Trang chủ » Sự cần thiết của tôn giáo

Sự cần thiết của tôn giáo

by Trung Kiên Lê
137 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

(Diễn văn đọc tại London)

Một trong những thế lực đã tác động – và vẫn sẽ còn tác động – đến sự định hình nên các chủng tộc loài người, có lẽ không có gì mãnh liệt hơn sự biểu hiện của cái mà chúng ta gọi là tôn giáo.

Rải rác khắp nơi, mọi tổ chức xã hội đều dùng thế lực đặc thù đó làm nền tảng, và cái xung lực gắn kết vĩ đại nhất – vốn đã đóng góp vai trò trong những cộng đồng nhân loại – được rút ra từ năng lực này.

Hiển nhiên đối với chúng ta, trong rất nhiều trường hợp, sự ràng buộc của tôn giáo vẫn tỏ ra mạnh mẽ hơn sự ràng buộc của chủng tộc, của khí hậu, thậm chí của cả dòng tộc.

Một điều rất dễ thấy là những người cùng thờ chung một Thượng Đế, cùng sùng bái chung một tín ngưỡng sẽ sát cánh bên nhau với một sức mạnh to lớn hơn và bền vững hơn những người sát cánh bên nhau vì dòng tộc, hay cả vì tình huynh đệ.

Người ta đã nhiều phen cố gắng truy nguyên về sự khởi đầu của tôn giáo. Trong các tôn giáo cổ xưa còn truyền lại cho đến ngày nay, chúng ta tìm thấy một tiếng nói chung, đó là: chúng mang tính siêu nhiên, chúng không phải được nảy sinh từ bộ não của con người, mà bắt nguồn từ một chốn nào đó ở bên ngoài.

Có hai lý thuyết được các học giả hiện đại chấp nhận. Một là thuyết tâm linh của tôn giáo, hai là sự tiến hóa của ý tưởng về Cái Vô Biên. Thuyết tâm linh cho rằng sự thờ cúng tổ tiên là khởi nguyên của tôn giáo, còn thuyết kia lại cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ việc nhân cách hóa các thế lực trong tự nhiên.

Con người muốn giữ lại trong hoài niệm những hình ảnh của người thân đã khuất, và nghĩ rằng họ vẫn còn sống ở đâu đó ngay cả khi thể xác họ đã tan rã; con người muốn dâng thực phẩm lên cho tổ tiên và, theo một nghĩa nào đó, đã thờ cúng họ. Từ khát vọng này đã sinh ra cái mà ta gọi là tôn giáo.

Nghiên cứu các tôn giáo cổ xưa tại các xứ Ai Cập, Babylon, Trung Quốc cũng như của vài dân tộc ở Mỹ châu hoặc rải rác ở vài nơi khác, chúng ta thấy rất rõ rằng việc thờ cúng tổ tiên là những dấu tích khởi nguyên của tôn giáo.

Đối với người Ai Cập cổ đại, ý tưởng đầu tiên về linh hồn là ý tưởng về bản sao [ double]. Mọi thể xác của con người đều chứa trong nó một con người khác đồng nhất với chính nó.

Khi con người chết thì bản sao kia lìa bỏ thể xác và tiếp tục sống. Nhưng bản sao kia chỉ có thể tồn tại chừng nào người chết còn nguyên vẹn hình hài; bởi vậy chúng ta thấy vì sao người Ai Cập lại rất quan tâm đến việc giữ sao cho xác chết không bị hư hoại.

Đó cũng là lý do họ xây dựng nên những kim tự tháp khổng lồ để bảo quản xác chết. Bởi vì hễ bất cứ phần nào của xác chết bị tổn thương thì bản sao kia cũng bị tổn thương y hệt như thế. Đây là sự thờ cúng tổ tiên rất rõ nét. Với người Babylon cổ đại, chúng ta cũng tìm thấy ý tưởng về bản sao nhưng có khác biệt chút đỉnh.

Bản sao kia mất mọi cảm giác thương yêu, nó đe dọa những người sống, bắt họ phải cung cấp thức ăn nước uống và còn phải giúp đỡ mọi thứ cho nó nữa. Nó đánh mất hoàn toàn tình cảm với vợ con.

Trong số những người Ấn cổ đại, chúng ta cũng tìm thấy dấu tích của sự thờ cúng tổ tiên. Đối với người Trung Quốc thì nền tảng của tôn giáo chính là sự thờ cúng tổ tiên, và điều này đã lan tỏa ra khắp đất nước mênh mông ấy. Trên thực tế, tôn giáo duy nhất phát triển mạnh mẽ tại Trung Quốc chính là đạo thờ cúng tổ tiên.

Do đó, một mặt thì đây là trường hợp làm nền tảng vững chắc cho những ai chủ trương rằng đạo thờ cúng tổ tiên là khởi nguyên của tôn giáo.

