Trang chủ » Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn III

by Trung Kiên Lê
74 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại London, 17 tháng 11, 1896)

Trong Chhādogya Upanishad, chúng ta đọc thấy câu chuyện một vị hiền triết tên Nārada tìm đến một vị hiền triết khác tên Sanatkumāra để hỏi một vài câu, một trong các câu hỏi đó liên quan đến căn nguyên của sự vật đúng như chúng đang hiện hữu.

Và Sanatkumāra đã hướng dẫn Nārada, có thể nói là theo từng bước một, bảo rằng có một thứ cao siêu hơn trái đất, rồi có một thứ cao siêu hơn thứ cao cả đó, v.v…, cuối cùng ông dẫn đến ākāśa.

Ākāśa cao siêu hơn ánh sáng, bởi vì mặt trời, mặt trăng, ánh sáng và tinh tú đều ở trong ākāśa; chúng ta sống trong ākāśa, và chết trong ākāśa. Rồi Nārada đặt câu hỏi: vậy còn có cái gì cao siêu hơn ākāśa? Và Sanatkumāra trả lời đó là prāna.

Ākāśa, theo triết học Vedānta, là nguyên lý của sự sống. Prāna, cũng giống như ākāśa, là một nguyên lý toàn nhiên phổ hiện; và mọi chuyển động, dù là trong thể xác hay tại bất kỳ nơi nào khác, cũng đều là hoạt động của prāna. Nó cao siêu hơn ākāśa, và nhờ nó mà muôn vật được sinh tồn.

Prāna ở trong người mẹ, người cha, trong chị em, trong người thầy, prāna là bậc trí giả. Tôi sẽ đọc một đoạn kinh văn khác, trong đó Śhvetaketu hỏi cha mình về Chân Lý.

Người cha giảng giải cho ông nghe đủ điều rồi kết luận: “Cái làm nên căn nguyên tế vi của muôn vật thì muôn vật được tạo ra từ Nó. Cái Đó là Cái Toàn Thể; Cái Đó là Chân Lý; con là Cái Đó, hỡi Śhvetaketu”.

Rồi ông đưa ra nhiều ví dụ: “Cũng như con ong, này Śhvetaketu, gom mật từ nhiều bông hoa khác nhau, cũng như mật không hề biết chúng được tạo từ nhiều loại cây khác nhau, từ nhiều loại hoa khác nhau; chúng ta cũng vậy, khi đến với Tồn Tại đó, chúng ta cũng không hề biết mình đang làm vậy.

Bây giờ, Cái Đó – tức bản thể tế vi mà trong Nó muôn vật đều tồn tại – cũng có Chân Ngã của nó. Đó là Cái Chân Thực. Đó là Chân Ngã, và này Śhvetaketu, con là Cái Đó”.

Người cha lại tiếp tục đưa ra ví dụ về dòng sông chảy ra biển: “Giống như những con sông, khi chảy về đại dương thì chúng không hề biết mình là nhiều con sông khác nhau; cũng thế, khi chúng ta ra khỏi Cái Tồn Tại đó, ta cũng không hề biết rằng mình là Cái Đó.

Này Śhvetaketu, con là Cái Đó”. Người cha lại tiếp tục giảng giải như thế. Bây giờ, có hai nguyên lý nhận thức. Nguyên lý thứ nhất như vầy: ta nhận biết là nhờ đối chiếu cái riêng [ particular] với cái chung [ general], rồi đối chiếu cái chung với cái phổ quát [ universal].

Nguyên lý thứ hai như vầy: bất cứ sự vật nào cần đến sự giải thích đều phải được giải thích trong phạm vi liên quan đến tự tính của nó. Vận dụng nguyên lý thứ nhất, ta thấy rằng mọi kiến thức của chúng ta thực ra là sự phân loại từng bước lên cao dần.

Khi một sự vật diễn ra đơn độc, có thể nói là chúng ta không được thỏa mãn; nhưng khi tất cả các trái táo đều rơi thì ta gọi đó là lực hấp dẫn và thấy hài lòng. Đó là sự kiện mà ta suy diễn từ cái riêng đến cái chung. Khi muốn nghiên cứu tôn giáo, ta nên vận dụng phương pháp khoa học này.

Cũng một nguyên lý đó, áp dụng tại đây vẫn rất tốt; và trên thực tế, ta thấy rằng đó là phương pháp bao trùm khắp mọi lĩnh vực.

Khi đọc những cuốn sách này, mà tôi vẫn đang tiếp tục diễn dịch cho các bạn, ý tưởng sớm nhất về vũ trụ mà tôi có thể nêu ra chính là nguyên lý này: suy diễn từ cái riêng đến cái chung.

