào thấy được Nhất Thể trong thế giới sai biệt đa thù này; người nào thấy được kẻ Hữu Tình [ sentient Being] giữa đám đông vô cảm, vô tình này; người nào nắm bắt được Thực Tại trong thế giới tối tăm này thì tâm người đó được an lạc vĩnh cửu, và chỉ người đó thôi, chứ không phải một ai khác”.

Đây là những điểm nổi bật trong ba bước, mà tư tưởng tôn giáo Ấn Độ dùng để hình dung Thượng Đế. Chúng ta đã thấy rằng quan niệm đó bắt đầu với một Thượng Đế Nhân Thể ở bên ngoài vũ trụ.

Nó đi từ một Thượng Đế ở thế giới bên ngoài đến một Thượng Đế trong thế giới nội tâm, một Thượng Đế nội tại trong vũ trụ; và hoàn tất bằng sự đồng nhất chính tự ngã với Thượng Đế đó; và biến tất cả những biểu hiện trong vũ trụ thành một Linh Hồn, một Đơn Thể.

Đó là giáo lý tối hậu của các kinh Veda. Nó khởi đầu bằng thuyết nhị nguyên, kinh qua thuyết phi nhị nguyên hạn chế, và hoàn tất bằng thuyết phi nhị nguyên hoàn hảo.

Chúng ta biết rằng, trong đời này, hiếm có ai có thể đi đến tận cùng, thậm chí hiếm có ai tin vào tư tưởng đó, số người dám hành trì theo tư tưởng đó lại càng hiếm hoi hơn nữa.

Tuy vậy, chúng ta đều biết rằng trong tư tưởng đó chứa đựng cách giải thích về toàn bộ nền luân lý, đạo đức, cũng như tâm linh trong vũ trụ. Tại sao mọi người đều nói: “Hãy làm điều tốt cho người khác”.

Đâu là cách giải thích? Vì sao những người vĩ đại đều truyền giảng về tình huynh đệ giữa con người? Và tại sao những người vĩ đại hơn lại truyền giảng về tình huynh đệ giữa muôn loài sinh vật?

Bởi vì, từ đằng sau tất cả mọi sinh linh, dù họ có biết được điều đó hay không, vẫn tỏa sáng lên – xuyên qua tất cả những điều mê tín phi lý hoặc mang tính cá nhân của họ – ánh linh quang muôn đời của Chân Ngã, phủ nhận mọi sự sai biệt đa thù, và khẳng định toàn thể vũ trụ này là nhất thể.

Lại nữa, lời tối hậu đó ban cho chúng ta một vũ trụ, mà thông qua các giác quan, ta thấy như là vật chất; thông qua trí năng, ta thấy như là các linh hồn; và thông qua Tâm Linh, ta thấy như là Thượng Đế.

Đối với những kẻ tự che lấp mình bằng những thứ mà thế gian gọi là sự độc ác hay tội lỗi thì vũ trụ này sẽ biến đổi và trở thành một nơi kinh tởm; đối với những người cần đến niềm vui thì vũ trụ này sẽ thay đổi hình tướng và trở thành một thiên đàng; đối với một người hoàn hảo thì toàn bộ sự vật sẽ tan biến, để hiển lộ như là Chân Ngã của anh ta.

Giờ đây, trong xã hội hiện đại, cả ba giai đoạn đó đều cần thiết; giai đoạn này không phủ nhận mà chỉ đơn giản là tựu thành giai đoạn kia. Các triết gia Advaita hay triết gia Advaita hạn chế không bảo rằng thuyết nhị nguyên là sai; nó là một quan điểm đúng, nhưng thấp hơn.

Quan điểm đó đang trên đường đi đến Chân Lý. Bởi vậy, hãy để mọi người xác lập quan điểm riêng của mình về vũ trụ, tùy theo ý tưởng của từng người.

Đừng làm tổn thương bất kỳ ai, đừng phủ nhận bất kỳ ai. Hãy đón nhận con người nơi anh ta đứng, và nếu có thể thì các bạn hãy chìa tay ra để giúp anh ta bước lên bậc cao hơn; chớ đừng làm tổn thương, cũng đừng phá hủy.

Cuối cùng, ai nấy cũng đều đến được với Chân Lý. “Khi chế ngự được mọi tham dục trong tâm thì con người bình thường cũng sẽ trở thành bất tử”, chính con người đó sẽ trở thành Thượng Đế.

[1] Lập luận này giống với phương pháp suy luận quy nạp trong toán học.

[2] Tức tiếng Anh.

[3] Tức khái niệm danh và tướng trong tư tưởng Phật giáo.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x