Trang chủ » Thế giới vi mô

Thế giới vi mô

by Trung Kiên Lê
82 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại New York, 26 tháng 1, 1896)

Theo lẽ tự nhiên, tâm trí con người muốn hướng ngoại, muốn săm soi nhìn ra ngoài thể xác, có thể nói như vậy, thông qua các giác quan. Mắt phải nhìn, tai phải nghe, giác quan phải cảm thụ thế giới bên ngoài; và theo lẽ tự nhiên thì những cảnh tượng tươi đẹp và hùng vĩ của thiên nhiên quyến rũ sự chú tâm của con người trước hết.

Câu hỏi đầu tiên nảy sinh trong tâm hồn con người là câu hỏi về thế giới bên ngoài.

Người ta đi tìm lời giải đáp cho những điều bí ẩn về bầu trời, cùng muôn vì tinh tú, về trái đất, về sông nước, núi non, về đại dương; và trong mọi tôn giáo cổ xưa, chúng ta tìm thấy dấu tích mò mẫm của tâm trí con người khi lần đầu tiên tiếp xúc với thế giới chung quanh.

Có thần sông, thần bầu trời, thần mây, thần mưa; mọi sự vật ngoại tại, tất cả những gì mà hiện nay chúng ta gọi là sức mạnh trong thiên nhiên đều biến hóa thành thần thánh, thành những quyền năng của trời.

Khi tìm hiểu sâu hơn thì những biểu hiện bên ngoài không còn làm thỏa mãn tâm trí con người, và cuối cùng năng lượng tra vấn đó quay ngược vào nội tâm, và câu hỏi về tâm hồn con người được đặt ra.

Từ thế giới vi mô, câu hỏi phản chiếu ngược về thế giới vĩ mô; từ thế giới ngoại tại, câu hỏi phản chiếu ngược về thế giới nội tâm. Việc phân tích thế giới tự nhiên bên ngoài đã đưa con người quay vào khám phá thế giới nội tâm.

Việc tra vấn thế giới nội tâm con người đã xuất hiện cùng với một nền văn minh cao hơn, với một kiến giải về tự nhiên sâu sắc hơn, với một trạng thái phát triển cao hơn.

Chủ đề thảo luận chiều hôm nay là con người nội tâm. Không một câu hỏi nào lại gần gũi và thân thiết với tâm hồn con người như câu hỏi về con người nội tâm.

Câu hỏi này đã được nêu ra không biết bao nhiêu triệu lần, tại không biết bao nhiêu quốc gia! Hiền nhân và vua chúa, kẻ giàu cùng người nghèo, người thánh thiện và kẻ tội lỗi, nam và nữ, ai ai cũng đã hỏi đi hỏi lại câu hỏi này.

Có phải không có gì vĩnh hằng trong cõi thế vô thường này? Có phải không có gì còn lại, họ đặt câu hỏi, khi thể xác này chết đi?

Có phải không có gì tiếp tục sống sót, khi thân xác này biến thành cát bụi? Có phải không có gì tiếp tục sống sót, khi ngọn lửa thiêu thể xác này thành tro? Và nếu vậy thì số phận của con người là gì? Nó đi về đâu? Từ đâu đến?

Những câu hỏi này cứ được hỏi đi hỏi lại; và chừng nào tạo vật vẫn còn tồn tại, chừng nào trí não con người vẫn còn tư duy thì câu hỏi này vẫn phải được đặt ra. Không phải là không có lời giải đáp. Mỗi thời đại đều có một lời giải đáp, và cứ mỗi thời đại trôi qua, lời giải đáp đó sẽ mạnh mẽ hơn lên.

Trên thực tế, câu hỏi đó đã được nêu ra một cách dứt khoát hơn hàng ngàn năm qua; và qua mọi thời kỳ kế tiếp nhau, nó lại được nêu ra, được giải minh, giúp trí năng ta hiểu rõ hơn. Điều chúng ta phải làm, do đó, là phát biểu lại lời giải đáp.

Chúng tôi không giả bộ rọi một luồng ánh sáng mới lên những vấn đề cực kỳ hấp dẫn này, mà chỉ đặt trước mặt các bạn cái chân lý cổ xưa được diễn đạt bằng ngôn ngữ hiện đại, chỉ nói những tư tưởng cổ xưa bằng ngôn ngữ hiện đại, chỉ nói những tư tưởng của các triết gia bằng ngôn ngữ bình dân, nói tư tưởng của thánh thần bằng ngôn ngữ của người phàm, nói những tư tưởng của Thượng Đế bằng ngôn ngữ của loài người đáng thương, để con người có thể hiểu được; bởi vì tự bản lai, chính cái bản thể tinh túy thiêng liêng làm phát sinh ra những tư tưởng đó cũng đã hiện hữu trong con người; do đó, con người luôn luôn hiểu được chúng.

Tôi đang nhìn các bạn. Có bao nhiêu thứ cần thiết cho việc nhìn này? Trước hết là đôi mắt. Vì dầu tôi có hoàn hảo về mọi phương diện khác mà không có đôi mắt thì cũng không thể nào nhìn thấy các bạn được. Thứ hai là cơ quan thực sự của việc nhìn.

Đôi mắt không phải là cơ quan đó, chúng chỉ là khí cụ để nhìn, và đằng sau chúng là một cơ quan thực sự, đó là trung khu thần kinh trong bộ não. Nếu trung khu đó bị tổn thương thì dù có đôi mắt sáng nhất, con người vẫn không thể thấy được bất cứ thứ gì.

