Trang chủ » Prāna tâm linh

Prāna tâm linh

by Trung Kiên Lê
88 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

Theo các hành giả yogi thì có hai dòng thần kinh trong cột sống, gọi là Pingalā và Iḍā, và một cái rãnh gọi là Sushumnā chạy dọc theo tủy sống. Ở phần đáy của cái rãnh đó là cái mà các hành giả yogi gọi là “hoa sen Kundalini”.

Họ mô tả nó giống như hình tam giác, trong đó, nói theo ngôn ngữ biểu trưng của hành giả yogi, có một năng lực đang thu mình, có tên gọi là Kundalini.

Khi Kundalini thức giấc, nó cố gắng khai phá một thông lộ xuyên qua cái rãnh đó, và khi nó từng bước tỉnh giấc thì, có thể nói như vậy, tâm trí được khai thông hết lớp này đến lớp khác, và nhiều cảnh tượng khác nhau cùng nhiều quyền năng kỳ diệu đến với hành giả yogi.

Khi Kundalini đi đến bộ não thì hành giả yogi hoàn toàn tách ly khỏi thể xác và tâm trí, linh hồn đã được giải thoát. Chúng ta biết rằng tủy sống được cấu tạo một cách đặc biệt. Nếu ta dùng ký hiệu có số 8 nằm ngang (∞) để minh họa thì có hai phần, và hai phần này được nối với nhau ở đoạn giữa.

Giả sử cứ chồng các ký hiệu đó lên, cái này trên cái khác, ta sẽ có hình ảnh một tủy sống. Bên trái là Iḍā và bên phải là Pingalā, còn cái rãnh chạy xuyên suốt giữa tủy sống là Sushumnā.

Khi tủy sống dừng ở đốt sống vùng thắt lưng thì có một dây thần kinh rất nhỏ chạy xuống, cái rãnh thậm chí còn chạy xuyên suốt qua dây thần kinh đó, có điều là nhỏ hơn. Cái rãnh bị bít lại ở phía dưới cùng, gần cái gọi là đám rối thần kinh bàn tọa [ sacral plexus], mà theo khoa sinh lý học hiện đại thì nó có hình tam giác.

Những đám rối thần kinh [ plexus] khác nhau có trung tâm là tủy sống đó đều có thể tượng trưng cho những “hoa sen” khác nhau của hành giả yogi. Các hành giả yogi mô tả một vài trung tâm, bắt đầu với Mulādhāra, hay luân xa căn bản, rồi kết thúc bằng Sahasrāra, là luân xa hoa sen ngàn cánh trong não bộ.

Do đó, nếu chúng ta xem những đám rối thần kinh khác nhau đó tượng trưng cho những hoa sen thì có thể dễ dàng hiểu được quan niệm của các hành giả yogi theo ngôn ngữ sinh lý học hiện đại.

Chúng ta biết có hai loại hoạt động trong các dây thần kinh: thần kinh hướng tâm và thần kinh ly tâm, thần kinh giao cảm và thần kinh vận động. Một loại truyền cảm giác đến não, loại kia truyền từ não đến những bộ phận bên ngoài của cơ thể.

Tất cả những dao động này cuối cùng đều được kết nối với não. Có một vài sự kiện khác mà chúng ta cần phải ghi nhớ để dọn đường cho cách giải thích tiếp theo.

Trong não bộ, tủy sống dừng tại hành tủy, hành tủy không gắn liền với xương mà bồng bềnh trong lớp dịch não tủy; do đó, nếu bị một sang chấn vào đầu thì lực tác động của sang chấn đó sẽ bị khuếch tán ra trong lớp dịch não tủy, chứ không làm tổn thương hành tủy.

Đây là dữ kiện quan trọng cần ghi nhớ. Điều thứ hai mà chúng ta cũng cần ghi nhớ là trong số những trung tâm này, có ba trung tâm cực kỳ quan trọng, đó là Mulādhāra (luân xa căn bản), Sahasrāra (luân xa hoa sen ngàn cánh trong não bộ) và Manipura (luân xa hoa sen nơi rốn).

