Trang chủ » Đại Học – Chu Hy Chương Cú & Phần Kinh

Đại Học – Chu Hy Chương Cú & Phần Kinh

by Hậu Học Văn
356 views

LỜI CỦA CHU HY

– Thầy Trình tử nói: “Đại Học, sách của họ Khổng để lại, là cửa vào đức hạnh của người mới học. Vào thời nay, có thể thấy người xưa học hành có thứ tự là nhờ đọc thiên sách còn lại này, rồi đến sách Luận Ngữ, sách Mạnh tử. Người học ắt do đấy mà học, thì gần như không sai lầm vậy.”

BÌNH GIẢI:

Trước Chu Hy, hai thiên sách Đại học Trung dung vốn nằm chung trong bộ Lễ Ký. Sau này, Chu Hy khảo duyệt lại, mới tách riêng ra, kết hợp với sách Luận ngữ và sách Mạnh Tử làm thành bộ Tứ Thư chương cú hay Tứ Thư tập chú. Do việc sắp đặt chương, câu lại có hệ thống rõ ràng và viết lời giới thiệu, nên đoạn văn trên được gọi là Chu Hy chương cú. Vì tôn trọng Trình tử là bậc thầy nên ở đây Chu Hy đã trích lời Trình tử để dẫn vào nội dung sách Đại Học.

Từ thời xa xưa, trước cả Khổng tử, việc học ở Trung Hoa được phân làm hai cấp: Tiểu học Đại học. Theo Chu Hy, trẻ em lên 8 tuổi được đưa vào nhà Tiểu học để học từ thấp lên cao về những điều thường thức bao gồm lục nghệ: lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (cưỡi ngựa), thư (viết chữ), số (tính toán). Lên 15 tuổi, các thiếu niên đã qua bậc tiểu học, gồm con của thiên tử, con của các công khanh, đại phu… và một số thiếu niên xuất sắc trong hàng thứ dân được đưa vào nhà Đại học (Thái học). Ở đây, họ được học về đạo lý cao siêu để có thể tự sửa mình và biết cách cai trị dân về sau.

Theo Trình tử trong phần mở đầu này, sách Đại học do Đức Khổng Tử truyền lại và được xem như sách nhập môn về đức hạnh dành cho các môn sinh bậc đại học. Sau khi đã nắm vững cương lĩnh đạo đức, đường lối tu thân, phương pháp để hiểu rõ sự lý vạn vật, người học mới được hướng dẫn học tới hai sách Luận ngữ và Mạnh Tử. Đó là những sách bàn về sự ứng dụng thực tế đạo lý trong đời sống xã hội, trong việc chính trị.

Nói về thứ tự trong đường lối học vấn của người xưa, Trình tử không đề cập đến sách Trung dung. Lý do có thể nằm trong hai giả thuyết sau:

1. Trung dung là sách nói về triết lý cao siêu thuộc phần Hình nhi thượng học, hướng dẫn con người tiến lên bậc thánh nhân, đi trong thiên đạo. Đó là môn học tâm truyền khó lòng đem giảng chung cho mọi người. Trung Dung chỉ dành riêng cho những môn đệ đặc biệt, thuộc loại như Nhan Hồi, Tử Tư… có lòng tha thiết hướng tới thánh đạo.

2. Trước khi Chu Hy san định bộ Tứ thư tập chú, Đại học và Trung dung là hai thiên sách liên kết với nhau trong bộ Lễ Ký. Do đó, Trình tử nói đến sách Đại học là đã bao hàm có Trung dung đi kèm.

Cụ Phan Bội Châu cho rằng sách Trung dung khó hiểu; vì thế nếu hiểu theo giả thuyết thứ nhất, người xưa đã đặt Trung dung sang một bên, không đặt trong giáo trình học vấn phổ thông thì cũng có lý.

Về sách Trung Dung, cụ Phan viết như sau:

“Bản sách này ở trong Khổng học là một bản sách rất cao, bàn đạo lý rất thâm thúy, góp cả thiên đạo và nhân sự, đủ cả lý luận và sự thực. Xem ở trên mặt chữ và chương cú, không được dễ hiểu như Đại học Luận ngữ Học giả bắt đầu vào cửa Khổng học thiệt chưa có thể lĩnh hội được cả tuyền thư.” (Khổng học đăng: Quyển I, trang 310)

Ở đây, Trình tử cho rằng theo thứ tự của người xưa, học nguyên tắc căn bản trong sách Đại học trước, rồi mới học sang phần ứng dụng ở Luận ngữ, Mạnh tử sau thì tránh được sai lầm.

PHẦN KINH

Đường lối của bậc đại học ở chỗ làm sáng tỏ năng lực sáng láng, ở chỗ thân yêu mọi người, ở chỗ dừng trong sự tốt lành cùng cực.

Biết dừng, rồi sau mới có ổn định. Ổn định, rồi sau mới có thể thinh lặng. Thinh lặng, rồi sau mới có thể yên vui. Yên vui, rồi sau mới có thể nghĩ ngợi toan tính. Nghĩ ngợi toan tính, rồi sau mới có thể đạt được.

Vật có gốc ngọn, việc có đầu, cuối. Biết chỗ trước, sau; thì gần được chân lý.

Người xưa muốn làm sáng tỏ cái năng lực sáng láng ở trong thiên hạ, trước là sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, trước là điều chỉnh nhà mình. Muốn điều chỉnh nhà mình, trước là sửa thân mình. Muốn sửa thân mình, trước là làm cho lòng mình được chính đáng. Muốn lòng mình được chính đáng, trước là làm cho ý mình được thành thật. Muốn ý mình được thành thật, trước là đạt đến cùng sự hiểu biết. Hiểu biết đến cùng ở tại sự tìm xét đến cùng sự vật.

Sự vật được xét đến cùng rồi sau mới hiểu biết thấu đáo. Hiểu biết thấu đáo rồi sau mới có ý thành thật. Ý thành thật rồi sau mới có lòng chính đáng. Lòng chính đáng rồi sau mới có thân được sửa. Thân được sửa rồi sau mới có nhà được điều chỉnh. Nhà được điều chỉnh rồi sau mới có nước được sửa trị. Nước được sửa trị, rồi sau thiên hạ mới được thái bình.

Từ thiên tử cho tới thường dân, tất cả đều phải lấy việc sửa mình làm gốc. Gốc rối loạn, mà ngọn được sửa trị, chẳng có vậy. Nơi đáng dày lại mỏng, mà nơi đáng mỏng lại dày, chưa hề có vậy.