Do vậy, phải cần có trung khu đó, hay cơ quan thực sự. Các giác quan khác cũng vậy. Đôi tai chỉ là khí cụ để truyền dao động âm thanh vào bên trong đến trung khu đó. Thế nhưng chừng đó vẫn chưa đủ. Giả sử các bạn đang chăm chú đọc sách trong thư phòng, tiếng đồng hồ điểm giờ vang lên nhưng có thể bạn không nghe thấy.

Âm thanh có đó, dao động trong không khí có đó, cả đôi tai và trung khu thần kinh đều tồn tại đó, và những dao động âm thanh đó vẫn được truyền vào bên trong đến trung khu đó qua đôi tai, nhưng các bạn vẫn không nghe thấy chi hết.

Thiếu cái gì? Tâm trí không có ở đó[1]. Vậy thì ta thấy điều cần thiết thứ ba nữa là tâm trí phải ở đó. Trước hết là khí cụ bên ngoài, kế đó là cơ quan thọ nhận cảm giác do khí cụ bên ngoài truyền vào, và cuối cùng là bản thân cơ quan đó phải kết hợp với tâm trí.

Khi tâm trí không kết hợp với cơ quan thì cơ quan và đôi tai có thể cảm nhận được ấn tượng, nhưng ta lại không hề hay biết. Tâm trí cũng chỉ là công cụ truyền tải; nó phải truyền tải cảm giác đi xa hơn nữa, và đệ trình cảm giác đó ra trước trí năng.

Trí năng là khả năng quyết định, và xác định cái gì được mang đến cho nó. Vậy vẫn còn chưa đủ. Trí năng còn phải tiếp tục tải cảm giác đó đi xa hơn nữa, và đệ trình toàn thể sự vật trước vị chúa tể của thể xác, tức linh hồn con người, vị vua ngồi trên ngai vàng.

Sự việc được đệ trình trước vị chúa tể, vị này sẽ ban hành mệnh lệnh cho biết những gì nên làm và những gì không nên làm; mệnh lệnh truyền xuống cũng theo quy trình đó đến trí năng, đến tâm trí, đến các cơ quan, và các cơ quan chuyển tiếp đến các khí cụ, và sự nhận thức được hoàn tất.

Những khí cụ nằm trong thể xác bên ngoài, tức phần thô của con người; còn tâm trí và trí năng thì không thế.

Chúng nằm ở trong cái mà triết học Ấn Độ gọi là thể xác tế vi hơn, và là cái mà thần học Cơ Đốc giáo gọi là thể xác tâm linh [ spiritual body] của con người – tế vi hơn, tế vi hơn thể xác rất nhiều, nhưng chưa phải là linh hồn. Linh hồn này vượt trên tất cả những thứ đó.

Thể xác bên ngoài này chỉ trong vòng vài chục năm thì tàn lụi, bất kỳ nguyên nhân đơn giản nào cũng có thể hủy diệt nó. Thể xác tế vi hơn thì không dễ bị tàn lụi như vậy; nhưng có lúc thì nó suy đồi, có lúc thì nó mạnh mẽ.

Ta đã thấy, nơi người già, tâm trí mất đi sức mạnh như thế nào, khi thể xác tráng kiện thì tâm trí minh mẫn như thế nào, thuốc men dược liệu tác động đến thể xác như thế nào, những sự vật bên ngoài tác động đến nó như thế nào, và nó phản ứng lại thế giới ngoại tại ra làm sao.

Thể xác có phát triển và suy sụp thì tâm trí cũng vậy, cho nên tâm trí không phải là linh hồn, vì linh hồn thì không bao giờ suy nhược hay thoái hóa.

Làm sao mà chúng ta biết được điều đó? Làm sao mà chúng ta biết được rằng có một cái gì đó đằng sau tâm trí? Bởi vì tri thức vốn mang bản chất tự khai minh [ self-illuminating] và là nền tảng của trí thông minh, nên nó không thể thuộc về thứ vật chất đờ đẫn vô tri, vật chất chết được.

Chúng ta chưa bao giờ thấy một loại vật chất thô sơ nào mà bản thể tinh yếu [ essence] của nó lại có thể là trí thông minh được. Cũng không có một loại vật chất đờ đẫn vô tri, vật chất chết nào mà có thể tự khai minh được. Chính trí thông minh mới khai minh cho tất cả vật chất.

Căn phòng này chỉ hiện hữu được ở đây là nhờ vào trí thông minh, bởi vì, hiểu theo nghĩa là một căn phòng thì sự tồn tại của nó hẳn là một điều xa lạ, nếu không có một trí thông minh nào đó xây dựng nó lên.

Thể xác này không thể tự tỏa sáng [ self-luminous]; nếu nó tự tỏa sáng được thì hẳn nó đã làm thế trong một xác chết rồi. Cả tâm trí và thể xác tâm linh cũng không thể tự tỏa sáng được. Bản thể tinh yếu của chúng không phải là trí thông minh.

Cái gì tự tỏa sáng được thì không thể bị hư hoại. Sự vật nào tỏa sáng được bằng cách nhờ vào ánh sáng của sự vật khác thì sự tỏa sáng đó đến rồi đi; còn sự vật nào tự tỏa sáng được thì cái gì có thể khiến ánh sáng đó đến rồi đi, rực sáng lên rồi lụi tàn? Ta thấy vầng trăng hết tròn rồi lại khuyết, vì nó vay mượn ánh sáng của mặt trời.