Tiếp theo, chúng ta sẽ dùng một dữ kiện từ môn vật lý. Tất cả chúng ta ai cũng nghe nói đến điện, cùng những sức mạnh liên quan với nó. Chẳng ai biết được điện là gì, nhưng trong chừng mực có thể hiểu được thì đó là một dạng chuyển động.

Có nhiều dạng chuyển động trong vũ trụ. Giữa chúng và dòng điện có gì khác nhau? Giả sử cái bàn này chuyển động thì các phân tử cấu tạo nên cái bàn này chuyển động theo những hướng khác nhau, nếu chúng được sắp xếp để chuyển động theo cùng một hướng thì sẽ có dòng điện.

Dòng điện được tạo ra khi tất cả các phân tử cùng chuyển động theo một hướng. Nếu tất cả các phân tử không khí trong căn phòng này được sắp xếp để chuyển động theo cùng một hướng thì chúng sẽ biến căn phòng này thành một bình điện khổng lồ.

Một điểm khác xét từ quan điểm của môn sinh lý học, mà chúng ta cần ghi nhớ, đó là trung tâm chi phối hệ hô hấp cũng có hành động kiểm soát hệ thống thần kinh, và trung tâm điều khiển hệ hô hấp nằm đối diện với ngực, trong tủy sống.

Trung tâm này chi phối cơ quan hô hấp, và cũng có một vài chức năng điều khiển các cơ quan thứ yếu. Bây giờ chúng ta có thể thấy vì sao phải tập hít thở cho đúng tiết nhịp. Trước hết, hít thở đúng tiết nhịp sẽ có xu hướng đưa tất cả những phân tử trong cơ thể chuyển động theo cùng một hướng.

Khi tâm trí, với bản chất vốn hay bị phân tán, tập trung vào một điểm thì nó biến thành một ý chí mạnh mẽ, và những luồng thần kinh cũng chuyển sang chuyển động tương tự như dòng điện, bởi vì người ta đã chứng minh được rằng các dây thần kinh bị phân cực dưới tác động của dòng điện.

Điều này cho thấy rằng khi được chuyển hóa thành những dòng thần kinh thì ý chí biến thành một cái gì đó tương tự như dòng điện. Khi tất cả những chuyển động của cơ thể đã hoàn toàn theo một tiết tấu nhịp nhàng thì, có thể nói như vậy, cơ thể biến thành một bình điện khổng lồ của ý lực.

Ý lực vĩ đại này chính xác là cái mà các hành giả yogi cần đến. Do đó, đây là cách giải thích cho prānāyāma, xét từ quan điểm sinh lý học, nó có xu hướng đưa tiết nhịp vào cơ thể và giúp chúng ta điều khiển được cách trung tâm khác, thông qua trung tâm hô hấp.

Ở đây, mục đích của prānāyāma là đánh thức được năng lượng tiềm ẩn trong Mulādhāra, được gọi là Kundalini. Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, tưởng tượng hay nằm mơ thì chúng ta phải nhận thức chúng trong không gian. Đây là cõi không gian bình thường, được gọi là mahākāśa, hay không gian vật lý.

Khi một hành giả yogi đọc được tư tưởng của người khác, hoặc nhận thức được những đối tượng siêu thức thì ông ta nhìn thấy chúng trong một không gian khác, gọi là chittākāśa, hay không gian tinh thần.

Khi nhận thức trở thành vô đối tượng thì linh hồn sẽ tỏa sáng trong Tự Tính của nó, cái đó gọi là Chidākāśa, hay không gian Tri Thức.

Khi Kundalini được đánh thức và đi vào rãnh Sushumnā thì tất cả nhận thức đều ở trong không gian tinh thần. Khi nó đi đến tận cùng của rãnh Sushumnā, đây là chỗ mở thông đến não bộ thì nhận thức vô đối tượng nằm trong không gian Tri Thức.

Dùng dòng điện để minh họa, chúng ta thấy rằng ta phải cần đến dây dẫn để truyền dòng điện[1], nhưng thiên nhiên không cần đến dây dẫn mà vẫn có thể truyền được những dòng điện khủng khiếp của nó.

Điều đó chứng minh rằng dây dẫn không thực sự cần thiết, mà do chúng ta bất lực không thể loại bỏ được nó nên buộc phải dùng đến nó. Tương tự như vậy, mọi cảm giác và chuyển động của cơ thể được truyền đến não, thông qua các sợi thần kinh này.

