Trang chủ » Lời giới thiệu

Lời giới thiệu

by Trung Kiên Lê
79 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

Tất cả tri thức của chúng ta đều dựa trên kinh nghiệm. Cái mà ta gọi là tri thức suy luận, trong hình thức suy diễn từ cái đặc thù đến cái phổ quát hoặc từ cái phổ quát đến cái đặc thù, cũng đều dựa trên cơ sở kinh nghiệm.

Trong cái mà chúng ta gọi là các bộ môn khoa học chính xác, người ta dễ dàng tìm thấy chân lý, bởi vì chúng cần đến kinh nghiệm đặc thù của mỗi người.

Nhà khoa học không yêu cầu các bạn tin vào bất cứ điều gì một cách mù quáng, mà ông ta đã có được kết quả nào đó từ kinh nghiệm của chính mình; và khi lập luận về chúng, ông ta muốn chúng ta tin vào những kết luận của mình, ông ta cần đến một số kinh nghiệm phổ quát của nhân loại.

Trong mọi bộ môn khoa học chính xác đều có một cơ sở phổ quát mang ý nghĩa chung cho toàn thể nhân loại, bởi vậy chúng ta có thể thấy ngay sự thật hoặc sự giả trá của những kết luận được rút từ đó.

Bây giờ, câu hỏi đặt ra là: liệu tôn giáo có được một cơ sở nào như thế hay không? Tôi sẽ phải đưa ra lời giải đáp theo hai nghĩa: có và không.

Tôn giáo, theo cách nó được thuyết giảng ở khắp nơi trên thế giới, được cho là dựa trên niềm tin và tín ngưỡng, và trong hầu hết các trường hợp, nó chỉ chứa một nhóm lý thuyết khác nhau; đó là lý do ta thấy tất cả các tôn giáo đều cứ luôn tranh cãi với nhau.

Lại nữa, những lý thuyết này đều dựa trên đức tin. Người thì bảo rằng có một đấng Siêu Nhiên ngồi trên mây và cai quản cả vũ trụ này, và buộc tôi phải tin vào điều đó, chỉ căn cứ vào thẩm quyền là sự khẳng định của anh ta.

Tương tự như vậy, tôi cũng có quan điểm riêng của mình và bảo người khác phải tin, nếu họ hỏi lý do thì tôi lại chẳng thể đưa ra được lý do nào.

Đó là lý do vì sao ngày nay tôn giáo và siêu hình học phải chịu mang tiếng xấu. Tất cả những người có học thức dường như đều bảo: “Ồ, tôn giáo chỉ là một mớ lý thuyết chẳng có tiêu chuẩn nào để đánh giá cả, người nào cũng có quan điểm yêu thích của riêng mình”.

Đồng thời, tôi phải bảo các bạn rằng có một cơ sở chung cho tín ngưỡng phổ quát trong tôn giáo; tín ngưỡng đó chi phối mọi lý thuyết khác nhau và tất cả những quan điểm khác nhau của mọi tông phái khác nhau, tại những xứ sở khác nhau.

Đi đến tận nền tảng của chúng, chúng ta thấy rằng chúng cũng dựa trên những kinh nghiệm phổ quát. Trước hết, tôi sẽ yêu cầu các bạn phân tích nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới. Các bạn sẽ thấy rằng chúng được chia thành hai nhóm: một nhóm có kinh sách, một nhóm thì không.

Nhóm có kinh sách là nhóm mạnh hơn, và có số lượng tín đồ đông đảo hơn; còn nhóm không có kinh sách thì hầu như đã suy tàn, và một số ít tôn giáo mới nổi cũng chỉ có được dăm ba tín đồ.

Tuy nhiên, trong tất cả những tôn giáo đó, ta thấy có sự nhất trí trong quan điểm, đó là: chân lý mà chúng thuyết giảng đều là kết quả từ những kinh nghiệm của các nhân vật đặc biệt.

Tín đồ Cơ Đốc giáo bảo các bạn phải tin vào tôn giáo của anh ta, phải tin vào đấng Christ và phải tin rằng Ngài là hóa thân của Thượng Đế, phải tin vào Thượng Đế, tin vào linh hồn và trạng thái tốt đẹp hơn của linh hồn đó. Nếu tôi hỏi lý do thì họ bảo là họ chỉ biết tin như thế.

Nhưng nếu đi sâu vào căn nguyên của Cơ Đốc giáo, các bạn sẽ thấy rằng nó dựa trên kinh nghiệm. Đấng Christ bảo rằng Ngài thấy Thượng Đế, môn đồ thì bảo rằng rằng họ cảm nhận được Thượng Đế, v.v… Cũng tương tự như thế trong Phật giáo, đó là kinh nghiệm của Đức Phật.