Nếu nung đỏ một khối sắt trong lửa thì nó sẽ nóng rực lên và tỏa sáng, nhưng ánh sáng đó sẽ tan biến, vì đó là thứ ánh sáng vay mượn. Do đó, sự lụi tàn chỉ có thể xảy ra với thứ ánh sáng vay mượn, vì đó không phải là bản thể tinh yếu của nó.

Bây giờ, ta thấy rằng thể xác này, cái hình hài bên ngoài này không hề có ánh sáng trong bản thể tinh yếu, không thể tự tỏa sáng, không thể biết được chính mình; tâm trí cũng vậy.

Tại sao lại không? Bởi vì tâm trí khi thì tròn đầy khi thì khiếm khuyết, lúc thì tráng kiện lúc thì suy nhược, bởi vì nó có thể bị tác động bởi bất kỳ sự vật nào và bởi mọi sự vật. Do vậy, ánh sáng tỏa sáng qua tâm trí không phải là ánh sáng của chính nó.

Vậy thì ánh sáng đó là của ai? Chắc chắn nó phải thuộc về cái mà bản thể tinh yếu là ánh sáng, và như thế thì nó không thể lụi tàn hay bị hủy diệt, không bao giờ mạnh hơn hay yếu hơn; nó tự tỏa sáng, chính nó là ánh sáng tỏa chiếu đó.

Không thể nói rằng Linh Hồn hiểu biết, mà Nó chính là tri thức. Không thể nói rằng Linh Hồn tồn tại, mà Nó chính là sự tồn tại.

Không thể nói rằng Linh Hồn hưởng lạc phúc, mà Nó chính là lạc phúc. Cái gì hưởng lạc phúc đều vay mượn lạc phúc đó, cái gì có tri thức đều thọ nhận tri thức đó, cái gì có sự tồn tại tương đối thì chỉ có sự tồn tại được phản chiếu [ reflected existence] mà thôi.

Bất kỳ nơi nào có phẩm tính thì những phẩm tính đó đã được phản chiếu trên bản chất. Nhưng tri thức, tồn tại, lạc phúc không phải là phẩm tính của Linh Hồn, mà là bản chất tinh yếu của Linh Hồn.

Người ta lại còn thể hỏi, vì sao chúng ta cho rằng điều này là đúng? Vì sao chúng ta chấp nhận rằng Linh Hồn có tri thức, tồn tại, lạc phúc như là bản chất tinh yếu của nó chứ không vay mượn?

Có thể lập luận rằng: vì sao không bảo ánh sáng của Linh Hồn, lạc phúc của Linh Hồn, tri thức của Linh Hồn cũng được vay mượn theo cách thức mà thể xác đã vay mượn từ tâm trí? Tính ngụy biện của lối lập luận này sẽ không bao giờ có giới hạn.

Những thứ này được vay mượn từ đâu chứ? Nếu ta bảo là từ một nguồn gốc nào đó thì câu hỏi đó cứ sẽ được lặp đi lặp lại. Như thế, cuối cùng ta sẽ đến một cái gì đó tự tỏa sáng. Để đơn giản hóa vấn đề, cách hợp lý là dừng tại nơi mà ta nhận được sự tự tỏa sáng, và không đi xa hơn nữa.

Như vậy, chúng ta thấy rằng con người được cấu tạo thứ nhất là lớp vỏ bọc bên ngoài, tức thể xác; thứ hai là một thể xác tế vi hơn, bao gồm tâm trí, trí năng và tự ngã. Đàng sau chúng là Thực Ngã [ real Self] của con người.

Chúng ta đã thấy rằng mọi phẩm tính và năng lực của thể xác thô đều được vay mượn từ tâm trí, và tâm trí – tức phần thể xác tế vi hơn – lại vay mượn từ năng lực và ánh sáng từ Linh Hồn đứng ở đằng sau. Lúc này, rất nhiều câu hỏi được nêu ra về bản tính của Linh Hồn.

Nếu ta công nhận sự tồn tại của Linh Hồn bằng cách dựa trên lập luận rằng nó tự tỏa sáng, rằng tri thức cùng sự tồn tại và lạc phúc là bản thể tinh yếu của nó, thì kết luận tất nhiên là Linh Hồn không thể được sáng tạo ra từ hư không.

Một sự tồn tại tự tỏa sáng, và độc lập với bất kỳ sự vật tồn tại nào khác thì không thể được sinh ra từ bất kỳ một thứ gì. Nó luôn luôn tự tồn tại.

Không có lúc nào mà Linh Hồn lại không tồn tại; vì nếu như Linh Hồn không tồn tại thì thời gian ở tại nơi đâu? Thời gian nằm trong Linh Hồn, khi Linh Hồn phản chiếu năng lực của Nó trên tâm trí và tâm trí tư duy thì thời gian xuất hiện.

Nơi nào không có Linh Hồn thì chắc chắn không có tư tưởng, mà không có tư tưởng thì không có thời gian. Bởi vậy, làm sao có thể bảo là Linh Hồn tồn tại trong thời gian, trong khi bản thân thời gian lại tồn tại trong Linh Hồn? Linh Hồn bất sinh bất diệt, mà Nó chỉ trải qua tất cả những giai đoạn khác nhau.

Nó hiển lộ từ từ và dần dần, từ giai đoạn thấp hơn đến giai đoạn cao hơn, rồi cứ tiếp tục như thế. Nó đang biểu hiện sự vĩ đại tôn nghiêm của tự thể, đang tác động trên thể xác thông qua tâm trí, và thông qua thể xác, Nó đang nắm bắt và thấu hiểu thế giới bên ngoài.