Các bó dây thần kinh cảm giác và thần kinh vận động trong tủy sống là Iḍā và Pingalā của các hành giả yogi. Chúng là những rãnh chính để những dòng thần kinh hướng tâm và ly tâm lưu thông qua đó.

Nhưng vì sao mà tâm trí lại không thể gởi được thông tin hoặc phản ứng nếu không có dây dẫn? Chúng ta thấy điều này được thực hiện trong tự nhiên. Các hành giả yogi nói rằng nếu làm được điều đó thì các bạn đã thoát ly được sự ràng buộc của vật chất rồi.

Làm thế nào để làm được điều này? Nếu các bạn có thể khiến cho dòng thần kinh chạy xuyên qua các Sushumnā – rãnh nằm chính giữa cột sống – thì các bạn đã giải quyết được vấn đề. Tâm trí đã tạo ra mạng hệ thống thần kinh này, rồi nó phá vỡ hệ thống đó để không cần đến dây dẫn mà vẫn hoạt động được.

Chỉ với thế, toàn bộ tri thức mới đến với chúng ta – không còn bị ràng buộc vào thể xác nữa. Đó là lý do vì sao nó lại quan trọng đến mức chúng ta cần phải điều khiển Sushumnā cho bằng được.

Nếu các bạn có thể gởi một dòng chảy tinh thần [ mental current] xuyên qua cái rãnh đó, mà không cần đến bất kỳ một sợi thần kinh nào làm dây dẫn, thì các hành giả yogi bảo đó là các bạn đã giải quyết được vấn đề, và họ cũng bảo có thể làm được điều đó.

Nơi người bình thường thì Sushumnā bị bít ở chỗ tận cùng, không một dòng thần kinh nào đi xuyên qua được. Hành giả yogi đề nghị một phương pháp thực hành để khai mở nó ra, và để những dòng thần kinh lưu thông qua lại. Khi một cảm giác được chuyển tới trung tâm thì trung tâm này có phản ứng.

Phản ứng này, đối với những trung tâm tự động, được nối tiếp bằng chuyển động, còn đối với những trung tâm có ý thức thì trước hết nó được nối tiếp bằng nhận thức, rồi đó mới là chuyển động. Mọi nhận thức đều là sự phản ứng lại tác động từ bên ngoài.

Như vậy thì nhận thức trong giấc mơ phát sinh như thế nào? Không có tác động nào từ bên ngoài cả. Cảm giác, do đó, hẳn phải tiềm ẩn ở đâu đó.

Chẳng hạn, tôi thấy một thành phố. Việc nhận thức thành phố đó xuất phát từ sự phản ứng lại những cảm giác được đưa đến từ những đối tượng bên ngoài tạo nên thành phố ấy.

Điều đó có nghĩa là có một chuyển động nào đó trong những phân tử của não được xác lập bởi chuyển động của những dây thần kinh dẫn truyền, bây giờ chuyển động đó lại được xác lập bởi đối tượng bên ngoài của thành phố này. Thậm chí sau một thời gian dài nữa, tôi vẫn có thể nhớ lại thành phố này.

Những giấc mơ đúng là cùng một hiện tượng, chỉ có điều là ở trong một hình thức dịu dàng hơn. Nhưng những hoạt động xác lập nên các dao động tương tự dưới hình thức dịu dàng hơn này, chúng từ đâu mà có? Chắc chắn không phải từ những cảm giác đầu tiên.

Như vậy, hẳn là những cảm giác đó phải tiềm ẩn ở đâu đó, và hoạt động của chúng đã làm nảy sinh phản ứng dịu dàng, mà chúng ta gọi là nhận thức trong mơ.

Trung tâm – nơi lưu trữ tất cả những cảm giác còn sót lại, có thể nói như vậy – được gọi là Mulādhāra, kho lưu trữ căn bản, và năng lượng tiềm ẩn của hành động được gọi là Kundalini, hay “năng lượng cuộn xoắn”.

Rất có thể là năng lượng vận động còn sót lại cũng được lưu trữ tại cùng một trung tâm, bởi vì, sau việc nghiên cứu hay thiền quán sâu xa về những sự vật bên ngoài thì phần cơ thể – nơi trung tâm Mulādhāra được định vị (có thể là đám rối thần kinh tọa) – nóng lên.

