Trang chủ » Pháp môn tu học

Pháp môn tu học

by Trung Kiên Lê
97 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

Điều cần quan tâm tiếp theo là cái mà chúng ta gọi là Ishta – Nishthā, hay sự hồi hướng tâm ý đến “Lý tưởng tu học”. Người nào có nhiệt tâm muốn trở thành một hành giả bhakta thì phải hiểu rằng “có bao nhiêu quan niệm là có bấy nhiêu pháp môn”.

Họ phải hiểu rằng tất cả sự đa dạng của những tông phái thuộc nhiều các tôn giáo khác nhau đều là sự biểu hiện đa dạng niềm vinh quang của cùng một Thượng Đế.

“Họ gọi tên Ngài bằng rất nhiều danh hiệu; họ phân chia Ngài, có thể nói như vậy, bằng vô vàn danh hiệu khác nhau, nhưng mỗi danh hiệu đều nói lên sự Toàn Năng của Ngài… Ngài đến với tín đồ thông qua tất cả những danh hiệu đó; không có một khoảng thời điểm đặc biệt nào dành cho việc sùng bái Thượng Đế, chừng nào linh hồn còn yêu thương Ngài bằng tình yêu mãnh liệt.

Ngài dễ dàng tiếp cận xiết bao, thật là điều bất hạnh khi con người không thể yêu thương Ngài”.

Không chỉ có thế. Một hành giả bhakta phải không được ôm lòng căm ghét, thậm chí không được phê phán những người con của ánh hào quang giác ngộ – những vị sáng lập nên những tông phái khác nhau; thậm chí anh ta không được quyền nghe những lời nói xấu về các vị đó.

Thực ra, rất ít người có ngay được sự đồng cảm sâu sắc, năng lực thẩm định cũng như tình yêu mãnh liệt đó.

Chúng ta thấy rằng, như một theo quy luật, hễ những tông phái nào mang tinh thần phóng khoáng và có sự đồng cảm thì lại đánh mất tính mãnh liệt trong cảm xúc tôn giáo, và trong tay họ, tôn giáo dễ dàng suy đồi thành một tổ chức mang tính xã hội – chính trị trong đời sống.

Mặt khác, những giáo hội vô cùng nhỏ, trong khi phô bày tình yêu đáng ca ngợi đối với lý tưởng của họ, lại cho ta thấy họ thu hoạch được từng chút tình yêu đó bằng sự căm ghét bất kỳ ai không có đúng quan điểm với mình.

Cầu xin Thượng Đế hãy để cho thế gian này đầy những người có tình yêu thương mãnh liệt như sự đồng cảm của họ với toàn thế giới! Nhưng những người như thế lại quá đỗi hiếm hoi.

Tuy nhiên, chúng ta biết rằng giáo dục cho nhiều người hướng đến lý tưởng kết hợp một cách diệu kỳ giữa phạm vi và cường độ của tình yêu là điều mang tính thực tiễn; và phương pháp để thực hiện điều này là pháp môn Ishta – nishthā.

Mỗi tông phái trong mọi tôn giáo chỉ đại diện cho một lý tưởng của riêng nó đối với nhân loại; còn tôn giáo Vedānta vĩnh cửu thì mở ra cho nhân loại vô lượng pháp môn để đi sâu vào bên trong Linh Điện; và nó đặt trước nhân loại hầu như vô lượng vô biên các lý tưởng, mà mỗi lý tưởng đó đều là một dạng hiển lộ của Nhất Thể Thường Hằng.

Bằng sự quan tâm ân cần nhất, triết học Vedānta chỉ ra cho những tín đồ nhiệt tâm vô số pháp môn được đẽo gọt từ tảng đá rắn của những hoàn cảnh thực tiễn trong đời sống nhân loại bởi những người con huy hoàng thông tuệ – những người con được xem là hóa thân của Thượng Đế mang thể xác con người trong quá khứ và hiện tại, đang đứng với vòng tay giang rộng để đón chào tất cả loài người, đón chào cả những người còn chưa hiện hữu trong tương lai, đến với Quê Hương Chân Lý và Đại Dương Lạc Phúc, nơi mà linh hồn con người – sau khi giải thoát khỏi mạng lưới māyā – có thể đạt đến cảnh giới tự do viên mãn và hỷ lạc vĩnh hằng.