“Trên đây là một chương Kinh, đó là lời Khổng tử, mà Tăng tử thuật lại, phần Truyện có mười chương, là ý của Tăng tử mà các đệ tử ghi chép lại. Bản sách cũ có lắm chỗ (thẻ tre) lẫn lộn, nay nhân có sự xác định của Trình tử, (tôi) khảo cứu thêm kinh văn, đem phân biệt thứ tự như dưới đây” (Chu Hy)

BÌNH GIẢI:

Các Nho gia ngày xưa đã có sự phân biệt: Kinh là lời dạy của bậc thánh; Truyện là lời giải thích của bậc hiền (các môn đệ của bậc thánh). Đối với Kinh Dịch, Kinh là lời của Văn Vương, Chu Công; Truyện là lời của Khổng tử. Đối với Đại học, Trung dung, Kinh là lời của Khổng Tử, Truyện là lời giải thích của Tăng Tử, Tử Tư.

Trong sách Đại học, phần Kinh của Khổng tử chỉ có một chương duy nhất gồm 205 chữ. Còn về phần Truyện, tương truyền là lời giải thích của Tăng tử, một cao đệ của Khổng tử sau Nhan Hồi, nhưng lại do các môn đệ (của Tăng tử) không biết là những vị nào đã ghi chép lại.

Trước khi tìm hiểu phần Truyện, chúng ta hãy tiếp cận với lời Kinh và tìm cách giải thích, thuyết minh để cố gắng làm sáng tỏ những ý tứ của một bậc thánh tiêu biểu cho nền minh triết Đông phương. Những ý tứ này tuy gói gọn trong vài câu văn ngắn ngủi, cô đọng, chắc nịch nhưng lại bao hàm những tư tưởng rộng lớn chi phối mọi lãnh vực sinh hoạt của con người trong xã hội. Những tư tưởng trong phần Kinh này có thể do Khổng tử đã tiếp thu được của các bậc Thánh vương, các bậc tôn sư thời cổ; cũng có thể chúng bao gồm cả những tư tưởng, những chân lý do chính ngài chứng nghiệm, chắt lọc được trong cuộc đời học tập, làm chính trị và trong cuộc chu du liệt quốc nhiều năm.

Mở đầu phần Kinh là một câu rất quan trọng vẫn thường được các Nho gia thời trước gọi là cương lĩnh của Đại Học:

“Đại Học chi đạo, tại minh Minh Đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện.”

Đường lối của bậc đại học là đường lối học dành cho những người trưởng thành gồm 3 điểm:

– Minh minh đức.

– Thân dân.

– Chỉ ư chí thiện.

1. Minh minh đức:

Chữ minh thứ nhất là động từ (verbe), có nghĩa là làm cho sáng tỏ. Chữ minh thứ hai là tính từ hay hình dung từ (adjectif), có nghĩa là sáng láng. Minh đức năng lực sáng láng.

Thánh nhân dạy phải làm cho sáng tỏ năng lực sáng láng; như thế hàm ý một sự xác định là: năng lực sáng láng (minh đức) ấy vốn có sẵn ở trong con người. Đến đây chúng ta thấy nảy sinh mấy câu hỏi:

– Năng lực sáng láng là gì?

– Nó có tự bao giờ?

– Do đâu nó bị tối đi, đến nỗi bây giờ phải làm cho sáng tỏ trở lại?

– Làm thế nào cho nó sáng tỏ trở lại? (Từ đây về sau, chúng ta dùng lại từ minh đức cho gọn.)

Trình tử đã nói về minh đức như sau:

Minh đức giả, nhân chi sở đắc hồ thiên, nhi hư linh bất muội, dĩ cụ chúng lý nhi ứng vạn sử giả dã.” (Minh Đức là cái người ta nhận được ở Trời, mà lặng không, thiêng liêng, không mờ tối để có mọi lẽ ứng phó với muôn việc.) (Trích theo Bửu Dưỡng trong Đại Học, trang 58)

Nếu “minh đức là cái người ta nhận được ở Trời” thì minh đức chính là một tên gọi khác của “thiên mệnh” được nói đến trong sách Trung dung. Trung dung cho biết “Thiên mệnh chi vị tính”; do đó minh đức cũng chính là tính: đó là năng lực thuần nhiên tiên thiên của con người.

Đọc Trung dung ở chương cuối, khi Tử Tư trích dẫn câu Kinh Thi: “Dư hoài minh đức, bất đại thanh dĩ sắc – 予懷明德,不大聲以色。”: (Ta nhớ minh đức, không cần lớn tiếng, không cần dung mạo.) (Kinh Thi: Đại nhã, Hoàng hỹ), thì có lẽ 2 chữ minh đức được dùng như một cây cầu nối hai sách Đại học Trung dung. Minh đức Thiên mệnh chỉ là một thực thể trong con người chứ không phải hai.

Xét về ý nghĩa trong phép chiết tự lại càng thấy rõ hơn rằng minh đức chính là tính (Thiên mệnh) chứ không phải cái gì khác.

Chữ tính () gồm 2 phần: bộ tâm () và chữ sinh ().

Tâm () là ánh quang minh trong lòng người, tương đương với chữ minh () là sáng.

Sinh () là năng lực sống trong con người, tương đương với chữ đức () là năng lực ngay thẳng.

Cũng xin chiết tự thêm chữ đức ().

Chữ đức () gồm 3 phần: bộ sách () nghĩa là bước đi, chỉ sự vận động; biến thể của chữ trực () chỉ sự ngay thẳng, chính đáng; và chữ tâm () chỉ phần tinh thần.

Tóm lại, đức () là sự vận động với một tinh thần ngay thẳng. Đó là năng lực tinh tuyền của con người không bị lệ thuộc bởi dục vọng sai lệch.

Qua phương pháp chiết tự, chúng ta đã thấy chữ tính bao hàm hai chữ minh đức. Nói khác đi, năng lực thuần nhiên tiên thiên của con người (tính) chính là minh đức, là năng lực tinh tuyền sáng láng nhận được bởi Trời.

Nhìn sang nền Minh triết Ấn Độ, các bậc chân sư thấu thị (Rishi) trong Áo nghĩa thư (Upanishad) đã gọi cái thực tại vốn tốt lành tiềm tàng trong con người là chân ngã hay tự ngã (Atman). Chân ngã là nguyên lý của đời sống mà không phụ thuộc vào đời sống, là thực thể lưu tồn sau khi thân xác và sinh hoạt tinh thần (tri giác, tình cảm…) đã tiêu tan. Chân ngã (Atman) là thực tại nền tảng thanh tịnh bất biến trong con người.