Chúng ta thấy chư thần – các “sinh thể ngời sáng” – được hòa lẫn vào nhau thành một nguyên lý duy nhất như thế nào; và cũng tương tự như thế, trong các vũ trụ luận của những nhà tư tưởng cổ đại – từ những nguyên tố tế vi, họ đi dần đến những nguyên tố cao hơn và bao trùm hơn; và từ những cái đặc thù, những cái riêng họ đi đến khái niệm ākāśa toàn nhiên phổ hiện; rồi từ ākāśa, họ đi đến một sức mạnh bao trùm các vũ trụ, đó là prāna.

Và xuyên suốt qua vạn hữu là nguyên lý này: không có sự tách biệt giữa sự vật này với sự vật kia. Chính ākāśa hiện hữu trong hình thức prāna cao hơn; và hình thức prāna cao hơn này cô đọng lại, có thể nói như vậy, và biến thành ākāśa; rồi ākāśa lại trở nên thô hơn, và cứ tiếp tục như thế.

Khái quát hóa một Thượng Đế Nhân Thể là trường hợp điển hình khác. Chúng ta đã thấy cách thức để đạt đến sự khái quát hóa đó, và vị Thượng Đế Nhân Thể đó được gọi là tổng số của mọi ý thức như thế nào. Nhưng một khó khăn khác lại nảy sinh – đó là sự khái quát hóa không trọn vẹn.

Ta chỉ lấy một mặt trong những sự kiện tự nhiên, sự kiện của ý thức, rồi khái quát hóa mặt đó, mà bỏ qua mặt kia. Bởi vậy, trước hết, ta thấy đó là sự khái quát hóa phiến diện. Còn có một điểm bất toàn khác liên quan tới nguyên lý thứ hai.

Muôn vật đều phải được giải thích theo bản chất của chúng.

Có người cho rằng táo rơi là do ma quỷ kéo chúng xuống, nhưng cách giải thích là lực hấp dẫn; mặc dầu chúng ta thấy cách giải thích này chưa phải là hoàn hảo, nhưng nó vẫn hay hơn các cách giải thích khác, bởi vì nó dựa theo bản chất của sự vật, trong khi những cách giải thích khác lại áp đặt một nguyên nhân xa lạ bên ngoài.

Xuyên suốt mọi lĩnh vực của tri thức của chúng ta, cách giải thích dựa theo bản chất của chính sự vật là cách giải thích khoa học, cách giải thích dựa vào tác nhân bên ngoài là cách giải thích phản khoa học.

Do đó, cách giải thích Thượng Đế Nhân Thể như là đấng Hóa Công sáng tạo nên vũ trụ phải đương đầu với thử thách này.

Nếu bảo rằng Thượng Đế đó ở bên ngoài thế giới tự nhiên, không liên quan gì với thế giới tự nhiên, và thế giới tự nhiên này được tạo dựng từ hư không theo lệnh của Ngài thì đó là một lý thuyết cực kỳ phản khoa học, và đây là điểm yếu của mọi tôn giáo hữu thần tự cổ chí kim.

Ta tìm thấy hai khuyết điểm này trong những thuyết được gọi chung là độc thần giáo, đó là thuyết về một Thượng Đế Nhân Thể mang đủ phẩm chất con người, chỉ có điều là những phẩm chất này được nhân lên vô số lần; vị Thượng Đế này dùng ý chí của mình để sáng tạo nên vũ trụ từ hư không, mà vẫn tách biệt với vũ trụ đó.

Thuyết này dẫn đến hai điều nan giải. Như chúng ta đã thấy, thuyết này là sự khái quát hóa không đầy đủ, thứ hai là nó không phải là cách giải thích thế giới tự nhiên bằng thế giới tự nhiên. Nó chủ trương có quả không nhân, và nhân đó hoàn toàn tách biệt với quả.

Thế nhưng, mọi kiến thức của con người đã chứng minh rằng quả chỉ là nhân dưới hình thức khác.

Những khám phá khoa học đang có xu hướng tiến đến quan niệm này từng ngày, và thuyết cuối cùng được chấp nhận trên mọi phương diện là thuyết tiến hóa với nguyên lý: quả chỉ là nhân trong hình thức khác, là sự tái điều chỉnh của nhân, và nhân mang hình thức của quả.

Thuyết sáng tạo từ hư không chỉ đem lại cho các nhà khoa học hiện đại một trận cười. Bây giờ thì tôn giáo có thể đương đầu với thử thách này không?

Nếu có một giáo lý nào đó có thể đương đầu được với thử thách này thì nó sẽ được các nhà khoa học hiện đại cùng các nhà tư tưởng chấp nhận.

Bất kỳ giáo lý nào yêu cầu con người hiện đại phải tin, nhân danh giới tăng lữ, giáo hội, kinh điển thì sẽ bị họ chối từ, và hậu quả là tình trạng tín ngưỡng gớm guốc diễn ra tràn lan. Ngay cả với những người làm ra vẻ có đức tin thì trong thâm tâm họ vẫn là tình trạng vô tín ngưỡng đáng sợ.