Mặt khác, có những học giả nghiên cứu nền văn học Āryan cổ đại cho rằng tôn giáo bắt nguồn từ sự sùng bái giới tự nhiên. Mặc dù ở Ấn Độ, chúng ta tìm thấy những chứng cứ về đạo thờ cúng tổ tiên, nhưng theo những tư liệu cổ nhất thì lại không hề có một dấu tích gì về điều này.

Trong Rig Veda Samhitā, là tư liệu cổ nhất của chủng tộc Āryan, chúng ta cũng không hề thấy có ghi chép nào về đạo thờ cúng này. Các học giả hiện đại cho rằng đó là sự sùng bái giới tự nhiên. Tâm trí loài người dường như muốn nỗ lực nhìn xuyên qua cái thế giới hiện tượng.

Bình minh, chiều tà, bão tố cùng sức mạnh kỳ diệu trong tự nhiên và vẻ đẹp của chúng – tất cả những thứ này đã tác động lên tâm trí con người, khiến con người khao khát đi xa hơn để tìm hiểu thêm về chúng. Trong nỗ lực đó, họ đã gán cho các hiện tượng tự nhiên những thuộc tính của con người, ban cho chúng một thể xác và linh hồn, lúc thì đẹp đẽ, lúc thì mang tính siêu nhiên.

Mọi cố gắng này chấm dứt khi họ đã rút ra được những thuộc tính của thế giới tự nhiên, dù chúng có mang thuộc tính của con người hay không. Chúng ta cũng tìm thấy điều này với người Hy Lạp cổ đại: toàn bộ thần thoại của họ chỉ là sự sùng bái những đặc tính được rút ra từ thế giới tự nhiên.

Điều này cũng đúng với chủng tộc người Đức, người Scandinavia, và mọi chủng tộc Āryan khác trong thời cổ đại. Do đó, về phương diện này, đây là trường hợp thuyết phục mạnh mẽ nhất cho quan điểm cho rằng tôn giáo phát sinh từ sự nhân cách hóa những thế lực trong tự nhiên.

Hai quan điểm này, mặc dù bề ngoài có vẻ như mâu thuẫn nhau, lại có thể được hóa giải trên nền tảng thứ ba, mà tôi cho là hạt giống thực sự của tôn giáo và tôi xin đề nghị gọi đó là nỗ lực muốn siêu việt những giới hạn của giác quan.

Cho dù một người muốn đi tìm linh hồn của tổ tiên đã khuất – nghĩa là anh ta muốn nhìn xem có gì ở đằng sau cái thể xác tan rã – hay anh ta muốn tìm hiểu cái sức mạnh tác động đằng sau những hiện tượng kỳ diệu trong tự nhiên, cho dù anh ta có muốn gì đi chăng nữa thì vẫn có một điều chắc chắn: đó là anh ta đang cố gắng vượt qua những giới hạn của giác quan.

Anh ta không thỏa mãn với các giác quan, mà muốn vượt qua chúng. Giải thích điều này không có gì là bí ẩn. Tôi thấy thật hoàn toàn tự nhiên khi cái nhìn đầu tiên về tôn giáo lại bắt nguồn từ những giấc mơ. Con người có thể tìm được những ý tưởng về sự trường sinh bất tử qua các giấc mơ.

Giấc mơ há chẳng phải là trạng thái tuyệt diệu hay sao? Chúng ta biết rằng trẻ con và những người ngu dốt rất ít thấy sự khác biệt giữa hai trạng thái nằm mơ và tỉnh thức.

Ngay cả trong giấc ngủ, khi thể xác được xem như là đã chết thì tâm thức vẫn tiếp tục mọi công việc phức tạp của nó. Sự kinh ngạc nào sẽ đến, khi một người đi đến kết luận rằng lúc thể xác này tan rã thì các công việc kia vẫn còn tiếp diễn? Theo tôi, điều này hẳn là sự giải thích tự nhiên về một sự kiện siêu nhiên. Và thông qua ý tưởng về giấc mơ này mà tâm thức con người vươn lên những khái niệm cao hơn.

Dĩ nhiên, sớm muộn gì thì phần lớn nhân loại sẽ thấy rằng những giấc mơ của họ không được xác minh bởi các trạng thái thức tỉnh; và suốt trong trạng thái nằm mơ thì một người không tồn tại bằng xương bằng thịt, mà chỉ tóm lược lại những kinh nghiệm của trạng thái thức tỉnh.

Nhưng vào lúc ấy thì sự tìm kiếm đã bắt đầu, sự tìm kiếm đó hướng vào nội tâm và họ tiếp tục tiến sâu thêm vào các giai đoạn khác nhau của tâm thức, và khám phá ra một trạng thái cao hơn cả trạng thái thức tỉnh hay nằm mơ.