Chandogya Upanishad đã nói về Chân ngã như sau: “Thân xác này chỉ là vật chất vô thường và là nơi trú ngụ tạm thời của tự ngã. Còn ở trong thân xác thì tự ngã cũng có vẻ sinh hoạt theo sự xấu, sự tốt, sung sướng và đau khổ. Nhưng thật ra, tự ngã ở trên hết mọi hoàn cảnh đối nghịch. Cũng như gió mây, sấm chớp vốn vô hình nhưng cũng có khi tụ lại hoặc xuất hiện thành hình tượng trên nền trời rồi lại tan biến đi, Chân ngã vô hình cũng trú ngụ trong những thân xác vật chất hữu hạn. Khi thân xác chết, tự ngã (chân ngã) lại trở về hợp nhất với Đại ngã (Brahman) vô cùng.

(Chandogya Upanishad, VIII, 8 12: Trích theo Lê Xuân Khoa Nhập môn Triết học Ấn Độ, trang 162).

Các hiền triết Đông phương từ Trung Hoa sang Ấn Độ hầu như đều tin và cả quyết rằng trong con người có một thực thể tiên thiên tốt lành sáng láng, trường tồn; người nào tìm thấy và thực hiện được mới trở nên con người đích thực, tức là trở nên Thánh Hiền, Tiên, Phật. Dĩ nhiên, dưới quan điểm Đông phương, thực thể ấy không phải là đối tượng của lý trí như trong Triết Tây hay trong khoa học thực nghiệm. Nó không phải là đối tượng khách quan ngoài con người; trái lại nó chính là viên ngọc bị chôn vùi trong con người. Người nào muốn kiếm tìm thì phải tự lột xác bằng những phương thế tu thân. Sau khi đối chiếu và so sánh chúng ta đã thấy, ở đây, trong sách Đại Học, thực thể ấy trong sách Trung dung có tên là thiên mệnh hay tính; trong triết Ấn Độ có tên là Chân ngã (Atman).

Theo truyền thống Nho giáo mà đại biểu là Trình tử và Chu Hy, minh đức là cái phần nhận được từ Trời; vì vậy, có thể nói được rằng từ khi có con người là có minh đức tiềm tàng ở trong, bất kể thời gian hay không gian nào, kể cả những con người đầu tiên trong lịch sử nhân loại cho đến những con người cuối cùng.

Sách Đại học đã nêu ra cương lĩnh đầu tiên dành cho người trưởng thành (đại học) là minh minh đức. Điều này mang ý nghĩa rằng làm sáng minh đức là một nhiệm vụ tối cần thiết trước khi con người bước những bước kế tiếp để trở nên thánh hiền.

Nhưng tại sao minh đức, một năng lực vốn sáng lại bị tối đi, đến nỗi bây giờ phải làm cho sáng tỏ trở lại?

Trong đoạn kinh trên, Khổng tử không nêu lý do tại sao, có lẽ ngài cho đó là một điều mặc nhiên không cần giải thích; hoặc là ở thời ngài, các môn đệ không có nhu cầu phải giải thích. Tuy nhiên, ở thế kỷ 11, Trình tử đã giải thích như sau:

Đãn vi khí bẩm sở câu, nhân dục sở tế tắc hữu thời nhi hôn, nhiên kỳ bản thể chi minh, tắc hữu vị thường tức giả. Cố học giả đương nhân kỳ sở phát nhi toại minh chi, dĩ phục kỳ sơ dã. (Nhưng nơi người ta, có những chất khí bẩm kết cấu, có những dục vọng làm cho tối tăm, khiến cho có khi đức tính kia phải mờ ám; tuy nhiên ánh sáng bản thể đức tính ấy không bao giờ tắt hẳn đi. Vì thế kẻ học giả nên nhận ánh sáng còn lại mà làm cho sáng tỏ, và làm cho sáng suốt lại như lúc ban đầu.) (Trích theo Bửu Dưỡng trong Đại Học: trang 59-60).

Thế là Trình tử đã cho rằng có hai lý do làm cho minh đức bị mờ tối đi là: khí bẩm kết cấu (khí bẩm sở câu) và dục vọng (nhân dục). Mấy chữ “khí bẩm kết cấu” chỉ những tật xấu bẩm sinh do di truyền từ tổ tiên; còn “dục vọng” chỉ đến những ham muốn sai lầm hoặc quá mức của con người.

Về điểm này, đạo Phật cho rằng chính vô minh là thủ phạm tiên khởi làm lu mờ và dần dần chôn vùi luôn Chân tâm hay Phật tính. Vô minh là không sáng suốt. Đó là nhân duyên khởi đầu trong Thập nhị nhân duyên dẫn con người vào chỗ lầm lạc. Do vô minh mà có hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu… Vô minh là không nhận thức được thực tướng của vạn pháp hay không thấu đáo chân tướng của chính mình. Chính màn vô minh như lớp mây mù bao phủ, che lấp mọi sự hiểu biết chân chính. Đức Phật nói, vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc trong ấy chúng sinh quây quần quanh lộn. Nếu vẹt được mây mù vô minh thì Chân tâm sẽ xuất hiện.

Nhưng tại sao lại có vô minh trong tâm thức con người?

Xin thưa, sở dĩ có vô minh (tối tăm) là vì con người đã lệ thuộc quá nhiều vào tha vật (vật khác, vật ở ngoài ta). Tổ tiên chúng ta từ nhiều đời đã lệ thuộc vào ngoại vật và mỗi người chúng ta đều mỗi ngày lệ thuộc ngoại vật nhiều hơn. Ngoại vật gồm đủ mọi thứ quanh con người, tốt cũng như xấu: đồ ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa, xe cộ, con người… vân vân và vân vân.

Đành rằng con người cần có đồ ăn, thức uống mới sống; cần có áo quần, nhà cửa để bảo vệ thân thể; cần có xe cộ để di chuyển đó đây; cần có người để kết hôn, kết bạn…

Tuy nhiên cần đồ ăn, đồ uống thừa thãi, cầu kỳ để thỏa mãn tính háu ăn là lệ thuộc vào đồ ăn, đồ uống. Cần áo quần, nhà cửa cầu kỳ sang trọng vượt quá nhu cầu bảo vệ thân thể là lệ thuộc vào áo quần, nhà cửa. Cần xe cộ đắt tiền để phô trương là lệ thuộc vào xe cộ. Đa thê, đa phu, ngoại tình… là lệ thuộc vào dục tình. Ấy là chưa kể tới những ngoại vật độc hại như: rượu chè, ma túy…

Chính sự lệ thuộc đã làm cho con người mất tự chủ, mất tự do, tâm tư hóa ra mờ tối. Đó là tấm màn vô minh đã che mất Chân tâm, hay là làm cho minh đức không còn sáng láng nữa.