Những người còn lại sẽ lánh xa tôn giáo, có thể nói như vậy, họ từ bỏ nó vì xem tôn giáo chỉ là nghề đi tu mà thôi. Tôn giáo bị giảm trừ thành một loại hình mang tính quốc gia. Đó là một trong những phần cặn lắng tốt đẹp nhất trong xã hội chúng ta; hãy cứ để nó nguyên như thế.

Nhưng nhu cầu thực sự, mà thế hệ ông cha của người hiện đại đã cảm nhận về nó, đã không còn nữa; chúng ta thấy nó không còn thỏa mãn được lý trí của mình.

Quan niệm về một Thượng Đế Nhân Thể như thế, về một sự sáng tạo như thế – thường được hiểu là thuyết độc thần trong mọi tôn giáo – không thể đứng vững được nữa.

Tại Ấn Độ, những luận sư Phật giáo đã làm cho thuyết đó không còn đứng vững; và đó chính là điểm mà họ giành được chiến thắng trong thời cổ đại.

Các luận sư đó chỉ ra rằng nếu chúng ta chấp nhận trong thế giới tự nhiên có sức mạnh vô biên, có thể đáp ứng được mọi nhu cầu của chúng ta thì đâu cần thiết phải khẳng định có một cái gì đó bên cạnh thế giới tự nhiên. Ngay cả linh hồn cũng không cần thiết.

Cuộc tranh luận về bản thể và phẩm tính[1] đã quá xưa cũ rồi, và đôi khi các bạn sẽ thấy rằng điều mê tín cũ vẫn còn sống mãi đến tận ngày nay.

Phần lớn các bạn đã đọc thấy trong thời Trung cổ, và tôi xin phép được nói là cả sau đó rất lâu nữa, điều đó là một trong những chủ đề tranh luận như thế nào rồi, xem có phải phẩm tính tùy thuộc vào bản thể hay không, xem độ dài, độ cao và độ dày có tùy thuộc vào bản thể mà ta gọi là vật chất chết hay không, xem khi bản thể còn tồn tại thì phẩm tính còn hay mất.

Về vấn đề này, các luận sư Phật giáo nói: “Không thể có một nền tảng để duy trì sự tồn tại của một bản thể như thế, phẩm tính là tất cả những gì tồn tại, ta không nhìn vượt qua chúng được”. Đó cũng chính là lập trường của hầu hết những người theo thuyết bất khả tri hiện đại.

Cuộc chiến giữa bản thể và phẩm tính, trên một bình diện cao hơn, đã mang hình thức của cuộc chiến giữa nguyên thể [ noumenon] và hiện tượng[2].

Có thế giới hiện tượng, vũ trụ của biến dịch không ngừng, và có một cái gì đó ở đằng sau không hề biến dịch; và một số người cho rằng tính nhị nguyên của tồn tại – nguyên thể và hiện tượng – là chân thực; một số khác – với lý tính tốt hơn – lại cho rằng ta không có quyền chấp nhận cả hai, bởi vì tất cả những gì ta thấy, cảm nhận và tư duy cũng chỉ là hiện tượng.

Ta không có quyền khẳng định là có một cái gì đó ở bên kia hiện tượng giới, và vấn đề này vẫn không có lời giải đáp. Nhất nguyên luận của triết học Vedānta đã đem đến lời giải đáp.

Theo thuyết này, chỉ có một sự thể duy nhất tồn tại, và sự thể đó hoặc là nguyên thể hoặc là hiện tượng. Thật không đúng khi cho rằng có một cái biến dịch, và một cái bất biến trong biến dịch; chỉ có một sự thể duy nhất biểu hiện như là biến dịch, mà trong thực tế là bất biến.

Chúng ta đi đến lập trường cho rằng thể xác, tâm trí và linh hồn là sai biệt đa thù, nhưng trong thực tế chúng chỉ là một; và cái một đó hiển lộ trong nhiều hình thể khác nhau.

Ta hãy dùng ví dụ minh họa nổi tiếng của những người theo nhất nguyên luận, đó là nhận lầm sợi dây thừng là con rắn. Một số người, trong bóng tối hay vì lý do nào khác, thấy sợi dây thừng ngỡ là con rắn, nhưng khi họ hiểu ra thì con rắn biến mất, và thấy đó chỉ còn lại sợi dây.

Bằng minh họa này, chúng ta thấy rằng khi con rắn tồn tại trong tâm trí thì sợi dây thừng biến mất, nhưng khi sợi dây thừng tồn tại trong tâm trí thì con rắn không còn.

Khi ta nhìn thấy thế giới hiện tượng quanh ta, và chỉ nhìn thấy hiện tượng thôi thì nguyên thể biến mất; nhưng khi ta nhìn thấy được nguyên thể, tức cái bất biến, thì đương nhiên thế giới hiện tượng cũng không còn. Bây giờ, ta hiểu rõ hơn lập trường của các triết gia thực tại luận và duy tâm luận.