Nó chọn lấy một thể xác và sử dụng nó, rồi khi thể xác này đã suy nhược và cạn kiệt năng lực thì Nó lại chọn lấy một thể xác khác, và cứ tiếp tục như thế. Bây giờ thì đến lượt một câu hỏi vô cùng lý thú, câu hỏi này thường được biết đến như là sự tái sinh của Linh Hồn.

Đôi khi người ta lại sợ hãi ý tưởng này, và lòng mê tín mạnh đến nỗi ngay những người biết suy nghĩ cũng tin rằng họ sinh ra từ hư không, và rồi bằng một loại luận lý học cao siêu nhất, họ cố suy diễn rằng dù họ có đến từ con số không đi nữa thì từ đây về sau họ sẽ được vĩnh viễn trường tồn.

Những gì đến từ con số không chắc phải phải quay về lại với con số không. Bạn hay tôi hoặc bất kỳ một người nào, không một ai đến từ con số không để rồi sẽ quay về lại với con số không cả.

Chúng ta đã và đang tồn tại vĩnh viễn, và sẽ tiếp tục tồn tại; không một quyền năng nào dưới ánh mặt trời có thể xóa bỏ sự tồn tại của tôi hay của các bạn, hoặc trả chúng ta về với con số không được cả.

Bây giờ, ý tưởng tái sinh này không chỉ là ý tưởng gây kinh hãi, mà là một ý tưởng thiết yếu nhất cho sự yên ổn về đạo đức của con người.

Đó là kết luận hợp lý duy nhất mà những người thích tư duy đều có thể đạt tới. Nếu các bạn sắp được tồn tại đời đời trong tương lai thì chắc chắn các bạn đã từng tồn tại đời đời trong quá khứ; không thể khác được. Tôi sẽ cố gắng giải đáp một số ý kiến thường được nêu ra để phản bác thuyết này.

Dù nhiều người trong số các bạn cho rằng đó là những ý kiến phản bác ngốc nghếch, nhưng chúng ta vẫn phải giải đáp; bởi vì đôi lúc chúng ta thấy rằng những người uyên bác nhất lại sẵn sàng đưa ra những ý kiến ngốc nghếch nhất.

Có một câu nói rất hay là: chưa bao giờ có một ý tưởng nào vô lý đến mức không tìm ra được một triết gia để biện hộ cho nó. Ý kiến phản bác đầu tiên là như vầy: vì sao chúng ta không nhớ đến quá khứ? Vậy chúng ta có nhớ lại được tất cả những chuyện cũ trong đời này hay không?

Có bao người trong số các bạn còn nhớ được những gì mình làm khi còn bé? Không một ai trong các bạn nhớ lại được thời thơ ấu; và nếu như sự tồn tại của các bạn tùy thuộc vào ký ức thì lập luận này chứng minh rằng các bạn không hề tồn tại như là đứa bé, vì các bạn không còn nhớ được tuổi thơ của mình.

Nếu bảo rằng sự tồn tại của chúng ta tùy thuộc vào khả năng hồi tưởng lại nó thì điều đó cực kỳ vô nghĩa. Vì sao chúng ta phải nhớ lại quá khứ? Bộ não đã tiêu ma, vỡ tan thành từng mảnh vụn, và một bộ não mới khác được tạo ra.

Những gì đến được với bộ não này là kết quả, là tổng số những ấn tượng đã thu hoạch được trong quá khứ, và chúng đã cùng tâm trí đến cư ngụ trong một thể xác mới. Tôi – như tôi đang đứng nơi đây – là thành quả, là kết quả của quá khứ vô tận đã gán chặt vào tôi.

Đó là sức mạnh của lòng mê tín mà nhiều người, trong số những người phủ nhận giáo lý tái sinh, tin rằng chúng ta sinh ra từ loài khỉ.

Nhưng họ lại không có cam đảm hỏi vì sao chúng ta lại không nhớ lại quãng đời khi còn là khỉ! Khi một bậc đại hiền triết thời xưa, một nhà tiên tri thấu thị, hay một đấng tiên tri thời cổ – những vị đã đối diện với chân lý – nói ra một điều gì đó thì những con người hiện đại đứng lên, bảo: “Ồ, y là một thằng điên”.

Nhưng chỉ cần dùng một cái tên khác – Huxley hoặc Tyndall – thì điều đó ắt phải đúng, và họ mặc nhiên chấp nhận. Những người đó đã dựng lên những điều mê tín mới để thay cho những điều mê tín cũ, đã tạo ra những giáo hoàng khoa học hiện đại để thay cho những giáo hoàng tôn giáo cổ sơ.

Bởi thế, ta thấy rằng ý kiến phản bác dựa vào ký ức này không có giá trị gì, và đó gần như là ý kiến nghiêm túc nhất được nêu ra để phản bác thuyết này.

Mặc dầu chúng ta đã thấy rằng để chấp nhận được thuyết tái sinh này không nhất thiết cần phải nhớ lại được quá khứ; nhưng đồng thời chúng ta lại đứng trên lập trường khẳng định rằng có những trường hợp hồi ức này xuất hiện, và mỗi người trong chúng ta sẽ quay ngược về với hồi ức đó tại thời điểm được giải thoát, khi đó chúng ta sẽ thấy rằng trần gian chỉ là giấc mộng.