Ngài trải nghiệm được những chân lý nào đó, trực kiến được chúng, tiếp xúc với chúng, và thuyết giảng chúng cho thế giới. Ấn giáo cũng thế, trong kinh điển họ, những vị được gọi là rishi – hay các nhà hiền triết – tuyên bố rằng họ đã trải nghiệm được những chân lý nào đó, và thuyết giảng chúng.

Như thế, rõ ràng là mọi tôn giáo trên thế giới đều được xây dựng trên một cơ sở phổ quát và rắn như kim cương của toàn thể tri thức của chúng ta – nghĩa là kinh nghiệm trực tiếp.

Tất cả các bậc đạo sư đều thấy Thượng Đế, các vị đó đều thấy linh hồn mình, thấy được tương lai và sự thường tồn vĩnh cửu của linh hồn, và các vị đó thuyết giảng những gì họ thấy được.

Chỉ có một điểm khác biệt, đó là trong hầu hết những tôn giáo đó, nhất là trong thời hiện đại, người ta đã khẳng định một cách quái lạ rằng những kinh nghiệm đó không thể xảy ra trong thời hiện tại, mà chúng chỉ có thể xảy ra với một số ít người, đó là những vị giáo chủ sáng lập ra những tôn giáo mang tên họ.

Trong thời hiện tại, những kinh nghiệm đó đã trở nên quá xa xưa, và do đó, chúng ta giờ đây phải chấp nhận tôn giáo vì đức tin. Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này.

Trong thế giới này, nếu đã có người trải qua một kinh nghiệm trong bất kỳ lĩnh vực tri thức đặc thù nào thì nhất định kinh nghiệm đó có thể đã diễn ra hàng triệu lần trước đó rồi, và sẽ được lặp đi lặp lại cho đến vô cùng. Nhất quán là định luật nghiêm khắc của tự nhiên; điều gì đã xảy ra một lần thì có thể xảy ra luôn luôn.

Các vị đạo sư của khoa học Rāja-yoga, do đó, tuyên bố tôn giáo không chỉ dựa trên những kinh nghiệm của thời cổ, và người chưa tự mình đạt được những kinh nghiệm tương tự thì chưa phải là người tu đạo. Yoga là khoa học dạy ta cách đạt được những kinh nghiệm đó.

Bàn suông về tôn giáo chẳng có ích lợi gì, chừng nào ta còn chưa cảm nhận được nó. Vì sao có quá nhiều nhiễu loạn, có quá nhiều cuộc chiến tranh và tranh cãi nhân danh Thượng Đế? Cảnh máu đổ vì Thượng Đế còn nhiều hơn vì bất cứ nguyên nhân nào khác, bởi vì người ta chưa bao giờ đi đến cội nguồn; họ chỉ việc hài lòng chấp nhận những phong tục tập quán của ông cha, và muốn người khác cũng phải làm như thế.

Con người có quyền gì mà nói rằng mình có linh hồn, nếu chưa cảm nhận được nó; hoặc có quyền gì mà nói rằng có Thượng Đế, nếu chưa thấy được Ngài? Nếu có Thượng Đế thì chúng ta phải thấy được Ngài, nếu có linh hồn thì chúng ta phải cảm nhận được nó; nếu không, thà đừng tin còn hơn.

Thà công khai làm một kẻ vô thần còn hơn làm kẻ đạo đức giả.

Theo quan niệm hiện nay, một mặt thì “giới học thức” cho rằng tôn giáo và siêu hình học, sau tất cả những công cuộc tìm cầu một đấng Tối Cao, đều tỏ ra vô ích; mặt khác, “giới học thức nửa vời” thì dường như cho rằng những điều này thực ra không có cơ sở chi cả, và giá trị duy nhất của chúng nằm ở chỗ chúng cung cấp những nguyên động lực mạnh mẽ để con người làm việc thiện cho đời.

Nếu con người tin vào Thượng Đế thì họ trở nên tốt đẹp, và đạo đức, và như thế là làm công dân tốt.

Chúng ta không thể trách là họ cứ giữ lấy những quan niệm đó, vì chúng ta thấy rằng tất cả những lời dạy mà con người tiếp thu chỉ là cứ tin vào một mớ ngôn từ vĩnh cửu đầy rối rắm, dông dài mà không có lấy một chút thực chất nào bên trong.