Ai đã từng đọc sách Khởi Nguyên (Sáng thế ký) trong bộ Cựu Ước Kinh thì thấy rằng huyền thoại “Trái cấm Địa đàng” cũng chỉ đến tình trạng vô minh này đã chi phối những con người nguyên thủy. Chính vô minh đã che phủ linh hồn làm cho con người xa cách Chúa Trời. Adam và Eva đã ăn “trái cấm” tức là rơi vào tình trạng phân biệt nhị nguyên, đến nỗi bị lệ thuộc vào ngoại vật. Sự phân biệt nhị nguyên diễn ra do sự phát triển lý trí (biểu tượng bằng con rắn cám dỗ). Lý trí càng phát triển thì sự phân biệt nhị nguyên càng mạnh và càng thúc đẩy sự thèm khát, ham muốn chiếm đoạt trong lòng người.[39]

Chúng ta không lạ gì khi ngày nay nền văn minh vật chất đã làm cho đa số nhân loại rơi vào tình trạng “táng vu vật” (chôn trong vật chất); đó là do lý trí phát triển quá mạnh trong các thành tựu của khoa học thực nghiệm. Chính văn minh vật chất là thủ phạm làm cho con người lệ thuộc quá nhiều vào ngoại vật. Do lệ thuộc mà tội lỗi nảy sinh. Lệ thuộc vào đồ ăn… thì sinh tật tham ăn, và tội trộm cắp, gian tham, chiếm đoạt, sát nhân… tiếp nối nhau xuất hiện. Lệ thuộc vào dục tình thì sinh tật gian dâm, ngoại tình…

Bây giờ muốn làm cho minh đức được sáng tỏ, hay nói theo ngôn ngữ Phật giáo là phá trừ vô minh để Chân tâm hiển hiện, thì con người phải bớt dần dục vọng, tức là bớt dần sự lệ thuộc. Bớt dần lệ thuộc, con người trở nên chính nhân quân tử. Chấm dứt lệ thuộc, con người trở thành thánh nhân, hay đắc quả Phật (hoàn toàn giác ngộ và giải thoát).

Cũng trong chiều hướng nhận định này, Lão Tử nói:

“Vi học nhật ích, Vi đạo nhật tổn, Tổn chi hựu tổn, Dĩ chí vô vi.”

(Đi vào sự học, mỗi ngày một thêm, Đi vào lẽ đạo, mỗi ngày một bớt, Bớt rồi lại bớt thêm nữa. Để đạt tới vô vi.)

(Đạo Đức Kinh).

Sự học” mà Lão Tử nói ở đây là cái học phát triển lý trí, cái học trục vật (chạy đuổi theo vật chất).phát triển lý trí, đuổi theo vật chất thì con người sẽ thêm nhiều lệ thuộc, nhiều dục vọng, và cuối con đường dục vọng là sự đau khổ, khắc khoải thường xuyên. Nói theo ngôn ngữ Công giáo là “đánh mất Thiên đường”.

Trái lại, đi vào lẽ đạo thì con người mỗi ngày sẽ bớt lệ thuộc, bớt dục vọng. Mỗi ngày một bớt cho đến lúc không còn bị lệ thuộc, không còn bị vật chất sai sử nữa, con người sẽ đạt tới vô vi, tức là sự sống thuần nhiên phúc lạc, thảnh thơi; tâm tư không còn bị trói buộc, phiền muộn, đau khổ. Bấy giờ, con người sống trong “trời mới đất mới”, bởi vì “trời cũ đất cũ” đã qua đi cùng với cái tâm tư lệ thuộc. Trong cảnh giới ấy, con người hoàn toàn tự do, không còn lệ thuộc vào thế gian tức là cái không thời gian đặc sệt ưu uất nữa, bởi vì con người đã thành tựu nhân tính, cũng là thiên tính, đồng nhất với Trời (phối Thiên).

Đồng một quan điểm với minh triết Đông phương như trên, Đức Giêsu đã nói trong Tân Ước: “Chớ áy náy cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay về thân xác: lấy gì mà mặc.” (Mt: 6, 25). Đối với những người quá lệ thuộc vào việc ăn uống, may mặc, sợ ngày mai không có gì ăn, ngài nói: “Vậy chớ áy náy về ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy.” (Mt: 6, 34)

Nói như trên, Đức Giêsu muốn lưu ý rằng con người hãy bớt sự lệ thuộc vào vật chất để có thời giờ nghĩ đến việc thăng tiến tinh thần, phát huy sự sáng nội tâm. Đến như cơm ăn, áo mặc là những thứ cần thiết nhất cho sự sống mà cũng không nên lệ thuộc, huống chi những thứ tiện nghi xa xỉ, cầu kỳ khác!

Tương truyền, trong Khổng môn vào thời Xuân Thu, người được khen ngợi nhất về đường học vấn và đạo hạnh là thầy Nhan Hồi, cũng chính là người không chú ý mấy đến việc ăn uống, tiện nghi. Ông từng nói: “Một nắm cơm, một vò nước, người quân tử ăn chẳng cầu no, ở chẳng cầu yên, khoanh tay gối đầu, thảnh thơi bàn chuyện thánh hiền!

Không thiết tha, không lệ thuộc vào tha vật, con người mới có thể làm cho minh đức sáng tỏ trở lại. Như vậy cương lĩnh minh minh đức được nêu ra là phương thế trọng yếu mà cổ nhân dùng để cứu vãn con người bị vong thân trong vật chất. Đó là bước đầu tiên nhưng cũng là hành trình suốt đời để cho những người theo đại học tiến bước trên đường trở nên quân tử, thánh hiền.

2. Thân dân:

Về chữ “thân” () ở đây, từ gần 1.000 năm nay, đã có hai lập trường khác nhau:

– Lập trường thứ nhất cho rằng dùng chữ “thân” với nghĩa là “thân yêu, gần gũi” mới là đúng ý Khổng tử theo cổ bản.

– Lập trường thứ hai cho rằng dùng chữ “tân” () với nghĩa là “đổi mới” là đúng ý thánh nhân, nhưng với thời gian chữ “tân” () đã bị chép nhầm ra chữ “thân” ().