Các triết gia thực tại luận chỉ nhìn thấy hiện tượng, còn các triết gia duy tâm luận thì nhìn vào nguyên thể.

Đối với các triết gia duy tâm luận, các triết gia duy tâm luận chân chính thật sự – những người đã thực sự đạt đến năng lực nhận thức để qua đó gạt bỏ mọi khái niệm biến dịch – thì vũ trụ biến dịch đã biến mất, và ông ta có quyền nói rằng tất cả đều là hư huyễn, không hề có biến dịch.

Cùng lúc đó thì các triết gia thực tại luận lại nhìn vào thế giới hiện tượng đầy biến dịch. Đối với ông ta, cái bất biến đã biến mất, và ông ta có quyền nói rằng chỉ có thế giới hiện tượng là thực hữu.

Cuộc tranh luận này dẫn đến điều gì? Đó là: quan niệm một Thượng Đế Nhân Thể là quan niệm không đầy đủ. Chúng ta phải vươn đến một cái gì đó cao siêu hơn, một quan niệm Thượng Đế Phi Nhân Thể. Đó chỉ là một bước đi mang tính lý luận.

Không phải bước đi này sẽ phá hủy quan niệm Thượng Đế Nhân Thể, cũng không phải chúng ta sẽ chứng minh rằng Thượng Đế Nhân Thể không tồn tại, mà chúng ta đi đến cách lý giải Thượng Đế Phi Nhân Thể bằng Thượng Đế Nhân Thể, bởi vì so với khái niệm Nhân Thể thì khái niệm Phi Nhân Thể mang tính phổ quát hơn rất nhiều.

Thượng Đế Phi Nhân Thể chỉ có thể là Cái Vô Biên, còn Thượng Đế Nhân Thể thì bị hạn định. Do đó, chúng ta giữ lại khái niệm Thượng Đế Nhân Thể chứ không phá bỏ.

Thường có sự nghi ngờ rằng nếu đạt đến khái niệm Thượng Đế Phi Nhân Thể thì khái niệm Thượng Đế Nhân Thể sẽ bị hủy bỏ; nếu đạt đến khái niệm Con Người Phi Nhân Thể [ Impersonal Man] thì khái niệm Con Người Nhân Thể [ Personal Man] sẽ bị hủy bỏ.

Nhưng theo quan niệm của triết học Vedānta thì không có chuyện phá hủy cá nhân, mà là chứng thực nó.

Chúng ta không thể chứng minh được một cá thể bằng bất kỳ phương tiện nào khác, ngoài việc đối chiếu với cái phổ quát, bằng cách chứng minh rằng cá thể thực ra là cái phổ quát. Nếu ta nghĩ rằng cá thể tách biệt với tất cả sự vật khác trong vũ trụ thì suy tưởng đó không thể trụ vững dù chỉ trong một phút.

Một sự vật như thế không bao giờ tồn tại. Thứ hai, việc vận dụng nguyên lý thứ hai, nghĩa là giải thích sự vật phải bắt đầu từ bản chất của sự vật đó, sẽ đưa chúng ta đến với một quan niệm còn táo bạo hơn, và khó hiểu hơn.

Chẳng có gì ngoài điểm này: Hằng Hữu Phi Nhân Thể – tức sự phổ quát hóa tối cao của chúng ta – nằm bên trong chúng ta, và ta là Cái Đó. “Này Śhvetaketu, ngươi là Cái Đó”.

Các bạn là Hằng Hữu Phi Nhân Thể đó; vị Thượng Đế, mà các bạn mải miết đi tìm trong khắp vũ trụ này, chính là các bạn – các bạn không phải hiểu theo nghĩa nhân thể mà theo nghĩa phi nhân thể.

Con người mà chúng ta nhận biết, con người được hiển lộ, là con người được nhân thể hóa, nhưng thực chất chính là Phi Nhân Thể. Để hiểu được nhân thể, ta phải quy chiếu nó với Phi Nhân Thể, cái riêng phải được quy chiếu với cái chung, cái đặc thù phải được quy chiếu với cái phổ quát.

Và cái Phi Nhân Thể đó chính là Thực Ngã của con người. Sẽ còn một số vấn đề liên quan đến điểm này, và tôi sẽ cố gắng giải đáp khi chúng ta tiếp tục các bài giảng. Nhiều vấn nạn sẽ phát sinh, nhưng trước hết, chúng ta hãy hiểu rõ lập trường của nhất nguyên luận.

Với tư cách là những sinh thể hiển lộ [ manifested being], có vẻ như chúng ta tách biệt nhau, nhưng thực thể của chúng ta là một; và chúng ta càng ít nghĩ mình tách biệt với Nhất Thể càng tốt. Hễ càng nghĩ rằng mình tách biệt với toàn thể thì chúng ta càng trở nên khốn khổ.