Rồi chỉ các bạn mới thực chứng được, trong tận cùng sâu thẳm của linh hồn, rằng các bạn chỉ là diễn viên và cuộc đời này là sân khấu; rồi chỉ lúc đó ý tưởng xả ly, vô luyến cảm [ non-attachment] mới đến với các bạn bằng sức mạnh như sấm sét; rồi mọi khát khao hưởng thụ, mọi luyến cảm vào cuộc sống và trần gian này sẽ vĩnh viễn tan biến; rồi tâm trí sẽ thấy rõ như ban ngày rằng tất cả những chuyện này đã từng tồn tại bao nhiêu lần rồi với các bạn, đã hàng triệu lần các bạn đã có cha mẹ, con cái, có vợ chồng, người thân và bè bạn, tài sản và quyền lực.

Chúng đến rồi đi. Đã biết bao lần các bạn đứng trên đỉnh cao của ngọn sóng, và cũng biết bao lần các bạn chìm xuống dưới đáy sâu của tuyệt vọng!

Khi ký ức mang tất cả những thứ này đến với các bạn thì chỉ đến lúc đó, các bạn mới đứng lên và mỉm cười; khi thế giới này cau mày nhìn các bạn thì chỉ đến lúc đó, các bạn mới đứng lên và nói: “Hỡi Tử Thần, ngay cả ngươi, ta cũng chẳng thèm quan tâm đến nữa.

Ngươi có gì nữa để khủng bố ta?” Điều này sẽ đến với tất cả mọi người. Liệu có lập luận nào, có chứng cứ hợp lý nào cho thuyết tái sinh của linh hồn? Cho đến lúc này thì chúng ta chỉ mới đưa ra được khía cạnh tiêu cực, chỉ mới chứng minh được rằng lập luận trái ngược dùng để phản bác nó là không giá trị.

Có chứng cứ tích cực nào hay không? Có, và vô cùng giá trị là đằng khác. Không một thuyết nào ngoài thuyết tái sinh lại có thể giải thích được sự khác biệt lớn lao về khả năng tiếp thu kiến thức nơi con người. Trước hết, ta hãy xét tiến trình của phương thức thu hoạch kiến thức.

Giả sử tôi đi ngoài đường và thấy một con chó. Làm sao tôi biết được đó là con chó? Tôi đối chiếu nó với tâm trí tôi, và trong tâm trí tôi đã có sẵn nhiều nhóm của tất cả những loại kinh nghiệm trong quá khứ, được sắp xếp ngăn nắp theo từng ngăn kéo, có thể nói như vậy.

Ngay khi một ấn tượng mới xuất hiện, tôi nắm bắt lấy nó và đối chiếu với các ngăn kéo cũ, khi vừa tìm được một nhóm ấn tượng tương tự đã có sẵn rồi thì tôi đặt ngay ấn tượng mới vào nhóm đó, và thấy hài lòng. Tôi biết nó là con chó, vì nó trùng khớp với những ấn tượng đã có sẵn ở đó rồi.

Khi tôi không tìm thấy bên trong đó một thứ gì tương tự với kinh nghiệm mới này thì tôi đâm ra bực bội.

Khi không tìm được thứ tương tự với ấn tượng mới này, chúng ta đâm ra bực bội, trạng thái tâm trí đó được gọi là “ngu muội”; nhưng khi tìm được thứ đã có sẵn tương tự với ấn tượng mới này, chúng ta thấy hài lòng, trạng thái tâm trí đó được gọi là “kiến thức”.

Khi trái táo rơi, người ta thấy bực bội. Rồi dần dần họ phát hiện ra một loạt các ấn tượng tương tự, hình thành nên một chuỗi sự kiện, có thể nói như vậy. Chuỗi sự kiện mà họ phát hiện đó là gì? Đó là: tất cả trái táo đều rơi. Và người ta gọi đó là “lực hấp dẫn”.

Bây giờ, chúng ta thấy rằng nếu không có sẵn một số vốn kinh nghiệm thì không thể nào có được kinh nghiệm mới, bởi vì không có gì để đối chiếu với ấn tượng mới.

Do đó, nếu theo quan điểm của một số triết gia châu Âu, một đứa bé ra đời với cái cái mà họ gọi là tabula rasa (tâm hồn như tờ giấy trắng) thì nó sẽ không đạt đến năng lực nhận thức ở bất kỳ trình độ nào, vì nó không có gì để đối chiếu với kinh nghiệm mới.

Ta thấy rằng khả năng tiếp thu kiến thức khác nhau theo từng người, và điều này cho thấy mỗi người trong chúng ta đều ra đời với một số vốn kiến thức của riêng mình.

Kiến thức chỉ có thể được thu hoạch theo một phương thức duy nhất, đó là phương thức của kinh nghiệm; không có một phương thức nào khác cả. Nếu ta không trải nghiệm được nó trong kiếp sống này thì chắc chắn đã trải nghiệm nó trong những kiếp sống khác.

Tâm lý sợ chết hiện diện ở khắp mọi nơi như thế nào? Một chú gà con vừa mới chui ra khỏi trứng, một con diều hâu bay tới, thế là nó sợ hãi nấp ngay vào bụng mẹ. Có một cách giải thích đã cũ (lẽ ra tôi cũng không nên đề cao nó với tên gọi như thế), cách đó được gọi là bản năng.

Điều gì đã khiến cho con gà vừa mới chui ra khỏi trứng đã sợ chết? Vì sao một chú vịt con – do con gà mẹ ấp nở ra – khi đến bên dòng nước lại nhảy xuống để bơi? Nó chưa từng học bơi trước đó, mà cũng chưa từng thấy một con vật nào bơi bao giờ.