Tiêu biểu cho lập trường thứ hai là Trình tử. Ông nói: “Thân đương tác tân… Tân giả cách kỳ cựu chi vị dã, ngôn ký tự minh kỳ minh đức, hựu đương suy dĩ cập nhân, sử chi diệc hữu dĩ khứ kỳ cựu nhiễm chi ô dã.” (Chữ thân nên đổi là chữ tân… Tân nghĩa là thay đổi các điều cũ. Nghĩa là khi đã tự làm sáng tỏ cái đức sáng của mình, thì phải mở rộng công việc mình đến người khác, khiến cho họ cũng bỏ được những thứ ô trọc họ đã tiêm nhiễm từ lâu.) (Trích theo Bửu Dưỡng, Sđd: trang 60.)

Sau này, Chu Hy cũng rập khuôn theo Trình tử như vậy. Chủ trương như thế, có lẽ Trình tử đã căn cứ vào phần Truyện ở phía sau. Trong chương 2, phần Truyện, người chú giải (không biết là ai trong số môn đệ của Tăng tử) chỉ trích dẫn toàn những cổ kinh nói về chữ “tân” nhằm giải thích hai chữ “tân dân”, chứ không hề nói đến “thân dân”. (Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này khi bình giải phần Truyện).

Đến cuối thế kỷ 19, sang đầu thế kỷ 20, trước cao trào duy tân đất nước, canh tân đường lối chính trị, kinh tế, giáo dục… để mong thoát khỏi ách thống trị của thực dân tây phương, các học giả Trung Hoa và Việt Nam lại càng nắm lấy chữ tân (), tán thành với Tống Nho (Trình tử, Chu Hy) cho rằng chữ thân () vốn là chữ tân (), và “đổi mới dân chúng” (新民tân dân) chính là lập trường căn bản của Khổng tử.

Giờ đây, chúng ta hãy xét lại và cân nhắc xem dùng chữ thân () hay chữ tân () là thích hợp với cương lĩnh đại học.

Trước hết, chúng ta phải xác định lại chữ thân () là chữ được dùng trong chính phần Kinh của Khổng tử mà không ai dám sửa. Trình tử chỉ góp ý rằng “Chữ thân nên đổi là chữ tân…” (Thân đương tác tân) mà thôi, chứ chính ông và cả Chu Hy về sau cũng không dám tự chuyên hạ bút sửa thân () thành tân ().

Bây giờ, nếu dùng chữ tân thay cho chữ thân, thì câu Kinh trở thành: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.” (Đường lối của bậc đại học ở chỗ làm sáng tỏ năng lực sáng láng, ở chỗ đổi mới mọi người, ở chỗ dừng trong sự tốt lành cùng cực.)

Thực ra, không phải bất cứ người nào học đại học cũng có thể “tân dân” được. Phải có quyền bính trong tay, tức là phải ở cương vị người cai trị như vua, quan (giới lãnh đạo) mới có khả năng, có biện pháp, có cơ hội thực hiện việc “tân dân”.

Đối với những người có cơ hội cầm quyền thì họ có bổn phận và trách nhiệm phải “tân dân”. Điều này Khổng tử có mở rộng ý ấy ở phần dưới: “Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc.” (Người xưa muốn làm sáng tỏ cái năng lực sáng láng ở trong thiên hạ trước là sửa trị nước mình.)

Còn đối với những người suốt đời chỉ ở cương vị thường dân thôi thì dùng chữ “tân dân” có vẻ quá xa vời.

Chữ “tân dân” đã không thích hợp cho mọi người dù có trình độ đại học, chúng ta hãy xét tới chữ “thân dân”. Thân dân là thân yêu mọi người. Cho dù không có địa vị gì trong xã hội, người ta vẫn có thể thân yêu; vì thế chữ “thân dân” có thể dùng chung cho mọi cá nhân được. Do đó lời Kinh dùng chữ “thân”, và “thân dân” trở thành cương lĩnh đại học là hợp lẽ.

Vào đời Minh, đã có Vương Dương Minh không chấp nhận sự sửa đổi của Trình tử và Chu Hy, ông vẫn nhận chữ “thân” mới là đúng.

Ở Việt Nam, Phan Bội Châu nhận định: “Các bản truyện chú ở đời xưa, từ Tống nho sắp xuống, nhiều người đổi chữ ‘thân’ làm chữ ‘tân’, lấy minh đức với tân dân làm hai việc; nhưng theo các nhà học ở đời gần đây, và lại tìm cho đến các bản cổ chú đời Hán mà nghiền cho ra nghĩa kinh văn thời chữ ‘thân’ đúng hơn.” (Khổng học đăng, quyển I: trang 247).

Dương Quảng Hàm cũng đồng quan điểm như vậy khi viết: “Chính là chữ thân, Tống Nho chữa làm chữ tân. Tuy vẫn có nghĩa, nhưng không bằng chữ thân, nghĩa bao quát hơn, Vương Dương Minh đã bàn rõ lắm.” (Việt Nam văn khảo sử yếu, trang 37).

Vậy thế nào là ý nghĩa sâu xa của hai chữ “thân dân”?

Thân là gần gũi (thân cận), thân yêu (thân ái). Dân là mọi người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, giai cấp. Nhân là người, dân cũng là người, nhưng “nhân” là người hiểu theo nghĩa cá thể, “dân” là người hiểu theo nghĩa tập thể. Nghĩa tập thể của chữ “dân” được dùng trong câu Kinh Thi sau:

“Thiên sinh chưng dân,

Hữu vật hữu tắc.

Dân chi bỉnh di

Hiếu thị ý đức.”

(Trời sinh ra người, có hình có phép, người giữ tính thường, muốn có đức tốt).

Như vậy, “thân dân” là thân yêu mọi người, với tư cách là con người, khác với loài động vật khác.

Thân yêu theo nghĩa tiêu cực là không làm hại, không làm cho người khác phải đau khổ phiền muộn. Rõ rệt hơn nữa là giới “bất sát” trong Ngũ giới của nhà Phật và giáo điều thứ năm trong Thập giới của Công giáo: “Chớ giết người.” Theo nghĩa tiêu cực này, Khổng tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: (Điều gì mình không muốn, đừng làm cho người.

(Luận ngữ: Vệ Linh Công, 23). Người Ấn cũng có một câu châm ngôn tương tự được dùng làm nền cho tư tưởng chỉ đạo trong anh hùng ca Mahabharata như sau: “Cái gì không ưa thì chớ làm cho người khác.