Trạng thái đó – trạng thái mà chúng ta tìm thấy trong tất cả các tôn giáo có tổ chức trên thế giới – được gọi là trạng thái thần khải hay xuất thần nhập định.

Trong tất cả tôn giáo có tổ chức, các giáo chủ, các nhà tiên tri cùng các nhà truyền giáo đều tuyên bố đã trải qua một trạng thái tinh thần không phải thức tỉnh cũng chẳng phải nằm mơ, mà trong đó họ đối mặt với một loạt các sự kiện liên quan đến cái gọi là vương quốc tâm linh.

Họ trực ngộ sự vật mạnh mẽ hơn rất nhiều so với cách chúng ta nhận thức sự vật chung quanh trong trạng thái thức tỉnh. Hãy lấy Ấn giáo làm ví dụ. Các kinh Veda được coi là do các rishi viết. Các rishi này là những vị thánh triết đã trực ngộ được một vài sự kiện nào đó.

Nghĩa chính xác của từ rishi trong tiếng Phạn là người thấu thị các mantra, thấu thị các tư tưởng trong các bản tụng ca của kinh Veda. Các vị này tuyên bố đã trực ngộ, đã cảm nhận được – nếu từ này được dùng theo nghĩa siêu cảm – một vài sự kiện nào đó, và họ đã ghi chép lại các sự kiện này. Chúng ta thấy cả tín đồ Do Thái giáo lẫn Thiên Chúa giáo cũng tuyên bố chân lý tương tự.

Riêng đối với các tín đồ Phật giáo Nam tông thì có khác. Người ta có thể đặt câu hỏi: Nếu các tín đồ Phật giáo không tin vào bất kỳ một Thượng Đế nào hay linh hồn nào thì làm sao tôn giáo của họ có thể khởi phát từ trạng thái siêu cảm về sự hiện hữu?

Câu trả lời là như vầy: ngay cả tín đồ Phật giáo cũng tìm thấy một Quy Luật Đạo Lý hay Pháp Tắc thường hằng, và Pháp Tắc này không phải được suy luận từ nhận thức của chúng ta về thế giới. Mà chính Đức Phật đã tìm ra nó, đã khám phá ra nó trong trạng thái siêu cảm.

Bất kỳ ai trong các bạn có nghiên cứu đời sống Đức Phật, dù chỉ được trình bày ngắn gọn trong bài thơ tuyệt vời “Ánh sáng Á châu”[1], đều có thể nhớ lại rằng bài thơ đó tả Đức Phật ngồi thiền dưới gốc Bồ Đề, cho đến khi Ngài đạt đến trạng thái tâm thức siêu cảm.

Tất cả lời dạy của Ngài đều xuất phát từ trạng thái này chứ không phải bằng sự suy luận của lý trí.

Do vậy, mọi tôn giáo đều có chung một phát biểu vĩ đại: tại một số thời điểm nào đó, tâm thức con người sẽ vượt qua không chỉ những giới hạn của các giác quan, mà cả những giới hạn của năng lực suy luận nữa.

Tâm thức rồi sẽ phải đối mặt với những sự kiện mà nó không thể nào nhận thức hay suy luận được. Những sự kiện đó là nền tảng cho mọi tôn giáo trên thế giới.

Dĩ nhiên, chúng ta có quyền thách thức những sự kiện này, dùng lý trí để thử thách chúng; thế nhưng mọi tôn giáo đang tồn tại trên thế giới đều đòi hỏi tâm thức con người về năng lực đặc thù này, năng lực siêu việt được những giới hạn của giác quan và lý trí, và mọi tôn giáo đều đưa năng lực đó ra như là lời phát biểu về sự kiện này.

Tách biệt khỏi sự quan tâm về câu hỏi: liệu những sự kiện mà các tôn giáo đang đòi hỏi đó chính xác đến mức nào? Chúng ta lại tìm thấy một đặc điểm chung cho tất cả các tôn giáo: chúng đều là những ý tưởng trừu tượng, đối lập với những khám phá cụ thể của bộ môn vật lý học chẳng hạn.

Và trong tất cả các tôn giáo được tổ chức cao cấp, những ý tưởng trừu tượng này đều mang những hình thức thuần khiết nhất của Nhất Thể trừu tượng, hoặc như là một Hiện Diện trừu tượng, hoặc như là một Thực Thể toàn nhiên phổ hiện [ Omnipresent Being], hoặc như là một Nhân Cách trừu tượng được gọi là Thượng Đế hay Quy Luật Đạo Lý, hoặc như là một Bản Thể Tinh Yếu trừu tượng [ Abstract Essence] nằm bên dưới vạn hữu.