Người ta gọi đó là bản năng. Đó là một danh từ thật to tát, nhưng nó vẫn bỏ mặc chúng ta đứng ở ngay tại vị trí như trước đó.

Chúng ta hãy nghiên cứu hiện tượng bản năng. Một cô bé bắt đầu học dương cầm. Trước tiên nó phải chú ý đến từng phím đàn mà ngón tay đang đánh; và cứ thế hết tháng này sang năm khác, khả năng chơi đàn trở nên hầu như vô thức, chỉ theo bản năng.

Cái mà ban đầu được thực hiện bằng ý chí tỉnh táo thì về sau không còn đòi hỏi đến sự cố gắng của ý chí nữa. Đây cũng chưa phải là chứng cứ trọn vẹn.

Vẫn còn lại một nửa, đó là: hầu như mọi thao tác mang tính bản năng lúc này đều có thể đặt dưới sự kiểm soát của ý chí. Mỗi cơ bắp trong thân thể đều có thể nằm trong vòng kiểm soát.

Điều này thì ai nấy cũng đều biết rất rõ. Như thế, nhờ vào phương pháp song trùng này mà chứng cứ đó được trọn vẹn, ấy là cái mà ta giờ đây chúng ta gọi là bản năng chính là sự thoái hóa của những hành vi ý chí; do đó, nếu đem vận dụng luật tương tự cho toàn thể tạo vật, nếu thiên nhiên là đồng thể thì cái được xem là bản năng nơi loài vật cấp thấp, cũng như nơi con người, chắc chắn phải là sự thoái hóa của ý chí.

Từ việc nghiên cứu thế giới vi mô, chúng ta khám phá được rằng mọi quá trình nội trưởng đều giả định trước một quá trình tiến hóa, và mọi quá trình tiến hóa đều giả định trước một quá trình nội trưởng.

Bản năng được giải thích như thế nào dưới ánh sáng của kiến thức này? Cái mà chúng ta gọi là bản năng là kết quả của hành vi ý chí. Bản năng nơi con người và loài vật, do đó, phải được tạo ra từ những hành vi ý chí trước đó.

Khi nói về những hành vi ý chí, chúng ta chấp nhận có kinh nghiệm đã qua. Kinh nghiệm này tạo nên bản năng như thế đó. Chú gà con sợ chết, chú vịt con nhảy xuống bơi trong nước, cùng tất cả những hoạt động vô thức nơi con người – vốn là kết quả của những kinh nghiệm trong quá khứ – giờ đây đều trở thành bản năng.

Cho đến lúc này thì chúng ta đã tiến hành công việc một cách rõ ràng, và cho đến nay, nền khoa học tân tiến nhất đã đứng về phía chúng ta. Các nhà khoa học tân tiến nhất đang quay về với những bậc hiền triết cổ xưa nhất, và chừng nào họ đã làm được thế thì không còn khó khăn nào nữa.

Họ thừa nhận mỗi con người hay mỗi con vật đều được sinh ra với một số vốn kinh nghiệm, và mọi bản năng trong tâm trí đều là kết quả của những hành vi ý chí. Họ đặt câu hỏi: “Có ích gì khi nói rằng kinh nghiệm thuộc về linh hồn? Sao không bảo rằng nó thuộc về thể xác, và chỉ thể xác mà thôi?

Sao không nói rằng nó mang yếu tố di truyền?” Đây là câu hỏi cuối cùng.

Sao không nói rằng mọi kinh nghiệm mà tôi có được khi sinh ra đời đều là kết quả từ tất cả những kinh nghiệm trong quá khứ của tổ tiên tôi? Tổng số kinh nghiệm từ chất nguyên sinh bé nhỏ cho đến con người cao siêu nhất đều có ở trong tôi, nhưng nó đã chuyển từ thể xác này sang thể xác khác trong quá trình di truyền.

Khó khăn sẽ nằm ở đâu? Câu hỏi rất là hay, và chúng ta chấp nhận một phần nào thuyết di truyền. Đến mức độ nào?

Trong phạm vi cung cấp chất liệu. Chúng ta, bằng những hành động trong quá khứ, tự thích ứng với một nơi sinh nào đó, trong một thể xác nào đó; và chất liệu duy nhất thích hợp với thể xác đó xuất phát từ những cặp cha mẹ nào đã tự biến mình cho phù hợp để nhận linh hồn đó làm con cái.

Nhưng thuyết di truyền đơn giản đó lại mặc nhiên công nhận một mệnh đề kỳ dị nhất mà không cần đến bất kỳ chứng cứ nào, đó là: kinh nghiệm tinh thần có thể được ghi lại trong vật chất, và kinh nghiệm tinh thần có thể được nội trưởng trong vật chất.

Khi tôi nhìn các bạn thì hồ nước trong tâm trí tôi gợn lên một con sóng. Con sóng đó lắng xuống, nhưng nó vẫn còn lại lưu lại trong hình thức tế vi, như là một ấn tượng.

Chúng ta hiểu được ấn tượng vật lý lưu lại trong thể xác. Nhưng có chứng cứ nào để thừa nhận rằng ấn tượng vật lý đó có thể còn tồn tại trong thể xác, khi mà thể xác đã rã tan từng mảnh? Cái gì mang nó đi?

Cho dù mặc nhiên chấp nhận rằng mọi ấn tượng tinh thần đều có thể tồn tại trong thể xác – rằng mọi ấn tượng, bắt đầu từ người đầu tiên đến cha tôi, đều tồn tại nơi thể xác cha tôi – thì nó di truyền qua tôi bằng cách nào? Thông qua tế bào nguyên sinh chất [ bioplasmic cell] chăng?