Thân yêu theo nghĩa tích cực là giúp đỡ, phục vụ làm cho người khác được thăng tiến hạnh phúc. Theo nghĩa này, Đức Giêsu nói: “Vậy mọi điều các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi cũng hãy làm cho người ta như thế, Lề Luật cùng các tiên tri là thế đó.” (Mt: 7, 12).

Cũng trong ý nghĩa tích cực của sự thân yêu mọi người, Khổng tử đã bộc lộ lập trường của ngài trong cuộc đối thoại với đệ tử như sau:

Tử cống viết: ‘Như hữu bác thí ư dân, nhi năng tế chúng, hà như? Khả vị nhân hồ?’. Tử viết: ‘Hà sự ư nhân? Tất dã thánh hồ! Nghiêu, Thuấn kỳ do bệnh chư! Phù, nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân, năng cận thủ thí; khả vị nhân chi phương dã dĩ.” (Thầy Tử Cống nói: “Như có người rộng giúp cho dân, mà hay cứu vớt mọi người, như thế là sao? Có thể gọi là bậc nhân chăng?” Đức Khổng tử nói: “Điều ấy sao gọi là nhân thôi? Ắt phải là bậc thánh chứ! Vua Nghiêu, vua Thuấn còn kém về chỗ đó. Phàm người nhân là mình muốn nên thì nên cho người; mình muốn thành tựu thì thành tựu cho người. Lấy đó làm ví dụ gần gũi, có thể gọi là phương cách làm điều nhân vậy.” (Luận Ngữ, Ung dã, 28).

Khổng tử cũng cho rằng thân yêu người đích thực là làm cho người nên hay, nên đẹp; đó là đạo hạnh của người quân tử. Ngài nói: “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị ( Quân tử thành tựu điều tốt đẹp cho người, không thành tựu điều xấu cho người. Tiểu nhân thì trái lại.) (Luận Ngữ: Nhan Uyên, 15).

Như vậy, “thân dân” (thân yêu mọi người) là một đạo thống chung cho cả nhân loại đã được các bậc giáo chủ, các thánh hiền rao giảng từ Đông sang Tây.

Tuy nhiên vì lý do nào lại phải “thân dân”? Chúng ta đã thấy Nho giáo cho rằng minh đức hay Thiên mệnh là cái phần Trời trao cho con người. Đã là người, ai cũng có minh đức. Thế thì minh đức là một dấu ấn minh chứng rằng mọi người đều là con của Trời, cũng có chung cội nguồn; do đó mọi người là anh em của nhau. Đã là anh em thì thân yêu nhau là qui luật, là bổn phận.

Cũng vì điểm này mà trong Cựu Ước đã có khoản luật:

Ngươi sẽ không báo oán, không cừu thù với con cái dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình.” (Lê Vi: 19, 18).

Sợ rằng người Do Thái hiểu chữ “đồng loại” một cách hẹp hòi, sách Lê Vi lại được bổ sung một khoản luật như sau:

Khi có khách lạ ngụ nhờ xứ các ngươi, các ngươi sẽ không bức hiếp: như một người bản hương trong các ngươi, các ngươi sẽ xử đãi người khách ngụ cư nơi các ngươi; ngươi sẽ mến yêu nó như chính mình ngươi vì ngươi cũng đã là khách ngụ cư nơi đất Ai Cập.” (Lê Vi: 19, 33-34).

Nói về thân yêu mọi người, có lẽ không đâu trên thế giới có khoản luật này, ngoại trừ Cựu Ước:

Khi ngươi gặp bò của kẻ thù ngươi hay lừa của nó thất lạc, ngươi sẽ dẫn về cho nó. Khi ngươi thấy lừa của kẻ ghét ngươi quị vì chở nặng, ngươi sẽ không bỏ mặc nó: ắt ngươi sẽ cùng nó giúp tay vào.” (Xuất hành: 23, 4-5).

Khoản luật đã gián tiếp dạy người ta phải yêu thương cả kẻ thù mình. Và giáo lý này đã được Đức Giêsu bổ sung trong thời Tân Ước.

Các ngươi đã nghe bảo: hãy mến yêu thân nhân và hãy ghét địch thù. Còn ta, ta bảo các ngươi: hãy yêu mến thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” (Matthêu: 5: 43-45).

“Thân yêu mọi người” (thân dân) là một đức hạnh căn bản, vừa để phân biệt loài người với loài vật và cũng vừa để phân biệt con người văn minh và con người dã man. Nếu chúng ta quan niệm Lề Luật như là đôi cánh nâng con người bay bổng trên toàn thể tạo vật, thì Lề Luật đó là “thân yêu”. Ý thức được tầm quan trọng này, thánh Phaolô nói: “Nợ nần anh em không mắc gì với ai ngoài một điều là phải yêu mến nhau. Vì kẻ yêu người tất đã làm trọn Lề Luật. Quả thế, các điều như: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ tộm cắp, chớ tham muốn, và nếu còn lệnh truyền nào khác thì cũng tóm lại trong điều này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình. Lòng yêu mến không xử ác với đồng loại. Vậy yêu mến là chu toàn cả Lề Luật.” (Rm: 13, 8-10).

Xét chung toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, tiếng “đồng loại” không phải chỉ một dân tộc hay những người cùng một tín ngưỡng, nhưng “đồng loại” chỉ chung mọi người. Tiếng “đồng loại” tương đương với tiếng “dân” trong triết Nho. Tiếng “dân” không phải chỉ riêng người Trung Hoa mà chỉ hết thảy mọi người (tứ hải chi nội). Nghĩa này lộ rõ trong lời của thầy Tử Hạ trích dẫn lời dạy của Khổng tử khi dùng để an ủi bạn là Tư Mã Ngưu như sau: “Tứ hải chi nội giai huynh đệ dã. Quân tử hà hoạn hồ vô huynh đệ dã. (Bên trong bốn biển, đều là anh em cả. Người quân tử lo gì không có anh em?) (Luận Ngữ Nhan Uyên, 5)

Còn đối với đạo Phật, tấm lòng thân yêu mọi người được gọi là tâm từ (metta). Kinh Phật nói: “Tâm Từ phải được rải khắp cho mọi chúng sanh, phải bao trùm vạn vật, phải sâu rộng và đậm đà như tình thương của một bà từ mẫu đối với đứa con duy nhất, săn sóc, bảo bọc con, dầu nguy hiểm đến tính mạng cũng vui lòng.” (Metta Sutta).