Từ nguyên lý của nhất nguyên luận, chúng ta đạt đến nền tảng của đạo đức, và tôi dám bạo dạn nói rằng chúng ta không thể đạt đến nền tảng của đạo đức từ bất kỳ một nơi nào khác.

Chúng ta biết rằng quan niệm cổ nhất về đạo đức cho rằng đó là ý chí của một người hay một số người đặc biệt, nhưng chỉ có một số người công nhận điều này, bởi vì nó chỉ là sự phổ quát hóa của một phần.

Tín đồ Ấn giáo bảo chúng ta không nên làm điều này điều nọ vì kinh Veda đã nói thế, nhưng tín đồ Cơ Đốc giáo đâu có phục tùng thẩm quyền kinh Veda. Tín đồ Cơ Đốc giáo thì lại bảo chúng ta không nên làm điều này điều nọ vì Kinh Thánh đã nói thế, điều này chẳng thể ràng buộc được những người không tin Kinh Thánh.

Nhưng chúng ta cần phải có một học thuyết đủ lớn để bao hàm được nhiều nền tảng khác nhau.

Giống như có hàng triệu người tin vào một đấng Sáng Tạo Nhân Thể [ Personal Creator], nhưng vẫn có hàng ngàn đầu óc lỗi lạc nhất trên thế giới cảm thấy những quan niệm này chưa đầy đủ đối với họ, và họ cần đến một cái gì đó cao hơn; và ở bất cứ nơi nào mà tôn giáo không đủ phổ quát để bao hàm được mọi loại tâm trí thì kết quả là những đầu óc lỗi lạc nhất trong xã hội vẫn đứng ngoài phạm vi tôn giáo; và chưa bao giờ điều đó lại nổi bật hơn thời hiện đại, nhất là ở châu Âu.

Bởi vậy, để có thể bao hàm được những đầu óc lỗi lạc này, tôn giáo phải có đủ tầm phổ quát. Tất cả những gì tôn giáo khẳng định đều phải được phán đoán từ quan điểm lý tính.

Vì sao các tôn giáo đều khẳng định rằng chúng không bị ràng buộc phải trung thành với lý tính thì không một ai biết. Nếu không dựa theo tiêu chuẩn lý tính thì không thể nào có bất kỳ sự phán đoán đúng đắn nào, ngay cả trong trường hợp tôn giáo.

Một tôn giáo có thể ban những quy định rất đáng ghê sợ. Chẳng hạn Hồi giáo cho phép tín đồ tàn sát những người dị giáo. Điều đó được tuyên bố rõ ràng trong kinh Koran: “Hãy giết những kẻ dị giáo nếu chúng không trở thành tín đồ Hồi giáo”.

Phải đem bọn người dị giáo đặt trên lửa và lưỡi gươm. Bây giờ, nếu ta bảo với một tín đồ Hồi giáo rằng điều đó là sai trái thì họ sẽ trả lời một cách tự nhiên rằng: “Sao bạn biết điều đó? Sao bạn biết rằng điều đó không tốt? Kinh điển của tôi đã bảo vậy mà”.

Nếu các bạn chỉ ra rằng Kinh Thánh của các bạn cổ xưa hơn kinh Koran thì tín đồ Phật giáo sẽ đến và bảo: “Kinh điển của tôi còn cổ xưa hơn nữa”. Rồi đến những tín đồ Ấn giáo sẽ bảo: “Kinh điển của tôi là cổ nhất”. Bởi vậy kinh điển không phải là tiêu chuẩn để tham chiếu.

Như vậy các bạn so sánh dựa vào đâu? Các bạn sẽ bảo: hãy nhìn vào Bài giảng trên núi của Chúa Jesus; còn tín đồ Hồi giáo thì bảo hãy nhìn vào kinh Koran.

Tín đồ Hồi giáo sẽ bảo: ai làm trọng tại để phân xử kinh nào tốt đẹp hơn? Cả kinh Tân Ước lẫn kinh Koran đều không thể là trọng tài phân xử cuộc tranh luận này.

Cần phải có một thẩm quyền độc lập, và thẩm quyền đó không phải là bất kỳ cuốn kinh nào, mà phải là một cái gì đó có tính phổ quát, và có gì phổ quát hơn lý tính?

Người ta thường nói rằng lý tính không phải lúc nào cũng luôn luôn đủ mạnh để giúp ta đạt đến Chân Lý; nhiều khi nó phạm sai lầm, bởi vậy kết luận cuối cùng là chúng ta phải tin vào thẩm quyền của giáo hội! Một tín đồ Thiên Chúa giáo đã nói với tôi như vậy, nhưng tôi chẳng thấy một chút gì hợp lý trong đó cả.

Trái lại, tôi có thể nói, nếu lý tính yếu đuối như vậy thì thể xác của các thầy tu còn yếu đuối hơn nữa; tôi không chấp nhận phán quyết của họ, mà trung thành với lý tính của tôi, vì cùng với tất cả sự yếu đuối của lý tính, tôi vẫn có cơ hội để đạt đến chân lý thông qua nó; trong khi đó, đối với các phương tiện khác thì tôi không có được một chút hy vọng nào như vậy.