Con người bị yêu cầu phải sống theo những lời dạy đó. Họ có thể làm được điều đó hay không? Nếu như họ làm được thì tôi chẳng còn một chút kính trọng nào đối với bản tính con người. Con người cần đến chân lý, muốn tự mình trải nghiệm chân lý.

Khi họ nắm bắt được chân lý, thực chứng được chân lý, và cảm nhận được nó trong tận trái tim mình thì chỉ lúc đó thôi, như kinh Veda tuyên bố, mọi nghi ngờ mới biến mất, mọi tăm tối mới bị xua tan, và mọi điều gian xảo mới trở nên trung thực.

“Hỡi những người con bất tử, cả những người sống trong cảnh giới tối cao, con đường đã được tìm ra rồi; có một con đường dẫn ra khỏi cõi tối tăm, và đó là con đường nhận thức được Ngài, đấng vượt lên trên mọi cảnh tối tăm. Không có con đường nào khác”.

Khoa học Rāja-yoga đề nghị với nhân loại một phương pháp thực tiễn, được trình bày một cách khoa học để đạt đến chân lý đó. Trước tiên, mọi bộ môn khoa học đều có phương pháp nghiên cứu riêng.

Nếu các bạn muốn trở thành một nhà thiên văn học, mà cứ ngồi một chỗ và gào: “Thiên văn học! Thiên văn học!” thì nó sẽ không bao giờ đến với các bạn. Đối với hóa học cũng không khác.

Cần phải theo một số phương pháp nhất định. Các bạn phải đi đến một phòng thí nghiệm, lấy một số hóa chất khác nhau trộn lại, kết hợp chúng với nhau, thử nghiệm chúng, từ đó các bạn mới có tri thức về hóa học.

Nếu muốn trở thành một nhà thiên văn học, các bạn phải đến một đài thiên văn, dùng viễn vọng kính nghiên cứu các vì sao cùng những hành tinh thì các bạn mới trở thành một nhà thiên văn học được. Mỗi bộ môn khoa học đều phương pháp riêng của nó.

Tôi có thể giảng cho các bạn hàng ngàn bài thuyết pháp, nhưng chúng không thể biến các bạn thành người có đạo tâm được, cho đến khi nào các bạn bắt đầu thực hành theo những phương pháp đó.

Đó là chân lý được thuyết giảng bởi những vị hiền triết ở mọi quốc gia trong mọi thời đại, bởi những vị có tâm thuần tịnh và vị tha – những người không có động cơ nào khác ngoài việc làm đều thiện cho thế gian.

Tất cả những vị đó đều tuyên bố rằng họ đã tìm thấy một chân lý cao siêu hơn những gì giác quan có thể mang lại cho ta, và họ mời chúng ta xác minh. Họ yêu cầu chúng ta tiếp thu phương pháp đó, và thực hành một cách chân thành.

Sau đó, nếu như không tìm thấy được chân lý cao siêu đó thì chúng ta mới có quyền nói chẳng có chân lý gì trong lời khẳng định đó, nhưng trước khi làm vậy mà chúng ta lại phủ nhận những lời khẳng định đó thì điều đó không hợp lý.

Bởi vậy, chúng ta phải làm việc một cách chân thành, vận dụng các phương pháp đã được chỉ dạy, rồi ánh sáng sẽ đến. Khi thu hoạch tri thức, chúng ta dùng phương pháp khái quát hóa, và phương pháp khái quát hóa thì dựa trên quan sát.

Trước tiên, chúng ta quan sát những sự kiện, rồi khái quát hóa chúng và rút ra những kết luận hoặc lập thành các nguyên tắc. Tri thức về tâm trí, về bản chất nội tại của con người, của tư tưởng sẽ không có được, nếu như trước tiên chúng ta không phát huy được năng lực quan sát những sự kiện diễn ra bên trong.

Quan sát những sự kiện thuộc thế giới bên ngoài là điều tương đối dễ dàng, và hàng ngàn khí cụ đã được phát minh nhằm vào mục đích đó; nhưng đối với thế giới nội tâm thì chẳng có khí cụ nào giúp được chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết cần phải quan sát để có được một khoa học thực sự.

Không có sự phân tích thích hợp thì khoa học nào cũng đều vô vọng và chỉ thuần là lý thuyết, và đó là lý do mà các nhà tâm lý học đã tranh cãi với nhau từ thuở khai thiên lập địa, trừ một số ít người tìm ra được phương tiện quan sát.