Đại đức Narada dẫn giải thêm: “Tựa hồ như ánh sáng mặt trời, bao trùm vạn vật, tâm từ cao thượng rải khắp đồng đều phước lành thâm diệu cho mọi người, thân cũng như sơ, bạn cũng như thù. Không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, hư hèn hay đạo đức, người hay thú.” (Đức Phật và Phật pháp, trang 653).

Xem thế thì đạo thống của nhân loại từ Đông sang Tây, từ trước đến sau đều đề cao đạo lý “thân yêu mọi người” (thân dân). cho nên, Khổng tử đã đặt “thân dân” vào làm một trong ba điểm của cương lĩnh đại học là điều rất hợp lẽ.

Sau khi tìm hiểu kỹ hai chữ “thân dân”, chúng ta lại càng thấy rõ chữ “thân” có ý nghĩa sâu xa, rộng rãi hơn chữ “tân” nhiều.

Thân dân” không thể rời xa “minh minh đức”. Minh thân là hai động từ chỉ hai động tác liên kết với nhau trong một con người đang tiến bước trở nên quân tử, thánh hiền.

Minh đức” được sáng tỏ thì sẽ nhận ra mọi người là anh em với nhau và sẽ thấy thân yêu mọi người là bổn phận của mình. “Thân dân” hết lòng là nhận ra trong mọi người đều có “minh đức” như mình. Đạo lý “minh minh đức” và “thân dân” tuy hai mà một, đó là một đạo lý nhất quán không thể tách lìa.

3. Chỉ ư chí thiện:

Chỉ ư chí thiện” là dừng lại trong sự tốt lành cùng cực. Điều đó có nghĩa là đạo đại học lấy chí thiện làm hướng tiến, làm mức đến. Nhưng thế nào là chí thiện? Theo nghĩa thì chí thiện là sự tốt lành cùng cực, tốt lành tuyệt đối (trọn lành). Thế mà ở trần gian, xem ra không dễ gì thấy chí thiện hiện diện, cho nên người học cũng khó lòng hình dung được để có thể hướng đến mà không bị lạc đường. Ngay điều thiện thôi, người ta cũng không hoàn toàn đồng ý với nhau. Điều này là thiện với người này có thể là ác với người kia. Hoặc thay đổi không gian, thời gian đi thì điều thiện có thể trở thành điều ác.

Tuy nhiên, cứ xét kỹ văn mạch câu văn nói về cương lĩnh đại học ở đây, chúng ta có thể hình dung được chí thiện ra sao.

Chúng ta đã biết minh đức là cái năng lực sáng láng, cái bản chất nguyên tuyền Trời trao cho con người. Thế thì, nếu người nào làm sáng tỏ minh đức một cách rốt ráo, bấy giờ minh đức với sự sáng ban sơ sẽ phản ánh vẻ sáng siêu nhiên của Trời. Và nếu người đó đồng thời thương yêu mọi người (thân dân) đến mức không còn có sự phân biệt giữa mình và người, thấy trong người có mình, thấy trong mình có người, thì sẽ không còn điều ác (sự xấu) hiện diện trong tương quan giữa mình và người nữa.

Đạt đến được tình trạng như vậy, có thể nói rằng con người đã dừng lại ở chỗ chí thiện. Đó là con người trở nên thánh nhân. Theo quan điểm triết Nho, thì thánh nhân phối Thiên (kết hiệp với Trời). Bấy giờ, theo huyền học Tân Ước thì tất cả nên một. Đó là điều mà Đức Giêsu đã cầu mong cho các môn đệ, cũng cầu mong cho những ai muốn trở nên con người đích thực đạt được. Trong diễn từ Biệt ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện như sau:

Con không chỉ cầu nguyện cho những người này (môn đệ), nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cùng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” (Gioan: 17, 20- 23).

Trong đoạn Kinh Thánh này, nếu hiểu theo phạm trù triết Nho thì Cha là Trời, Đức Giêsu là “con người lý tưởng” và “những người này” là những bậc quân tử đang hành trình trong điều thiện, đang làm sáng tỏ “minh đức” và “thân dân”.

Ở một chỗ khác, Đức Giêsu đã nói với “những người này” rằng: “Vậy các ngươi hãy nêu trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.” (Matthêu: 6, 48).

Trọn lành” tức là “chí thiện” trong đạo Nho. Thánh nhân phối Thiên, tức là Thánh nhân cũng chí thiện như Trời. Cả đạo Nho và Tân Ước đều cho rằng điều đó có thể thành tựu được.

Trong Kinh Dịch, quẻ Bát Thuần Cấn được dành riêng để nói về đạo chỉ. Thuần Cấn là hai quẻ đơn Cấn kết lại. Cấn là quả núi. Thuần Cấn là kiêm sơn hay liên sơn, chỉ một dãy núi. Tự quái quẻ Thuần Cấn nói: “Cấn giả chỉ dã. – 艮者止也。” (Núi chỉ sự dừng lại.) Trái với nước luôn luôn lưu chuyển biến động, núi thì đứng yên, vững vàng. Đức Khổng nói: “Trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn; trí giả động, nhân giả tĩnh; trí giả lạc, nhân giả thọ. 知者樂水,仁者樂山;知者動,仁者靜;知者樂,仁者壽。 ” (Người trí thích nước; người nhân thích núi; người trí thì hiếu động, người nhân thì yên tĩnh; người trí vui thích, người nhân sống lâu.) (Luận Ngữ: Ung dã, 21).

Người nhân có khuynh hướng tự chinh phục lấy mình, sống theo thiên đạo (khắc kỷ phục lễ); do đó “minh đức” ngày một sáng tỏ. Người nhân lại có khuynh hướng hiếu hoà, yêu thương tha nhân; vì thế đức “thân dân” ngày một thành tựu. Tự chinh phục lấy mình thì thường trầm tư chiêm niệm, cho nên người nhân thích sự yên tĩnh, vắng lặng của núi non. Người nhân sống lâu vì người nhân không tự làm tổn hại mình và tâm hồn luôn được thông dự vào nguồn năng lực vô tận của Trời.

Như thế con người đi trong đức nhân, hay nói theo tinh thần quẻ Thuần Cấn là dừng lại tromg đức nhân, đáp ứng được yêu cầu của cương lĩnh đại học. Đi trong đức nhân là đi trong điều thiện. Người ấy có khả năng kết hợp với mọi người, với thiên nhiên vạn vật, với Trời và nhìn thấy được tính nhất thể của vũ trụ.