Làm sao có thể xảy ra điều đó? Bởi vì thể xác người cha đâu có truyền toàn bộ sang người con.

Cùng một cha mẹ có thể có nhiều người con, vậy thì từ thuyết di truyền này – cho rằng ấn tượng và vật chịu ấn tượng (tức là vật chất) là một – ta đi tới một kết luận chặt chẽ rằng mỗi khi sinh một đứa con thì cha mẹ đều phải mất đi một phần ấn tượng của riêng mình; hoặc nếu cha mẹ phải truyền toàn bộ ấn tượng sang đứa con thì sau khi đứa con đầu lòng, tâm trí họ sẽ trở nên trống rỗng.

Lại nữa, nếu số lượng vô tận những ấn tượng từ hồi nào tới giờ đều nhập vào trong tế bào nguyên sinh chất thì chúng có thể tồn tại ở chỗ nào trong đó và bằng cách nào?

Đây là một luận điểm hoàn toàn bất khả thi; và chừng nào những nhà sinh lý học còn chưa thể chứng minh được những ấn tượng đó sống ở đâu trong tế bào và sống như thế nào, và chưa thể giải thích được ý nghĩa của điều mà họ gọi là giấc ngủ của ấn tượng tinh thần trong tế bào vật chất thì chúng ta vẫn không thể chấp nhận luận điểm đó là đúng được.

Như vậy, cho đến nay, rõ ràng là ấn tượng này hiện hữu trong tâm trí, còn tâm trí thì cứ sinh rồi tái sinh, và sử dụng chất liệu phù hợp nhất với nó, và tâm trí – chỉ tự thích ứng với một dạng thể xác đặc thù nào đó – sẽ phải chờ đợi cho đến khi nó nhận được chất liệu đó.

Điều này thì chúng ta hiểu. Như vậy, thuyết di truyền lại đi đến điều này: có hiện tượng di truyền trong phạm vi liên quan đến việc truyền chất liệu cho linh hồn.

Nhưng linh hồn di trú và tạo nên hết thể xác này đến thể xác khác; mỗi ý tưởng ta tư duy, mỗi hành vi ta thực hiện đều được lưu giữ trong linh hồn dưới một hình thức tế vi, sẵn sàng bung ra và nhận một hình thức mới. Khi tôi nhìn các bạn thì một con sóng gợn lên trong tâm trí tôi.

Nó lắng xuống, có thể nói như vậy, và trở nên nhỏ dần, rồi nhỏ dần hơn nữa, nhưng không tan biến hẳn. Nó sẵn sàng khởi động trở lại, như là con sóng, dưới hình dạng của ký ức.

Như thế, mọi ấn tượng đều hiện hữu trong tâm trí tôi, và khi tôi chết thì sức mạnh phát sinh từ chúng sẽ tác động lên tôi.

Ở đây có một trái banh, mỗi người trong chúng ta cầm một cái vồ trên tay và đánh vào nó từ mọi hướng; trái banh văng từ điểm này sang điểm khác trong căn phòng, và khi nó văng đến cánh cửa lớn thì nó bay ra ngoài. Cái gì mang nó đi? Kết quả phát sinh từ tất cả những cú đánh này.

Nó sẽ điều khiển hướng đi của trái banh. Như thế, cái gì hướng dẫn linh hồn khi thể xác chết đi? Kết quả phát sinh, tổng số những hành vi mà nó đã làm, những ý tưởng mà nó đã tư duy.

Nếu kết quả phát sinh này lớn mạnh đến mức cần phải tạo ra một thể xác mới cho những kinh nghiệm sâu xa hơn, nó đi đến những cặp cha mẹ nào sẵn sàng cung cấp cho nó chất liệu thích hợp để tạo nên thể xác đó.

Như thế, linh hồn sẽ di chuyển từ thể xác này sang thể xác khác, có lúc thì nó lên các cõi trời, rồi quay về lại trần gian để làm người hoặc làm một con vật thấp kém nào đó. Nó sẽ đi mãi theo lộ trình này cho đến khi hoàn tất mọi kinh nghiệm và kết thúc chu trình.

Như vậy thì nó sẽ biết được bản tính mình, biết được nó là gì, vô minh tan biến; năng lực của nó hiện ra, và nó trở nên hoàn hảo. Linh hồn không còn cần phải hành động thông qua thể xác vật chất, cũng không còn cần phải hành động thông qua thể xác tế vi hơn hay thể xác tinh thần nữa.

Nó tỏa sáng trong hào quang của chính nó và đạt đến giải thoát, không còn sinh, không còn tử nữa. Bây giờ thì chúng ta sẽ không đi sâu vào những điểm đặc thù của vấn đề này. Mà tôi sẽ trình bày với các bạn một điểm nữa, có liên quan với thuyết tái sinh.

Chính thuyết này đã thúc đẩy sự tự do của linh hồn con người. Nó là một lý thuyết duy nhất không hề đổ lỗi cho bất kỳ ai về sự yếu kém của chúng ta, theo thói xấu thường có ở con người. Chúng ta không thấy được lỗi của chính mình; đôi mắt không tự nhìn thấy chúng, mà chỉ thấy đôi mắt của bao người khác.

Con người chúng ta thường rất chậm nhận ra khuyết điểm của mình, sai lầm của mình, chừng nào ta còn có thể đổ lỗi được cho người khác.