Do đó, chúng ta phải đi theo lý tính, và cũng phải thông cảm với những người đi theo lý tính mà không có được một đức tin nào. Bởi vì thà nhân loại đi theo lý tính và trở thành những người vô thần, còn hơn là tin mù quáng vào hai trăm triệu vị thần dựa trên thẩm quyền của bất kỳ ai đó.

Điều chúng ta cần là sự tiến bộ, phát triển và thực chứng. Không một giáo lý nào có thể đưa con người lên cao hơn. Không một kinh điển nào có thể đưa giúp chúng ta trở nên thuần tịnh hơn. Sức mạnh duy nhất nằm trong sự thực chứng, vốn có sẵn trong ta và xuất phát từ tư duy.

Hãy để con người tư duy. Một cục đất không bao giờ tư duy, nhưng nó vẫn chỉ là một cục đất. Niềm vinh quang của con người là: anh ta là một sinh thể biết tư duy. Bản tính con người là tư duy, và do đó, họ khác với loài vật.

Do đã thấy đủ những điều xấu xa tệ hại của uy quyền, nên tôi tin vào lý tính và đi theo lý tính, vì tôi sinh ra trong một đất nước, nơi mà dân chúng đã đi đến chỗ cực đoan của uy quyền. Tín đồ Ấn giáo tin rằng sự sáng tạo bắt nguồn từ kinh Veda.

Làm thế nào mà các bạn biết kia là một con bò? Bởi vì danh từ “bò” đã có trong kinh Veda. Làm thế nào mà các bạn biết kia là một con người? Bởi vì danh từ “người “ đã có trong kinh Veda. Nếu không phải vậy thì không hề có một con người nào trong thế gian.

Đó là những gì họ nói. Tột đỉnh uy quyền! Một vài đầu óc có năng lực đã chọn lấy thuyết này, và dệt nên những hệ thống lý luận tuyệt vời quanh nó.

Họ suy luận từ nó, và kìa, họ đã dựng lên một một hệ thống triết học hoàn chỉnh; rồi hàng ngàn nhà trí thức lỗi lạc nhất đã cống hiến suốt hàng ngàn năm để nghiên cứu thuyết đó. Sức mạnh của uy quyền là như vậy đó, và những hiểm nguy của nó cũng to lớn.

Nó làm còi cọc sự phát triển của nhân loại, và chúng ta không được quên rằng chúng ta cần phát triển.

Trong mọi nỗ lực tìm cầu chân lý tương đối, điều mà chúng ta cần, còn hơn là chính bản thân chân lý, đó là sự rèn luyện tâm trí.

Và sự rèn luyện tâm trí đó, thật sự là cuộc sống của chúng ta. Nhất nguyên luận có công lao là thuyết mang tính duy lý cao nhất trong tất cả những giáo lý tôn giáo mà chúng ta có thể hình dung ra.

Mọi thuyết khác, mọi Thượng Đế quan khác – vốn phiến diện, manh mún và mang yếu tố nhân thể – đều không có tính duy lý.

Vậy mà nhất nguyên luận lại vĩ đại đến mức bao hàm được tất cả những Thượng Đế quan phiến diện này, xem chúng là thứ cần thiết cho nhiều người.

Một số người cho rằng cách giải thích mang yếu tố nhân thể này là phi lý, nhưng nó có tác dụng vỗ về, an ủi con người. Họ cần đến một tôn giáo có tác dụng vỗ về, an ủi; và chúng ta hiểu rằng điều đó cần thiết đối với họ.

Rất ít người trong thế gian này có thể đón nhận nổi ánh sáng rực rỡ của chân lý, số người sống theo chân lý đó lại càng ít hơn. Do đó, cần phải có một tôn giáo đem đến cảm giác dễ chịu; nó giúp cho nhiều người tìm ra một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Những tâm trí nhỏ bé – mà phạm vi thì hạn hẹp và cần rất ít thứ để tạo thành – không bao giờ dám liều lĩnh bay cao trong lĩnh vực tư tưởng. Quan niệm của họ rất ư là tốt đẹp và hữu ích đối với họ, thậm chí có khi đó chỉ là những vị thần nhỏ bé hoặc một số biểu tượng.

Nhưng các bạn thì cần phải hiểu Cái Phi Nhân Thể, vì chỉ trong Cái Đó và thông qua Cái Đó, ta mới có thể giải thích được tất cả những thứ khác. Chẳng hạn lấy ví dụ về Thượng Đế Nhân Thể.

Một người hiểu và tin vào một Thượng Đế Phi Nhân Thể – như John Stuart Mill chẳng hạn – có thể phát biểu rằng không thể có được và không thể chứng minh được một Thượng Đế Nhân Thể. Tôi đồng ý với ông ta là không thể chỉ ra được một Thượng Đế Nhân Thể.