Trước hết, khoa học Rāja-yoga đề nghị cung cấp cho con người phương tiện như thế để quan sát các trạng thái nội tâm, và khí cụ đó chính là tâm trí. Năng lực chú ý của tâm trí, khi được hướng dẫn thích hợp để hướng đến thế giới nội tâm, sẽ phân tích tâm trí và soi sáng những sự kiện cho ta thấy rõ.

Năng lực của tâm trí giống như những tia sáng bị tản mác, khi tập trung lại thì chúng có khả năng soi sáng. Đó là phương tiện thu hoạch tri thức duy nhất của chúng ta.

Mọi người đều vận dụng nó vào thế giới ngoại tại lẫn thế giới nội tâm, nhưng đối với nhà tâm lý học thì sự quan sát nhỏ nhoi, mà con người khoa học có thể hướng đến thế giới ngoại tại, cũng sẽ được hướng vào thế giới nội tâm, và điều đó đòi hỏi phải thực hành rất nhiều.

Từ bé đến lớn, chúng ta chỉ được dạy cách chú ý đến những sự vật bên ngoài, chứ không bao giờ chú ý đến những sự vật bên trong, và phần lớn chúng ta hầu như đều đánh mất kỹ năng quan sát cơ chế hoạt động bên trong.

Chuyển ngược tâm trí, có thể nói vậy, vào bên trong, bắt nó ngừng hướng ra ngoài, rồi tập trung toàn bộ năng lực của nó và phóng những năng lực đó lên trên chính tâm trí, để tâm trí có thể biết được tự tính của mình, tự phân tích lấy mình, đó là công việc vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, đó là phương pháp duy nhất để tiếp cận chủ đề này một cách khoa học. Tri thức như thế dùng để làm gì? Trước hết, tri thức tự nó đã là phần thưởng cao quý nhất cho nó rồi, thứ hai là cũng có lợi ích trong đó. Tri thức sẽ xua tan nỗi khốn khổ của chúng ta.

Khi mà nhờ vào sự phân tích tâm trí mình, con người phải đối mặt, có thể nói như vậy, với một cái gì đó chưa từng hoại diệt, một cái gì đó vĩnh viễn thuần tịnh và hoàn hảo tự bản chất thì họ không còn khốn khổ hay bất hạnh nữa. Mọi khốn khổ xảy đến là do sợ hãi, do ước vọng không thành.

Khi con người thấy rằng mình không bao giờ chết thì họ sẽ không còn sợ hãi cái chết. Khi con người thấy rằng mình hoàn hảo thì họ sẽ không còn ước vọng hão huyền. Và khi cả nguyên nhân này đều vắng mặt thì sẽ không còn khốn khổ nữa – sẽ có một niềm lạc phúc thường hằng, ngay trong thể xác này.

Chỉ có một phương pháp duy nhất để đạt đến tri thức này, được gọi là phương pháp tập trung tư tưởng. Nhà hóa học trong phòng thí nghiệm tập trung toàn bộ năng lực tâm trí vào một tiêu điểm, và phóng chúng lên những chất liệu mà ông ta đang phân tích, và nhờ đó mà tìm ra được những điều bí ẩn.

Nhà thiên văn học tập trung toàn bộ năng lực tâm trí và phóng chúng lên bầu trời qua các viễn vọng kính, nhờ đó mà mặt trời, mặt trăng cùng muôn vì tinh tú hiển lộ cho ông ta thấy những điều bí ẩn của chúng. Tôi càng tập trung tư tưởng vào đề tài mà tôi đang trình bày cho các bạn thì tôi càng diễn giải nó rõ ràng thêm.

Các bạn đang lắng nghe tôi, nếu càng tập trung tư tưởng thì các bạn càng sẽ nắm bắt được những điều tôi muốn nói. Toàn bộ khối tri thức trên thế gian này đã được thu hoạch bằng cách nào, nếu không phải bằng cách tập trung năng lực tinh thần?

Thiên nhiên sẵn sàng hiển lộ những điều bí ẩn của chúng nếu như chúng ta biết cách gõ, biết cách trao cho nó một cú đập cần thiết. Sức mạnh và lực của cái gõ đó sẽ đến từ sự tập trung tư tưởng. Năng lực của tâm trí con người không hề có giới hạn.

Tâm trí càng tập trung thì năng lực tại một điểm duy nhất càng phát sinh mãnh liệt. Đó là bí quyết.

Tập trung tâm trí vào những sự vật bên ngoài là điều rất dễ, vì tâm trí có bản chất hướng ngoại tự nhiên, nhưng trong trường hợp tôn giáo, tâm lý học, hay siêu hình học thì không dễ như vậy, vì chủ thể và khách thể là một. Khách thể ở bên trong: chính tâm trí là khách thể.