Giờ đây, nếu năng lượng tiềm ẩn này được kích hoạt và được điều khiển để di chuyển lên trên dọc theo rãnh Sushumnām thì sẽ phát sinh một phản ứng dữ dội.

Khi một bộ phận nhỏ của năng lượng hoạt động này di chuyển dọc theo dây thần kinh và gây nên phản ứng từ những trung tâm thì nhận thức là giấc mơ hoặc trí tưởng tượng.

Khi một khối lượng năng lượng khổng lồ – được lưu trữ do công phu nội quán lâu dài – di chuyển dọc theo Sushumnā và đập vào các trung tâm thì phản ứng rất là dữ dội, vượt xa hơn muôn vạn lần phản ứng của giấc mơ hay trí tưởng tượng, và mãnh liệt hơn muôn vạn lần phản ứng của nhận thức bằng giác quan.

Đó là nhận thức siêu thức. Và khi nó đạt đến trung tâm của cảm giác thì não bộ, trọn cả não bộ, có thể nói như vậy, phản ứng lại, và kết quả là ngọn lửa toàn giác bùng lên rực rỡ: liễu ngộ được Chân Ngã.

Khi sức mạnh của Kundalini di chuyển từ trung tâm này đến trung tâm khác thì hết lớp này sang lớp khác trong tâm trí, có thể nói như vậy, lần lượt được khai mở ra, và vũ trụ này sẽ được hành giả yogi nhận ra trong hình tướng tinh tế hay trong mối tương quan nhân quả.

Rồi chỉ có những nhân của vũ trụ này – vừa như là cảm giác, vừa như là phản ứng – sẽ được nhận chân y như thực, và từ đó phát sinh toàn bộ những tri thức.

Đã biết được nhân thì tri thức về quả chắc chắn sẽ theo sau. Do đó, đánh thức được Kundalini là phương pháp duy nhất và độc nhất để đạt đến thánh trí, đạt đến trí tuệ siêu thức và chứng ngộ được thế giới tâm linh.

Đánh thức Kundalini có thể được thực hiện theo phiều phương pháp: bằng tình yêu thương dành cho Thượng Đế, bằng ân huệ của những vị hiền triết toàn mãn, hoặc bằng năng lực của ý chí phân tích nơi các triết gia.

Bất cứ nơi nào đã có sự biểu hiện của cái thường được gọi là năng lực siêu nhiên hay trí tuệ siêu nhiên thì ở đó dòng chảy nhỏ bé của Kundalini hẳn phải tìm được đường đi xuyên qua Sushumnā.

Chỉ có điều là đa số trường hợp của những hiện tượng siêu nhiên như thế, con người lại cứ loay hoay một cách khờ khạo với một vài phép luyện tập nào đó, chỉ giải phóng được một phần nhỏ năng lượng Kundalini tiềm ẩn. Tất cả những chuyện sùng bái, dù ý thức hay vô thức, đều dẫn đến mục đích này.

Người nào ngỡ rằng mình được đáp ứng từ những lời cầu nguyện sẽ không biết được rằng thành tựu đó chỉ xuất phát từ chính bản tính của mình, rằng anh ta đã thành công bằng thái độ cầu nguyện trong tinh thần, khi đánh thức được từng chút nhỏ của nguồn năng lực vô biên tiềm ẩn trong tự thân mình.

Do đó, cái mà kẻ vô minh ngu dốt đang sùng bái dưới nhiều danh xưng, sùng bái bằng sự sợ hãi và nỗi khổ đau thì hành giả yogi tuyên bố với thế giới rằng đó là năng lực thực sự đang tiềm ẩn trong tự thân mỗi người, là Người Mẹ của niềm lạc phúc vĩnh cửu.

Và Rāja-yoga là khoa học của tôn giáo, là cơ sở hợp lý của mọi sự sùng bái, mọi lời cầu nguyện, của mọi hình thức, lễ nghi và phép lạ.

[1] Độc giả nên nhớ là bài này được viết trước khi phát minh ra vô tuyến điện báo. [Ghi chú trong nguyên tác]

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x