Hành giả bhakta, do đó, đặt ra cho chúng ta một mệnh lệnh là không được căm ghét hay chối bỏ bất cứ người nào đi theo những pháp môn khác để hướng đến giải thoát.

Tuy nhiên, một cây đang lớn cũng cần phải được rào chắn chung quanh để bảo vệ, cho đến khi nó trở thành một cây lớn mạnh hoàn toàn. Cây tâm linh mềm yếu sẽ chết yểu, nếu bị phơi ra quá sớm trước những quan niệm và lý tưởng biến đổi không ngừng.

Ta thấy có nhiều người, nhân danh cái tạm gọi là tự do tôn giáo, nuôi lớn thói hiếu kỳ nhàn rỗi của họ bằng cách liên tục chạy theo hết lý tưởng này đến lý tưởng khác.

Với những người đó, thói tò mò muốn nghe những điều mới lạ đã phát triển thành một căn bệnh: bệnh nghiện tôn giáo.

Họ muốn những điều mới lạ chỉ nhằm để đón nhận được một kích thích thần kinh tạm thời, và khi hiệu quả của sự kích thích như thế đã tác động lên họ rồi thì họ lại sẵn sàng cho một kích thích thần kinh khác. Với hạng người này thì tôn giáo là một loại thuốc phiện tri thức, và chỉ có thế thôi.

“Còn có một loại người khác”, Tôn giả Ramakrishna nói, “họ giống như con trai trong câu chuyện này. Con trai rời chỗ nằm của nó dưới đáy biển, trồi lên mặt nước để đón hạt mưa rơi, khi vì sao Śvati giáng thế.

Nó mở rộng vỏ để trôi bồng bềnh trên mặt biển; rồi nó lặn sâu xuống đáy biển, nằm yên lặng ở đó, cho đến khi tạo ra được một viên ngọc đẹp đẽ từ hạt nước mưa kia”.

Đây là cách mô tả sinh động nhất và thơ mộng nhất về pháp môn Ishta – nishthā. Eka – nishthā, hay sự hồi hướng tâm ý đến một lý tưởng duy nhất, là điều tuyệt đối cần thiết đối với tín đồ bắt đầu thực hành nhiệt tâm tôn giáo.

Người đó phải nói với Hanumān trong Rāmāyana: “Dù biết rằng đấng Chúa Tể Śri và đấng Chúa Tể Jānaki[1] đều cùng là hóa thân của một đấng Hằng Hữu Duy Nhất, nhưng toàn bộ tâm ý tôi chỉ hướng về vị thần Rāma mắt hoa sen”.

Hoặc anh ta phải nói như vị hiền triết Tulsidās: “Hãy đón nhận sự dịu dàng của tất cả mọi người, hãy cùng ngồi với tất cả mọi người, hãy nhân danh tất cả mọi người, nhưng hãy giữ chỗ ngồi của người cho thật vững”.

Rồi, nếu một tín đồ nhiệt tâm có thành ý thì từ hạt giống nhỏ bé đó sẽ phát triển thành một cây đại thụ, như cây Bồ – đề Ấn Độ; cành nhánh lần lượt tỏa ra, gốc rễ lần lượt mọc thêm về mọi hướng, cho khi nó bao trùm trọn vẹn cánh đồng tôn giáo.

Vị tín đồ chân chính đó sẽ thực chứng được rằng đấng Chúa Tể mà anh ta xem là lý tưởng của riêng mình cũng chính là đấng được sùng bái trong mọi lý tưởng của tất cả các tông phái, dưới tất cả những danh xưng và bằng mọi nghi thức.

[1] Tức thần Vishnu và thần Rāma. [Ghi chú trong nguyên tác]

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x