Cần phải nghiên cứu chính tâm trí: tâm trí nghiên cứu chính mình. Chúng ta biết có một năng lực của tâm trí gọi là phản tư [ reflective]. Tôi đang nói chuyện cùng các bạn, đồng thời tôi cũng đang đứng qua một bên làm người thứ hai, biết và lắng nghe những gì tôi đang nói.

Các bạn làm việc và suy tưởng thì đồng thời một bộ phận khác của tâm trí cũng đứng qua một bên và xem các bạn đang suy tưởng những gì.

Những năng lực của tâm trí có thể được tập trung và chuyển ngược về chính nó, khi mọi ngóc ngách tối tăm nhất đều phơi bày bí ẩn ra trước những tia sáng xuyên thấu của mặt trời như thế nào thì tâm trí tập trung đó cũng sẽ xuyên thấu mọi điều huyền ẩn trong nội tâm như thế ấy.

Như thế, chúng ta sẽ đi đến tận nền tảng của đức tin, đó là tôn giáo chân chính thực sự. Lúc đó chúng ta sẽ tự nhận thức được quả thật chúng ta có một linh hồn hay không, cuộc sống là vô thường hay vĩnh cửu, có Thượng Đế trong vũ trụ này hay không.

Tất cả đều phơi bày ra trước chúng ta. Đó chính là điều mà Rāja-yoga muốn dạy cho chúng ta.

Toàn bộ nội dung thuyết giảng đều có một mục tiêu duy nhất, đó là làm cách nào để tập trung tâm trí, làm thế nào để khám phá những sự kiện trong tâm trí, rồi làm thế nào để khái quát hóa những sự kiện đó và từ đó đúc kết nên những kết luận riêng cho chúng ta.

Nó không bao giờ nêu câu hỏi chúng ta theo tôn giáo nào, không cần biết chúng ta là những kẻ vô thần hay đa thần, không cần biết chúng ta là tín đồ của Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, hay Phật giáo. Chúng ta là con người, chừng đó là đủ.

Mọi người đều có quyền và có năng lực đi tìm cho mình một tôn giáo, mọi người đều có quyền đặt câu hỏi “vì sao?”, và phải tự mình tìm ra lời giải đáp – nếu như họ nỗ lực. Vậy thì cho đến lúc này, chúng ta thấy rằng trong việc nghiên cứu Rāja-yoga chẳng cần gì đến sự tin tưởng hay đức tin.

Đừng tin vào bất cứ điều gì, cho đến chừng nào các bạn tự mình khám phá ra điều đó, đó là những gì Rāja-yoga dạy cho chúng ta.

Chân lý không cần đến một trụ đỡ nào mới đứng vững. Có phải ý các bạn muốn nói rằng những dữ kiện về trạng thái thức tỉnh của chúng ta có đòi hỏi đến một giấc mơ nào hay một sự tưởng tượng nào để chứng minh chúng hay không? Chắc chắn là không.

Nghiên cứu Rāja-yoga đòi hỏi nhiều thời gian và phải thường xuyên thực hành. Một phần thực hành thuộc về thể xác, nhưng phần chủ yếu là tinh thần. Trong quá trình thực hành, các bạn sẽ thấy rằng tâm trí và thể xác liên quan mật thiết với nhau như thế nào.

Nếu chúng ta tin rằng tâm trí chỉ là phần tế vi của thể xác và tác động đến thể xác thì lẽ đương nhiên là thể xác cũng tác động đến tâm trí. Nếu thể xác đau ốm thì tâm trí cũng đau ốm theo. Nếu thể xác khỏe mạnh thì tâm trí cũng khỏe mạnh và cường tráng.

Khi một người giận dữ thì tâm trí bị rối loạn, và khi thể xác bị rối loạn thì tâm trí cũng rối loạn theo. Với phần lớn nhân loại thì tâm trí hoàn toàn nằm dưới sự điều khiển của thể xác, tâm trí họ rất kém mở mang. Nếu các bạn rộng lòng bỏ lỗi thì đa số nhân loại vẫn chưa tiến hóa hơn loài thú là bao nhiêu.

Không những thế, về nhiều phương diện khác thì năng lực kiểm soát của con người chỉ hơn loài thú một đôi chút. Chúng ta có rất ít quyền điều khiển đối với tâm trí mình.