Trong thời đại hiện nay cũng vậy, những nỗ lực muốn thuyết giảng tôn giáo mà không viện đến trạng thái siêu cảm của tâm thức đều phải khoác lại các ý tưởng trừu tượng cũ của những tôn giáo cổ xưa, và gán cho chúng những tên gọi khác, như là Quy Luật Đạo Lý, là Nhất Thể Lý Tưởng, v.v…, và như thế là để chứng tỏ rằng các điều trừu tượng này không nằm trong phạm vi của các giác quan.

Không một ai trong chúng ta đã từng thấy một con người lý tưởng, tuy vậy chúng ta lại được bảo là phải tin vào người đó. Không một ai trong chúng ta đã từng thấy một con người hoàn hảo một cách lý tưởng, tuy vậy nếu không có cái lý tưởng đó thì chúng ta lại không thể tiến bộ.

Như thế đó, từ tất cả những tôn giáo khác nhau, có một sự kiện nổi bật lên: đó là có một Nhất Thể Lý Tưởng Trừu Tượng [ Ideal Unit Abstraction] được đặt ra trước chúng ta dưới hình thức một Con Người hoặc một Thực Thể Phi Nhân Cách [ Impersonal Being], hoặc dưới hình thức của một Quy Luật, hay một Bản Thể Tinh Yếu. Chúng ta luôn phấn đấu để tự thân vươn tới lý tưởng đó.

Mọi con người, dù họ là ai hay ở đâu, cũng đều có một lý tưởng về năng lực vô biên. Hầu hết những công trình mà ta thấy quanh ta, những hoạt động hiển thị khắp nơi đều tùy thuộc vào sự phấn đấu để vươn đến lực lượng vô biên này hay niềm vui vô biên này.

Nhưng một số ít người lại nhanh chóng khám phá ra rằng, mặc dù họ đang phấn đấu để vươn đến năng lực vô biên, song không thể đạt đến nó thông qua các giác quan.

Họ nhận ra rất nhanh rằng niềm vui vô biên vô tận này không thể đạt được thông qua các giác quan, hay nói một cách khác, các giác quan quá hạn chế và thể xác cũng quá hạn chế để diễn đạt được Cái Vô Biên.

Hiển thị Cái Vô Biên thông qua Cái Hữu Hạn là chuyện không thể, và chẳng chóng thì chầy thì con người sẽ học cách từ bỏ nỗ lực muốn biểu đạt Cái Đó thông qua Cái Hữu Hạn.

Sự từ bỏ này – sự từ bỏ nỗ lực muốn biểu đạt – chính là nền tảng của đạo đức học, là cơ sở lập cước của đạo đức học. Không bao giờ có một bộ luật đạo đức nào lại không lấy sự từ bỏ đó làm nền tảng. Đạo đức học luôn lên tiếng: “Không phải Tôi, mà là Bạn”.

Phương châm của nó là “Không phải Chân Ngã, mà là Phi Ngã”. Những ý tưởng hão huyền về chủ nghĩa cá nhân, mà con người đang bám vào khi anh ta cố gắng đi tìm cái Năng Lực Vô Biên đó hay Niềm Vui Vô Biên đó bằng giác quan, phải bị từ bỏ – các quy luật của đạo đức học nói như thế.

Rốt cuộc, bạn phải tự đặt mình và đặt những người khác trước bạn. Các giác quan lên tiếng: “Bản thân tôi phải ưu tiên trước đã”. Đạo đức học lại lên tiếng: “Tôi phải giữ tôi lại ở cuối”. Cứ như thế, tất cả các bộ luật đạo đức đều dựa trên sự từ bỏ này; đó là phá hủy chứ không phải xây dựng cá nhân trên bình diện vật chất.

Cái Vô Biên sẽ không bao giờ có thể được diễn đạt trên bình diện vật chất, nó bất khả ngôn thuyết, bất khả tư nghì.

Bởi vậy, con người phải từ bỏ bình diện vật chất và vươn lên những lĩnh vực khác để tìm cách diễn đạt Cái Vô Biên một cách sâu sắc hơn. Nhiều bộ luật đạo đức khác nhau đã được hình thành theo cách này, song tất cả đều có một ý tưởng trung tâm, đó là sự xóa bỏ vĩnh viễn cái Tôi. Sự vô ngã tuyệt đối là lý tưởng của đạo đức học.

Người ta sẽ sửng sốt khi được yêu cầu đừng nghĩ đến bản sắc cá nhân [ individuality] của mình. Dường như họ rất kinh hãi khi đánh mất đi cái mà họ gọi là cá tính đó.

Đồng thời, cũng chính những người đó muốn tuyên bố rằng những lý tưởng cao cả nhất của đạo đức học là chân chính, song lại không một lần nghĩ rằng nội dung, mục đích và ý tưởng của tất cả bộ môn đạo đức học là sự phá hủy, chứ không phải xây dựng cá nhân.