Nhưng Ngài là kiến giải cao nhất về một đấng Phi Nhân Thể mà trí năng con người có thể đạt tới; và vũ trụ là gì, nếu không phải là những kiến giải khác nhau về Cái Tuyệt Đối?

Cái Tuyệt Đối như một cuốn sách trước mặt ta, mỗi người đều đem trí năng của mình ra mà đọc Nó, và mỗi người phải đọc Nó cho chính mình. Có một cái gì đó chung cho trí năng của tất cả mọi người; do đó, có những sự vật nào đó xuất hiện như nhau đối với trí năng của toàn nhân loại.

Các bạn và tôi đều thấy đây là cái ghế, điều đó chứng minh có một cái gì đó chung cho tâm trí của các bạn và tôi. Giả sử có một sinh thể nào đó đến đây với một giác quan khác thì y sẽ không thấy được cái ghế, nhưng tất cả những sinh thể được cấu tạo như nhau sẽ thấy được những sự vật như nhau.

Do đó, vũ trụ này chính là Cái Tuyệt Đối, Cái Bất Biến, là nguyên thể, và cách ta lý giải vũ trụ đã tạo ra thế giới hiện tượng. Bởi vì trước hết các bạn thấy rằng mọi hiện tượng đều hữu hạn.

Mỗi hiện tượng – mà chúng ta có thể nhìn thấy, cảm nhận và tư duy về nó – đều hữu hạn, bị giới hạn trong phạm vi kiến thức của chúng ta; và vị Thượng Đế Nhân Thể, theo cách chúng ta hình dung về Ngài, thực ra cũng chỉ là một hiện tượng.

Ngay cả quan niệm về tương quan nhân quả cũng chỉ tồn tại trong thế giới hiện tượng; và theo lẽ tự nhiên, vị Thượng Đế – mà chúng ta xem là căn nguyên tạo ra vũ trụ – cũng phải bị tư duy trong phạm vi giới hạn, vậy mà Ngài cũng chính là vị Thượng Đế Phi Nhân Thể.

Thế giới hiện tượng này, như chúng ta đang nhìn thấy, cũng chính là Hằng Hữu Phi Nhân Thể được lý giải bởi trí năng. Bất cứ cái gì thực hữu trong vũ trụ này đều là Hằng Hữu Phi Nhân Thể đó, và trí năng chúng ta gán cho nó những hình thể và tên gọi.

Bất cứ cái gì thực hữu trong cái bàn này đều là Hằng Hữu đó, và hình thể cái bàn cùng mọi hình thể khác đều do trí năng ta gán cho. Bây giờ, chẳng hạn chuyển động – yếu tố gắn bó mật thiết với hiện tượng – không thể được gán thuộc tính phổ quát.

Từng phân tử, từng nguyên tử trong vũ trụ đều ở trong trạng thái chuyển động và biến dịch không ngừng, nhưng vũ trụ xét như một chỉnh thể thì bất biến, bởi vì chuyển động và biến dịch đều mang tính tương đối; ta chỉ tư duy về một sự vật chuyển động khi so sánh với một sự vật bất động khác.

Để hiểu được sự chuyển động thì cần phải có hai sự vật. Toàn thể vũ trụ, xét như một đại khối duy nhất, không thể chuyển động. Nó sẽ chuyển động trong mối tương quan với cái gì? Cũng không thể nói là nó biến dịch.

Vì nó sẽ biến dịch trong mối tương quan với cái gì? Cho nên cái toàn thể đó là Cái Tuyệt Đối, nhưng bên trong nó thì từng phân tử đều ở trong trạng thái biến dịch không ngừng. Nó đồng thời vừa biến dịch và bất biến, vừa phi nhân thể và nhân thể trong nhất thể.

Đó là quan niệm của chúng ta về vũ trụ, về chuyển động, về Thượng Đế, và là ý nghĩa của câu “Ngươi là Cái Đó”. Như thế, ta thấy rằng khái niệm Phi Nhân Thể thay vì loại bỏ khái niệm Nhân Thể, Cái Tuyệt Đối thay vì xô ngã cái tương đối, chỉ giải thích để làm thỏa mãn trọn vẹn mọi con tim và khối óc.

Thượng Đế Nhân Thể cùng tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ cũng chính là Hằng Hữu Phi Nhân Thể được nhìn thấy qua tâm trí chúng ta. Khi chúng ta thoát khỏi tâm trí, dứt bỏ được tính cách nhỏ bé của mình thì chúng ta sẽ hợp nhất với Nó.

Đó là ý nghĩa của câu “Ngươi là Cái Đó”. Chúng ta phải nhận biết được chân tính của mình, tức Cái Tuyệt Đối. Con người nhỏ bé được hiển lộ này đã quên mất cội nguồn của mình, và nghĩ rằng anh ta là một thực thể hoàn toàn tách biệt.