Bởi vậy, muốn tạo ra quyền lực đó, muốn điều khiển cả thể xác lẫn tâm trí, chúng ta buộc phải nhờ đến những sự trợ giúp nào đó về thể xác, khi thể xác được kiểm soát một cách đầy đủ thì chúng ta mới có thể cố gắng vận dụng được tâm trí.

Bằng cách vận dụng tâm trí, chúng ta có thể đặt nó dưới quyền điều khiển của mình, bắt nó làm việc theo cách ta thích, và buộc nó tập trung năng lực theo ý muốn của ta. Theo các hành giả rāja-yogi, toàn bộ thế giới ngoại tại chỉ là hình thức thô phù của thế giới nội tâm tinh tế.

Cái tế vi hơn thì luôn là nhân, còn cái thô phù hơn là quả. Bởi vậy, thế giới ngoại tại là quả, còn thế giới nội tâm là nhân. Theo cách tương tự, các lực bên ngoài chỉ là phần thô, còn các lực bên trong mới là phần tế vi.

Người nào đã khám phá ra và học hỏi được cách vận dụng các lực bên trong thì sẽ đặt toàn thể thiên nhiên dưới quyền điều khiển của mình. Các hành giả yogi không đặt ra cho mình một công việc nào khác hơn là làm chủ được toàn thể vũ trụ, điều khiển được trọn thế giới tự nhiên.

Họ muốn đạt đến cảnh giới, nơi mà những thứ chúng ta gọi là định luật tự nhiên sẽ không còn ảnh hưởng đến họ nữa, nơi mà họ có quyền năng vượt ra khỏi các định luật đó. Họ sẽ làm chủ toàn thể thiên nhiên, bên trong lẫn bên ngoài. Sự tiến bộ và nền văn minh của nhân loại chỉ là sự chế ngự thiên nhiên mà thôi.

Các dân tộc khác nhau chế ngự thiên nhiên theo nhiều quy trình khác nhau. Cũng như trong cùng một xã hội mà kẻ thì muốn chế ngự ngoại giới, người thì muốn chế ngự nội tâm, đối với các dân tộc cũng không khác, dân tộc này thì muốn chế ngự ngoại giới, dân tộc khác thì lại muốn chế ngự nội tâm.

Kẻ thì bảo rằng hễ chế ngự được bản tính bên trong thì ta chế ngự được mọi thứ, người khác lại cho rằng hễ chế ngự được ngoại giới thì ta chế ngự được mọi thứ. Suy cho cùng thì cả hai đều đúng, bởi vì các bạn thấy trong thiên nhiên chẳng hề có sự phân chia trong với ngoài.

Đó là một giới hạn tưởng tượng chưa bao giờ tồn tại. Khi cả hai loại người hướng nội và hướng ngoại đó đều đạt đến chỗ tận cùng của tri thức thì nhất định họ sẽ gặp nhau.

Một nhà vật lý học, khi đẩy tri thức của mình đến chỗ tận cùng, thấy nó tan đi trong siêu hình học như thế nào thì một nhà siêu hình học sẽ thấy rằng cái mà họ gọi là tâm và vật cũng chỉ là những thứ phân biệt bên ngoài, rốt cuộc cũng sẽ tan biến hết.

Cứu cánh và mục tiêu của mọi bộ môn khoa học là tìm cho ra cái Đơn Nhất, cái Nhất Thể, mà từ đó phát sinh ra tất cả những hiện tượng sai biệt đa thù – cái Nhất Thể hiện hữu như là đa hình tướng.

Rāja-yoga đề nghị bắt đầu từ thế giới nội tâm để nghiên cứu bản tính bên trong, rồi thông qua đó mới chế ngự toàn thể – cả nội tâm lẫn ngoại giới. Nỗ lực đó đã có từ thời xa xưa. Ấn Độ đã là một pháo đài đặc biệt của nỗ lực này, nhưng các quốc gia khác cũng nỗ lực làm điều đó.

Tại các nước phương Tây, nó được cho là ma thuật. Những người muốn thực hành nó đều bị xem là phù thủy, và bị thiêu sống hoặc tử hình. Tại Ấn Độ, vì nhiều lý do, nó rơi vào tay những người phá hủy hết chín mươi phần trăm tri thức, và biến mười phần trăm còn lại thành những điều huyền bí.

Trong thời hiện đại, ở phương Tây, người ta thấy có nhiều vị gọi là đạo sư, nhưng họ còn tồi tệ hơn những người ở Ấn Độ, bởi vì những diễn viên này chẳng biết một chút gì, trong khi những người ở Ấn Độ còn biết được một đôi điều.