Các tiêu chuẩn của thuyết vị lợi[2] không thể giải thích được mối tương quan đạo đức giữa con người, chẳng hạn, trước hết chúng ta không thể rút được những quy luật đạo đức từ lòng vị lợi.

Nếu không có sự chuẩn nhận siêu nhiên, như ta thường gọi, hay không có sự cảm nhận siêu thức, như tôi thường nói, thì không thể có đạo lý luân thường.

Không có cuộc đấu tranh hướng đến Cái Vô Biên thì không sẽ không có lý tưởng nào. Bất kỳ hệ thống nào muốn trói buộc con người vào những giới hạn xã hội riêng biệt của nó đều không thể tìm được lời giải thích cho những quy luật đạo lý của nhân loại.

Kẻ theo thuyết vị lợi muốn chúng ta từ bỏ cuộc đấu tranh hướng đến Cái Vô Biên, từ bỏ mọi nỗ lực vươn đến cõi siêu giác, vì cho đó là những thứ phi lý không thực tế, song đồng thời lại yêu cầu chúng ta sống theo các chuẩn mực đạo đức và làm điều tốt cho xã hội.

Tại sao chúng ta phải làm điều tốt? Làm điều tốt chỉ là mối quan tâm thứ yếu. Bản thân đạo đức học không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để đạt đến mục đích.

Vì sao chúng ta lại phải làm điều tốt cho người khác mà lại không làm tổn thương họ? Nếu hạnh phúc là mục tiêu của nhân loại thì hà cớ gì tôi lại không hưởng hạnh phúc và để kẻ khác chịu khốn khổ? Điều gì ngăn cản tôi?

Lý do thứ hai là nền tảng của thuyết vị lợi lại quá hẹp hòi. Mọi hình thái xã hội hiện hành và mọi phương pháp đang áp dụng trong xã hội đều được rút ra từ xã hội đang tồn tại, nhưng những người theo thuyết vị lợi lấy quyền gì để cho rằng xã hội này là vĩnh cửu?

Cách đây nhiều kỷ nguyên, xã hội đã không hề tồn tại, và có thể nó cũng sẽ không tồn tại kể từ đó đến nay. Có lẽ đó chỉ là một trong những giai đoạn chuyển tiếp tạm thời để đưa chúng ta đến sự tiến hóa cao hơn, và bất kỳ quy luật nào rút ra từ xã hội cũng đều không thể mang tính vĩnh cửu, không thể bao trùm hết được mọi lãnh vực của bản chất con người.

Các học thuyết vị lợi, do đó, chỉ có đạt hiệu quả cao nhất trong những điều kiện của xã hội hiện tại. Ngoài ra thì nó chẳng có một chút giá trị gì.

Nhưng một nền tảng đạo đức, một tiêu chuẩn đạo lý rút ra từ tôn giáo và cảnh giới tâm linh lại dung chứa cả con người vô biên vô hạn.

Nó đề cập đến từng cá nhân, nhưng lại liên quan đến Cõi Vô Biên; và nó cũng đề cập đến cả xã hội – bởi vì xã hội chỉ là nhiều cá nhân sống chung với nhau; và khi tiêu chuẩn đạo lý đó được vận dụng vào các cá nhân cùng những mối quan hệ vĩnh cửu giữa cá nhân, thì tất yếu nó cũng được vận dụng cho toàn thể xã hội, trong mọi điều kiện nào có thể tại bất kỳ thời điểm nào.

Do đó, chúng ta thấy rằng một tôn giáo mang yếu tố tâm linh luôn là điều thiết yếu cho nhân loại. Con người không thể lúc nào cũng nghĩ đến vấn đề này, dù điều đó có dễ chịu đến đâu.

Cũng có người từng bảo rằng bận tâm quá nhiều đến vấn đề tâm linh chỉ tổ làm rối rắm thêm những mối quan hệ thực tiễn của chúng ta trong cõi thế. Ngay từ thời xa xưa ở Trung Quốc, Khổng Tử cũng đã dặn: “Cứ lo cho kiếp này đã, đợi khi chết đi rồi hãy lo cho kiếp sau”[3]. Chăm lo kiếp này dĩ nhiên là điều vô cùng tốt đẹp.

Song nếu như sự bận tâm quá nhiều đến vấn đề tâm linh có thể gây ảnh hưởng ít nhiều đến những mối quan hệ thực tiễn của chúng ta, thì bận tâm quá nhiều đến cái gọi là đời sống thực tế cũng gây tổn hại cho chúng ta kiếp này và kiếp sau.

Nó biến ta thành những người duy vật. Bởi vì con người không xem bản tính tự nhiên của mình là mục tiêu, mà là một cái đó cao hơn.

Con người là con người chừng nào anh ta còn đấu tranh để vượt lên trên bản tính tự nhiên[4], và bản tính tự nhiên này thuộc thế giới nội tâm lẫn thế giới bên ngoài.