Chúng ta, hiểu theo nghĩa là những sinh thể bị sai biệt hóa và nhân thể hóa, đã quên mất thực thể của mình, và giáo lý nhất nguyên luận đã dạy rằng chúng ta không từ bỏ những sự sai biệt này, mà phải học cách hiểu chúng là gì.

Trong thực tế, chúng ta là Hằng Hữu Vô Biên đó, và những tính cách của chúng ta biểu hiện thành nhiều thông đạo, để qua đó Thực Tại Vô Biên hiển lộ tự thân; và toàn bộ đại khối biến dịch, mà ta gọi là sự tiến hóa, được nảy sinh từ một linh hồn đang cố gắng hiển lộ nhiều hơn nữa năng lượng vô biên của nó.

Chúng ta không thể dừng tại bất kỳ nơi đâu ở phía bên này của Cái Vô Biên; năng lực, lạc phúc và trí tuệ của chúng ta chỉ có thể phát triển thành Cái Vô Biên đó.

Năng lực vô biên, tồn tại vô biên và lạc phúc vô biên là của chúng ta, và chúng ta không cần phải thủ đắc chúng; chúng là của chúng ta, và chúng ta chỉ cần hiển lộ chúng mà thôi. Đó là tư tưởng trọng tâm của nhất nguyên luận, rất chi là khó hiểu.

Ngay từ thời thơ ấu, mọi người xung quanh tôi đã dạy cho tôi sự yếu đuối; ngay khi vừa lọt lòng, người ta đã bảo tôi rằng tôi là một sinh vật yếu đuối. Giờ đây, thật khó để tôi thể hiện được sức mạnh của mình, nhưng bằng phân tích và lập luận, tôi đạt được tri thức về sức mạnh của chính tôi, tôi thể hiện nó.

Tất cả tri thức mà chúng ta có được trong thế gian này bắt nguồn từ đâu? Nó ở bên trong ta. Tri thức nào ở bên ngoài? Không có. Tri thức không nằm trong vật chất, mà lúc nào cũng ở trong con người. Không một ai có thể tạo ra tri thức, mà con người đưa nó ra từ bên trong.

Nó đang nằm trong đó. Toàn bộ cây đa to lớn che phủ cả khoảng đất rộng lớn này đều nằm trong một hạt giống bé xíu, không quá một phần tám hạt cải cay; trọn khối năng lượng này được đóng khung trong đó.

Chúng ta biết rằng trí năng vĩ đại cuộn mình nằm trong một tế bào nguyên sinh, vậy thì tại sao năng lực vô biên lại không? Ta biết rằng thực tế là vậy. Điều này có vẻ như là một nghịch lý, nhưng đó là sự thật.

Mỗi người chúng ta đều ra đời từ một tế bào nguyên sinh, và tất cả những năng lực mà chúng ta có được đều nằm cuộn mình trong đó.

Các bạn không thể bảo rằng những năng lực này đến từ thức ăn, vì các bạn có chất thức ăn cao lên như núi thì có năng lực nào phát sinh không?

Năng lượng nằm ở đó, hiển nhiên ở dạng tiềm năng, nhưng vẫn luôn nằm ở đó. Năng lực vô biên trong linh hồn con người cũng thế, dù con người có biết điều đó hay không.

Sự hiển lộ của năng lực đó chỉ là vấn đề ý thức được nó.

Gã khổng lồ vô biên, có thể nói như vậy, đang từ từ tỉnh giấc và ý thức được năng lực của mình, và đang đánh thức bản thân mình; khi ý thức ngày càng lớn mạnh thì gông cùm vỡ tan, xích xiềng đứt đoạn; và chắc chắn ánh dương sẽ đến, khi người khổng lồ ý thức được năng lực và trí tuệ vô biên của mình để đứng trên đôi chân của chính mình mà vươn vai đứng thẳng.

Tất cả chúng ta hãy gấp rút thực hiện thành quả vinh quang đó.

[1] “Bản thể và phẩm tính” ( substance và qualities) hay thường được dịch là “bản thể và thuộc tính” 2 Noumenon là cái “nguyên thể” của sự vật, tức là cái mà qua đó sự vật được tri nhận mà không cần đến các ý nghĩa. Trong triết học phương Tây thì thuật ngữ này được dùng đối lập với “phenomenon” (hiện tượng) dùng để chỉ cái ngoại biểu hay cái biểu hiện bên ngoài, tức đối tượng của ý nghĩa.

[2] Noumenon là cái “nguyên thể” của sự vật, tức là cái mà qua đó sự vật được tri nhận mà không cần đến các ý nghĩa. Trong triết học phương Tây thì thuật ngữ này được dùng đối lập với “phenomenon” (hiện tượng) dùng để chỉ cái ngoại biểu hay cái biểu hiện bên ngoài, tức đối tượng của ý nghĩa.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x