Trong pháp môn Yoga này, bất cứ thứ gì mang tính bí ẩn hoặc huyền bí đều cần bị loại bỏ ngay lập tức. Sự hướng dẫn tối ưu trong cuộc sống là sức mạnh.

Trong tôn giáo, cũng như trong bất cứ điều gì khác, hãy vất bỏ tất cả những thứ làm cho các bạn yếu đuối, suy nhược, đừng quan tâm gì đến chúng. Trò buôn bán ma thuật làm suy nhược bộ não con người. Do đó mà nó hầu như đã hủy diệt khoa học Yoga, một trong những bộ môn khoa học vĩ đại nhất.

Kể từ lúc được khám phá ra, cách đây hơn bốn ngàn năm, Yoga đã được phác thảo, định hình và thuyết giảng một cách hoàn hảo. Thật là điều đáng kinh ngạc khi các nhà chú giải càng hiện đại thì càng phạm sai lầm về nó, trong khi người người viết ra nó, càng cổ xưa thì càng hợp lý.

Như thế, nó rơi vào tay của một thiểu số, những người này biến nó thành một điều bí ẩn, thay vì đưa nó ra dưới ánh sáng mặt trời để lý tính sáng soi cho nó. Họ làm thế để giữ được uy quyền đối với pháp môn này. Trước hết, chẳng có gì là huyền bí trong những gì tôi thuyết giảng cả.

Tôi sẽ trình bày cho các bạn những hiểu biết ít ỏi của mình. Trong chừng mực có thể lý giải được nội dung thì tôi sẽ làm vậy, còn đối với những gì tôi không hiểu được thì tôi chỉ đơn giản bảo với các bạn rằng đó là lời kinh điển nói. Tin tưởng mù quáng là điều không đúng.

Các bạn phải vận dụng lý trí và óc phán đoán, và bằng kinh nghiệm, các bạn xem thử những sự việc đó có xảy ra hay không. Các bạn muốn tiếp thu một bộ môn khoa học bất kỳ bằng cách nào thì các bạn cũng nên tiếp thu khoa học này bằng cách đó để mà nghiên cứu.

Chẳng có gì là huyền bí hay nguy hiểm trong đó cả. Chừng nào nó còn là chân lý thì nó nên được thuyết giảng công khai trên đường phố đông người, giữa thanh thiên bạch nhật. Mọi nỗ lực thần bí hóa những điều đó chỉ tạo ra những nỗi nguy hiểm không cùng.

Trước khi đi xa hơn, tôi sẽ trình bày với các bạn đôi chút về triết học Sāmkhya, toàn bộ Rāja-yoga dựa trên nền triết học này.

Theo triết học này thì nhận thức được phát sinh như sau: những ấn tượng từ sự vật ngoại giới được các khí cụ bên ngoài chuyển các trung tâm não bộ tương ứng, tức là các giác quan, các giác quan chuyển những ấn tượng đó đến tâm trí, tâm trí chuyển tiếp đến cơ quan quyết định, từ đây, Purusha, hay Linh Hồn, tiếp nhận nó, khi phát sinh ra nhận thức.

Tiếp theo đó, Purusha ban lệnh ngược lại cho các trung tâm vận động để thi hành những điều cần thiết. Ngoài Purusha ra thì tất cả những thứ đó đều là chất liệu, nhưng tâm trí thuộc chất liệu tế vi hơn những khí cụ bên ngoài.

Chất liệu cấu tạo nên tâm trí trở nên thô hơn và biến thành cái gọi là các tanmātra. Càng lúc nó càng trở nên thô hơn nữa, và tạo thành vật chất ngoại giới. Đó là tâm lý học của trường phái Sāmkhya. Như vậy giữa trí năng và vật chất thô bên ngoài chỉ khác nhau về cấp độ.

Purusha là sự vật thông minh duy nhất. Tâm trí là một khí cụ nằm trong tay của linh hồn, có thể nói như vậy, để nhờ đó mà linh hồn nắm bắt được những đối tượng ngoại giới. Tâm trí thường xuyên chuyển biến – chạy từ đối tượng này sang đối tượng khác.

Khi thì nó tự gắn kết với một vài giác quan, khi thì gắn kết với chỉ một giác quan, khi thì không gắn kết với giác quan nào.

Chẳng hạn, nếu tôi chăm chú lắng nghe tiếng kim đồng hồ thì có thể tôi sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ gì mặc dù mắt tôi vẫn mở lớn, chứng tỏ tâm trí không gắn kết với thị giác trong khi đang gắn kết với thính giác. Đôi khi tâm trí gắn kết với mọi giác quan cùng một lúc.