Nó không chỉ bao hàm những quy luật chi phối những phân tử vật chất bên ngoài và bên trong cơ thể chúng ta, mà còn bao hàm cả bản chất tế vi hơn ở bên trong, chính bản chất này mới là sức mạnh chi phối thế giới ngoại tại.

Chinh phục được thế giới tự nhiên là điều tốt đẹp và vĩ đại, nhưng sẽ vĩ đại hơn nếu chinh phục được bản tính tự nhiên bên trong ta. Hiểu được những quy luật điều khiển muôn vì tinh tú cùng các hành tinh là điều tốt đẹp và vĩ đại, nhưng sẽ vĩ đại và tốt đẹp vô vàn nếu hiểu được những quy luật điều khiển các đam mê, cảm xúc và ý chí của con người.

Chinh phục được con người nội tâm, thấu hiểu được điều huyền mật của những hoạt động tế vi bên trong tâm thức con người, biết được những điều huyền mật của chúng, tất cả điều đó đều thuộc về tôn giáo.

Tâm thức con người – tôi muốn nói tâm thức của một người bình thường – cần phải thấy được những sự kiện vật chất lớn lao. Người bình thường không thể hiểu được những điều tế vi.

Người ta thường bảo rằng đám đông xuýt xoa ngưỡng mộ trước cảnh một con sư tử tàn sát hàng ngàn con cừu, nhưng chẳng có lúc nào họ nghĩ đến cái chết của các con cừu.

Mặc dù đối với con sư tử, đó chỉ là một chiến thắng phù du, nhưng đám đông lại chỉ thấy khoan khoái trong sự biểu hiện sức mạnh thể xác. Con người bình thường thì ai cũng đều vậy cả. Họ hiểu và thấy vui thích với những sự vật bên ngoài.

Nhưng trong mọi xã hội đều có một bộ phận không tìm cầu lạc thú trong phạm vi của giác quan, mà vượt lên trên chúng, thỉnh thoảng họ thoáng nhìn vào một cái gì đó cao hơn vật chất và phấn đấu vươn đến đó.

Nếu đọc kỹ lịch sử của các quốc gia, ta sẽ luôn thấy rằng sự trỗi dậy của một quốc gia đi cùng với sự gia tăng số lượng của những người như thế, và một quốc gia bắt đầu suy tàn khi mà con người không còn theo đuổi Cái Vô Biên, vì những kẻ theo thuyết vị lợi cho đó là hão huyền vô ích.

Phải nói rằng động lực chính đem lại sức mạnh cho mọi chủng tộc nằm trong đời sống tâm linh, và cái chết của mọi chủng tộc bắt đầu từ ngày mà đời sống tâm linh suy tàn và thuyết duy vật thắng thế.

Do đó, tách lìa khỏi những sự kiện vững chắc và những chân lý mà ta có thể học hỏi được từ tôn giáo, tách lìa khỏi những điều an ủi mà nó đem lại thì tôn giáo – hiểu theo nghĩa là một nền khoa học và là sự nghiên cứu – là bài tập lớn nhất và lành mạnh nhất mà tâm trí con người có thể đạt đến.

Theo đuổi Cái Vô Biên, phấn đấu nắm bắt được Cái Vô Biên, nỗ lực vượt lên trên những giới hạn của giác quan, và do đó đưa tinh thần con người tiến hóa cao hơn, ngày đêm cố gắng hợp nhất tự ngã với Cái Vô Biên, tự bản thân sự phấn đấu đó đã là điều vĩ đại nhất và vinh quang nhất mà con người có thể làm được.

Một số người tìm thấy lạc thú trong ăn uống. Ta không có quyền gì để cho rằng họ làm thế là không nên. Một số người lại tìm thấy lạc thú trong việc chiếm hữu đồ vật. Ta cũng chẳng có quyền gì để cho rằng họ làm thế là chẳng phải.

Thế thì họ cũng không có quyền gì để nói “không” với người tìm thấy lạc thú tối cao trong cõi tư tưởng của tinh thần. Hễ tinh thần càng thấp kém thì lạc thú do giác quan đem lại càng lớn lao. Rất ít người nào có thể phàm ăn như một con chó hay con sói.

Nhưng mọi lạc thú đó của con chó hay con sói sẽ qua đi, vì chúng chỉ nằm trong phạm vi giác quan. Tại mọi quốc gia, những hạng người thấp kém đều chỉ đi tìm lạc thú trong phạm vi giác quan, còn những người trí thức có văn hóa cao thì tìm thấy lạc thú trong tư tưởng, trong triết học, trong nghệ thuật và khoa học.

Tâm linh còn là bình diện cao hơn nữa. Do chủ thể là vô tận, bình diện tâm linh đó là tối thượng, nên lạc thú đó là tối cao đối với những người có thể cảm nhận được nó. Do vậy, ngay cả khi một người tìm lạc thú vì động cơ vị lợi, anh ta cũng đang vun trồng ý tưởng tôn giáo, vì đó là lạc thú tối cao từng tồn tại.