Con người thường hay đổ mọi lỗi lầm của đời mình lên người khác, nếu không được thế thì đổ lỗi cho Thượng Đế, hoặc họ gọi một hồn ma nào đó lên, và gọi đó là số phận. Đâu là số phận, và ai là số phận? Chúng ta gieo gì gặt nấy.

Chúng ta là những người tạo ra số phận của chính mình. Không có ai khác hơn để trách cứ, không có ai khác hơn để ngợi khen. Gió đang thổi, chiếc thuyền nào giương buồm thì đón được gió và thẳng tiến theo lộ trình của chúng, còn chiếc thuyền nào để buồm cuốn lại thì không đón được gió.

Đó có phải là lỗi của gió đâu? Đó có phải là lỗi của người Cha nhân từ chăng – người đang để ngọn gió khoan dung của mình thổi suốt ngày đêm không ngớt, người mà lòng nhân hậu không hề sút giảm? Đó có phải là lỗi của Ngài chăng, nếu như một số trong chúng ta hạnh phúc, còn một số trong chúng ta bất hạnh?

Chúng ta tự tạo nên số phận của chính mình. Mặt trời của Ngài tỏa sáng như nhau cho kẻ yếu cũng như người mạnh. Ngọn gió của Ngài thổi như nhau cho bậc thánh nhân cũng như người tội lỗi.

Ngài là Chúa Tể của vạn hữu, là người Cha của muôn loài, nhân từ và công chính. Các bạn có ý muốn nói rằng Ngài – đấng Chúa Tể của tạo vật – cũng nhìn những chuyện nhỏ nhặt trong đời chúng ta bằng một thứ ánh sáng mà chúng ta nhìn chúng chăng?

Thật là một quan niệm quá ư suy đồi về Thượng Đế! Chúng ta như những con búp-bê, đấu tranh với nhau chí mạng ở nơi đây, và điên rồ ngỡ rằng cho đến cả Thượng Đế cũng xem những thứ đó là nghiêm trọng như chúng ta. Ngài nào biết trò chơi của những con búp-bê đó có ý nghĩa gì.

Chúng ta cố đổ lỗi cho Ngài, biến Ngài thành người thưởng phạt, điều đó chỉ là thứ điên rồ. Ngài không bao giờ phạt hay thưởng bất kỳ ai.

Lòng nhân từ vô lượng của Ngài luôn mở rộng ra với tất cả chúng sinh, mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện, không bao giờ cùng tận, không bao giờ đổi thay. Lợi dụng được điều đó như thế nào là tùy thuộc ở ta. Đừng oán trách người hay Thượng Đế, cũng đừng đổ lỗi cho bất kỳ ai trong thế gian[2].

Khi gặp đau khổ, hãy tự trách mình và cố gắng làm tốt hơn. Đó là giải pháp duy nhất cho vấn đề này. Những kẻ oán trách người khác – than ôi! số lượng bọn họ gia tăng từng ngày – thường là những kẻ khốn khổ mang đầu óc bất lực yếu hèn; họ sa vào tình cảnh đó là do lỗi lầm của chính bản thân.

Họ oán trách kẻ khác, nhưng điều đó chẳng thay đổi được tình cảnh của họ. Nó chẳng giúp ích được cho họ bất kỳ điều gì. Mưu toan đổ lỗi cho người khác chỉ làm cho họ thêm yếu hèn bất lực.

Bởi vậy, đừng bao giờ đổ lỗi cho bất kỳ ai vì lỗi lầm của mình, hãy đứng trên đôi chân của chính mình, và chịu hoàn toàn trách nhiệm về bản thân mình.

Hãy nói: “Khốn khổ mà tôi đang gánh chịu là do tự tôi gây ra, và chính điều đó chứng minh rằng chỉ có tôi mới có thể gỡ bỏ được chúng mà thôi. Cái gì do tôi đã tạo ra thì tôi có thể phá hủy, còn cái gì do người khác tạo ra thì tôi sẽ không bao giờ có thể phá hủy được cả”.

Bởi vậy, hãy đứng lên, hãy dũng cảm, hãy mạnh mẽ lên. Hãy gánh vác toàn bộ trách nhiệm trên chính đôi vai các bạn, và hãy biết rằng các bạn là người tạo ra số phận cho chính bản thân mình. Tất cả sức mạnh và sự trợ giúp mà các bạn cần đều ở trong chính bạn.

Bởi vậy, hãy tạo nên tương lai cho chính mình. “Hãy để quá khứ chết chôn cất người chết”.

Tương lai vô tận đang mở ra trước mặt các bạn, và các bạn phải luôn nhớ rằng mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ, mỗi hành vi đều chồng chất thành một kho chứa cho bạn; những suy nghĩ xấu xa và hành vi xấu xa – như đàn cọp dữ – đều sẵn sàng nhảy chồm vào bạn như thế nào, song vẫn có niềm hy vọng gợi nhiều cảm hứng như thế ấy, đó là: những suy nghĩ tốt đẹp và hành vi tốt đẹp sẵn sàng bảo vệ bạn, luôn luôn và mãi mãi, bằng sức mạnh của muôn vạn thiên thần.

[1] Sách Đại Học của Nho gia cũng nói: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” 心不在焉, 視而不見, 聽而不聞, 食而不知其味。(Tâm không đặt vào đó thì nhìn mà không thấy, nghe mà không hay, ăn mà không biết mùi vị).

[2] So sánh với câu nói của Khổng Tử: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân 上 不 怨 天, 下 不 尤 人 (Trên không oán Trời, dưới không trách người. Trung Dung, XIV).

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x