Tâm trí có năng lực phản tư là hồi quang phản chiếu, nhìn vào tận phần sâu thẳm của mình. Năng lực phản tư đó là cái mà các hành giả yogi muốn đạt đến, bằng cách tập trung năng lực của tâm trí và chuyển ngược nó vào trong, họ tìm hiểu những gì diễn ra ở bên trong nội tâm.

Trong việc này, chẳng có vấn đề đức tin suông, mà nó là sự phân tích của một số triết gia nào đó. Các nhà tâm lý học hiện đại bảo các bạn rằng đôi mắt không phải là cơ quan của thị giác, mà cơ quan đó nằm tại trung tâm thần kinh của bộ não, tất cả các giác quan khác cũng vậy.

Và họ cũng bảo với các bạn rằng các trung tâm thần kinh đó đều được tạo bởi một loại chất liệu giống như chính bộ não. Triết học Sāmkhya cũng sẽ bảo với các bạn điều tương tự.

Cái trước là lời phát biểu trên phương diện vật lý, còn cái sau là lời phát biểu trên phương diện tâm lý, tuy nhiên cái hai đều như nhau.

Lĩnh vực nghiên cứu của chúng ta nằm đằng sau những thứ này. Các hành giả yogi đặt ra mục tiêu là đạt đến một trạng thái nhận thức tế vi, trong đó họ có thể nhận thức được mọi trạng thái tinh thần khác nhau.

Hẳn phải có sự nhận thức tinh thần về tất cả những trạng thái khác nhau đó.

Ta sẽ nhận thức được, ngay khi một giác quan bên ngoài tiếp xúc với một đối tượng, cảm thụ phát sinh như thế nào, cảm thụ đó được một dây thần kinh đặc biệt truyền tới trung tâm thần kinh ra sao, làm thế nào để tâm trí đón nhận nó, rồi truyền nó đến với cơ quan quyết định, và cuối cùng là truyền tới Purusha.

Tất cả các bước đó đều được quan sát, từng bước một. Mỗi khoa học đều đòi hỏi những sự chuẩn bị nào đó và có phương pháp riêng, cần phải tuân thủ thì mới hiểu được nó, Rāja-yoga cũng không khác.

Một số những quy định liên quan đến thực phẩm là rất cần thiết: chúng ta chỉ được dùng những thực phẩm đem lại trạng thái thuần tịnh nhất cho tâm trí.

Nếu đi đến một vườn thú, các bạn sẽ thấy điều này được chứng minh ngay lập tức. Các bạn thấy những con voi, đó là những con thú khổng lồ nhưng trầm tĩnh và dịu dàng; nếu đi đến chuồng cọp và sư tử, các bạn sẽ thấy chúng rất hiếu động, điều đó chứng tỏ thực phẩm đã tạo nên sự khác biệt biết bao.

Tất cả những sức mạnh đang hoạt động trong thể xác này đều được tạo ra từ thực phẩm, chúng ta thấy được điều đó mỗi ngày. Nếu các bạn bắt đầu nhịn đói thì trước tiên cơ thể các bạn sẽ trở nên yếu đuối, sức mạnh thể xác sẽ chịu tổn thương, sau một vài ngày thì sức mạnh tinh thần cũng tổn thương theo.

Trước tiên là các bạn mất trí nhớ. Rồi đến một lúc nào đó, các bạn không thể suy nghĩ được nữa, lại càng không thể suy luận theo cách nào được cả.

Bởi vậy, cần phải quan tâm đến những loại thực phẩm mà chúng ta ăn từ lúc ban đầu, và khi đã đủ sức mạnh, khi đã luyện tập thuần thục rồi thì chúng ta không cần phải quá cẩn trọng trong vấn đề này nữa.

Khi một cây con đang phát triển, người ta phải rào chắn chung quanh để nó khỏi bị phá hỏng, nhưng khi nó đã trở thành một cây lớn thì phải bỏ rào chắn kia đi, vì nó đã đủ mạnh để đứng vững trước mọi cuộc tấn công. Một hành giả yogi phải tránh hai cực đoan: xa xỉ và khổ hạnh.

Ông ta không được nhịn đói, hay đày đọa thể xác. Người nào làm thế thì, theo lời kinh Bhagavad Gitā, không thể là một hành giả yogi, kẻ nào nhịn đói, kẻ nào luôn thức không ngủ, kẻ nào ngủ nhiều, kẻ nào làm việc quá nhiều hoặc không làm việc thì chẳng ai có thể là hành giả yogi.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x