Vậy đó, tôn giáo – hiểu theo nghĩa là sự nghiên cứu – đối với tôi là điều tuyệt đối cần thiết. Ta có thể tìm thấy nó trong những hiệu quả mà nó đem lại. Nó là lực lượng vĩ đại nhất làm dịch chuyển tư tưởng con người. Không một lý tưởng nào có thể đặt vào tâm hồn chúng ta nhiều năng lượng như tâm linh.

Chừng nào lịch sử nhân loại còn diễn tiến, tất cả chúng ta đều thấy rõ rằng sức mạnh của tôn giáo không bao giờ chết. Tôi không phủ nhận rằng một người, dù chỉ thuần túy vì động cơ vị lợi, vẫn có thể sống rất tốt đẹp và đạo đức.

Trong thế giới này có không ít người hoàn toàn đức độ và tốt đẹp, dù họ chỉ thuần túy sống vì động cơ vị lợi.

Nhưng những người làm lay chuyển thế giới – những người mang một khối từ trường khổng lồ vào cõi thế, những người mà tinh thần tác động lên hàng trăm, hàng ngàn người khác, những người mà cuộc đời làm cho ngọn lửa tâm linh bùng cháy lên trong tâm hồn người khác – thì ta luôn thấy rằng những người như thế đều có một nền tảng tâm linh.

Sức mạnh lay chuyển hồn người của họ đến từ tôn giáo. Tôn giáo là sức mạnh lay chuyển vĩ đại nhất giúp ta chứng ngộ được nguồn năng lượng vô biên vốn là thiên tính bản hữu của con người.

Trong việc xây dựng nên tính cách, xây dựng nên mọi điều tốt đẹp và vĩ đại, trong việc đem sự yên bình đến cho người khác cho bản thân mình, tôn giáo là sức mạnh lay chuyển vĩ đại nhất, do đó, ta cần phải nghiên cứu nó từ quan điểm này.

Tôn giáo cần phải được nghiên cứu trên một nền tảng rộng lớn hơn trước kia. Mọi ý tưởng hạn hẹp và mang tính xung đột về tôn giáo đều phải ra đi. Mọi thiên kiến về tông phái cùng những ý tưởng cục bộ về quốc gia, bộ lạc đều phải bị từ bỏ.

Mỗi bộ lạc hay quốc gia đều có một Thượng Đế riêng và cho rằng Thượng Đế của mọi tôn giáo khác đều sai lầm – đó là thói mê tín thuộc về quá khứ.

Mọi ý tưởng như thế đều cần phải bị từ bỏ. Khi tâm trí con người mở rộng thì các cấp bậc tâm linh cũng mở rộng theo. Đã đến một thời đại, trong đó con người không thể ghi chép lại một tư tưởng mà lại không đưa tư tưởng đó đến tận mọi ngóc ngách nơi chân trời cuối đất; chỉ bằng những phương tiện vật lý, ta chạm được đến toàn bộ thế giới, tôn giáo tương lai của thế giới cũng phải mang tính phổ quát như vậy, rộng rãi như vậy.

Những lý tưởng tôn giáo trong tương lai phải bao hàm được tất cả những gì đã tồn tại trong thế gian, nó phải tốt đẹp và vĩ đại, đồng thời phải có nội dung vô tận để phát triển trong tương lai. Cần phải giữ gìn những gì tốt đẹp trong quá khứ, và những cánh cửa phải rộng mở cho tương lai để bổ sung thêm vào kho tàng đang có.

Tôn giáo cũng phải mang tính chất bao dung, chứ không phải khinh bỉ lẫn nhau chỉ vì những lý tưởng về Thượng Đế của chúng khác nhau.

Trong đời mình, tôi đã thấy được nhiều bậc đạo sư tâm linh vĩ đại, nhiều bậc minh trí vĩ đại mà chẳng hề tin vào Thượng Đế mảy may nào, nghĩa là một Thượng Đế hiểu theo nghĩa của thế gian. Có lẽ họ hiểu Thượng Đế sâu sắc hơn chúng ta nhiều. Những ý tưởng Nhân cách hóa về

Thượng Đế hay về một đấng Phi Nhân Thể, đấng Vô Biên, Chuẩn Tắc Đạo Lý hay đấng Lý Tưởng – tất cả những thứ đó đều bắt nguồn từ cách định nghĩa về tôn giáo. Và khi những tôn giáo đã phát triển rộng lớn như thế thì năng lực trong thiện chí của chúng tăng lên hàng trăm lần.

Tôn giáo, do mang nguồn năng lực mãnh liệt trong tự thân, thường gây tổn hại cho thế gian hơn là mang lại ơn ích, đơn giản là do những đầu óc thiển cận và hẹp hòi.

Thậm chí ngay trong thời hiện đại, chúng ta vẫn thấy nhiều tông phái và bang hội cùng có chung tư tưởng mà vẫn chống đối nhau, chỉ vì phe này thấy không cần phải phát huy những tư tưởng nào đó theo cách thức giống hệt phe kia. Bởi thế, tôn giáo cần phải được phát triển lớn mạnh.

Những tư tưởng tôn giáo phải trở nên phổ quát, hoằng đại và bao la vô tận; và chỉ riêng chúng ta mới có được vở kịch trọn vẹn của tôn giáo, bởi vì sức mạnh tôn giáo chỉ mới bắt đầu hiển lộ trong thế giới. Đôi khi người ta cho rằng các tôn giáo đang hấp hối, rằng những ý tưởng mang tính tâm linh đang dần tàn lụi khỏi thế gian.

Đối với tôi thì những thứ đó chỉ mới bắt đầu. Sức mạnh của tôn giáo, khi đã được phát huy và thanh tẩy, đang thẩm thấu vào từng bộ phận trong đời sống nhân loại. Chừng nào mà tôn giáo còn nằm trong tay một số người ít ỏi được chọn hoặc trong tay giới tăng lữ thì nó vẫn chỉ nằm trong các tu viện, chùa chiền, nhà thờ, kinh sách, giáo điều, nghi lễ.

Nhưng khi ta đạt được quan niệm tâm linh phổ quát và chân thực về tôn giáo thì chỉ có tôn giáo mới trở thành chân thực và sinh động; nó sẽ thâm nhập vào tận bản tính tự nhiên của ta, sống trong từng hành vi cử chỉ của ta, thâm nhập vào tận từng lỗ chân lông của xã hội chúng ta, và mãi mãi mang một sức mạnh vô tận hơn trước đó.

Điều cần thiết là sự cảm thông giữa các hình thức tôn giáo khác nhau, phải thấy được rằng tất cả mọi tôn giáo đều tồn tại hoặc sụp đổ cùng nhau. Đó là sự cảm thông nảy sinh từ lòng kính mến và tôn trọng lẫn nhau, chứ không phải là sự biểu hiện thiện ý một cách khinh khỉnh bằng thái độ hạ cố hay ra vẻ kẻ cả, bề trên – mà bất hạnh thay, thái độ này lại đang là trào lưu thịnh hành của nhiều tôn giáo hiện nay.

Và trên hết, sự cảm thông này là điều cần thiết phải có giữa những hình thức biểu hiện tôn giáo, xuất phát từ việc nghiên cứu hiện tượng tinh thần – thật không may là ngay cả bây giờ, khi đề xuất yêu cầu duy nhất về danh từ tôn giáo – và những hình thức biểu hiện của tôn giáo đó, với cái đầu thì, có thể nói như vậy, xuyên thấu vào những điều huyền bí trên trời, trong khi đôi chân vẫn bám chặt trên mặt đất – tôi muốn nói đến những cái gọi là các bộ môn khoa học duy vật.

Để làm phát sinh được sự hài hòa này, cả hai bên cần phải nhượng bộ lẫn nhau, đôi khi rất nhiều; không, còn hơn cả thế nữa, đôi khi còn rất đau đớn nữa, nhưng mỗi bên sẽ thấy bản thân mình tốt đẹp hơn trong sự hy sinh đó và tiến sâu hơn vào chân lý.

Rốt cuộc, kiến thức vốn bị giới hạn trong không gian và thời gian sẽ gặp gỡ và hợp nhất với chân trí siêu việt cả hai, nơi mà tâm trí và giác quan không thể đạt đến – đó là Cái Tuyệt Đối, Cái Vô Biên, Nhất Thể Duy Nhất.

[1] The Light of Asia là bài trường thi của Sir Edwin Arnold, thuật lại cuộc đời Đức Phật từ khi đản sanh cho đến lúc giác ngộ. Hiện đã có ít nhất là hai bản dịch tiếng Việt, một của Đoàn Trung Còn dịch theo bản tiếng Pháp, một của Trần Phương Lan theo nguyên tác tiếng Anh.

[2] Utilitarianism: một học thuyết phương Tây, quan niệm rằng giá trị của một sự vật hay hành động được xác định bởi lợi ích do nó đem lại.

[3] Tôi chưa tra cứu được nguyên văn của câu này, có lẽ là câu “Vị tri sinh, an tri tử?” 未 知 生, 焉 知 死 (Sống còn chưa biết rõ thì làm sao biết được chết? Luận Ngữ, XI,11).

[4] Vivekananda dùng từ nature theo cả hai nghĩa: chỉ thế giới tự nhiên, và bản tính tự nhiên của con người.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x