Thoán từ quẻ Thuần Cấn nói: “Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình bất kiến kỳ nhân, vô cữ.

(Dừng lại ở lưng, không thấy được thân mình, đi ở sân không thấy có người, không lỗi.)

Cái lưng là phần ít động nhất trong cơ thể con người; do đó cái lưng chỉ sự yên tĩnh “Dừng lại ở lưng” là dừng lại trong sự yên tĩnh. Dừng lại trong sự yên tĩnh có nghĩa là tâm hồn được bình an, không bị khuấy động bởi dục vọng; vì thế điều ác không khởi lên được. Thế là “dừng lại ở lưng” cũng có nghĩa là dừng lại trong điều thiện.

Không thấy được thân mình” có nghĩa là “bỏ quên chính mình” (vong ngã). Đạo Phật cho rằng vì “chấp ngã” (đề cao chính mình, đề cao cái tôi) mà bao nhiêu tham, sân, si nổi lên; từ đó biết bao điều ác tha hồ hoành hành, phát tác. Giờ đây, “không thấy được thân mình” (vong ngã) chính là chấm dứt đầu mối gây nên những tội lỗi xấu xa.

Đi ở sân không thấy có người” tức là không còn có sự phân biệt giữa cái ta và cái không phải là ta (người) nữa. Hay nói khác đi, ta là người, người là ta, ta với người là một. Như thế, tâm thức con người đạt đến trạng thái bình đẳng hoàn toàn. Từ đó, tham sân si tan biến, tâm thức trong sáng, vắng lặng, minh đức của con người sáng rỡ như trăng rằm, bởi vì vô minh đã mất. Đó là cảnh giới của con người đạt tới mức chí thiện, hay là dừng lại trong sự tốt lành cùng cực.

Minh đức của con người là bản tính của Trời. Như thế, con người vốn khởi đi từ chí thiện. Bước vào cõi trần gian, minh đức bị màn vô minh che phủ vì con người lệ thuộc vào tha vật; do đó mà sinh sự với tha nhân, làm mất tình thân ái. Giờ đây, con người làm sáng tỏ minh đức, thân dân dừng lại trong sự chí thiện; đó là con người đã hoàn thành nhân tính và cũng là thiên tính của mình, thành tựu sứ mệnh của mình trong trần gian. Như thế là con người thực hiện trọn vẹn đạo Đại học.

Ba điểm trong cương lĩnh Đại học tuy có vẻ ngắn gọn thật, nhưng dấn thân vào thực hiện không phải là dễ. Nếu không phải là nhân vật phi thường, có khi phải nỗ lực cả một đời người mới thành tựu. Cũng có khi người ta hết sức cố gắng, nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì; bởi vì sai một ly đi một dặm, người học đạo không nắm vững phương pháp sẽ bị lạc đường. Vì thế, trong phần tiếp theo ba điểm cương lĩnh, Khổng tử đã nêu ra những bước tiến thứ tự hay những trình độ mà người học đạo cần phải vận dụng như những phương thế dẫn đến thành công:

“Tri chỉ, nhi hậu hữu định. Định, nhi hậu năng tĩnh Tĩnh, nhi hậu năng an An, nhi hậu năng lự Lự, nhi hậu năng đắc.”

(Biết dừng, rồi sau mới có ổn định.

Ổn định, rồi sau mới có thể thinh lặng. Thinh lặng, rồi sau mới có thể yên vui.

Yên vui, rồi sau mới có thể nghĩ ngợi, toan tính.

Nghĩ ngợi toan tính, rồi sau mới có thể đạt được.)

Cương lĩnh đại học được phân chia ra làm ba điểm cốt để trình bày cho rõ ràng, nhưng thực ra “minh minh đức” là điểm quan trọng hơn cả. Trong thực hành, người ta có thể coi như “minh minh đức”, “thân dân” và “chỉ ư chí thiện” cần được tiến hành song song. Tuy nhiên, nếu minh đức được hoàn toàn sáng tỏ thì tức khắc thân dân chí thiện đều thành tựu. Như vậy, nỗ lực của người học đạo xem ra đều qui tụ vào việc “minh minh đức”. Vì thế, những bước tiến thứ tự mà Khổng tử vạch ra ở đây hầu như được đem áp dụng cả cho việc “minh minh đức”. Những bước ấy bao gồm: chỉ, định, tĩnh, an, lự, đắc; trong đó, chỉ là bước khởi đầu, đắc là bước thành tựu.

Chúng ta hãy lần lượt tìm hiểu những bước này:

1. Chỉ:

Chỉ” là dừng lại. “Tri chỉ” là biết dừng lại. Trong phần trên chúng ta đã biết sở dĩ minh đức bị mờ tối đi là vì bị màn vô minh che phủ. Màn vô minh được đan dệt thành là do con người lệ thuộc vào tha vật. Vô minh được tạo thành trong tâm thức con người chẳng khác gì chất cholestérol đóng vào thành mạch máu lâu dần tạo nên tình trạng xơ cứng động mạch vậy. Bây giờ, bước đầu tiên trên đường đạo là dừng lại, đừng lệ thuộc vào ngoại vật nữa, hay ít ra là bớt dần sự lệ thuộc. Ngay cả đến miếng ăn là thứ cần thiết để nuôi sống thân xác cũng không nên lệ thuộc. Trong tinh thần này, Kinh Thánh nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Thứ Luật: 8,3)

Cũng trong ý bớt sự lệ thuộc, Lão Tử nói: “Tổn chi hựu tổn, dĩ chí vô vi.” (Mỗi ngày một bớt [lệ thuộc vào ngoại vật], cho tới cuối cùng thì hoàn toàn không [lệ thuộc nữa]) (Đạo Đức Kinh)

Nhà Phật cho rằng con người sở dĩ đau khổ là vì ái dục. Nếu biết dừng lại, chấm dứt ái dục, người ta sẽ đạt tới tình thái không ái dục, tức là cảnh giới Niết-bàn.

Huyền học Tân Ước cho rằng nước Trời chỉ dành cho những người trở nên như con trẻ. Về việc này, Đức Giêsu đã nói với các môn đồ như sau: “Quả thật, tôi bảo các ông: Nếu các ông không hóa nên lại như những trẻ nhỏ, các ông sẽ không vào được Nước Trời đâu. Vậy ai kể mình hèn mọn như trẻ nhỏ này đây, thì người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.” (Matthêu: 18, 3-4) 

Đấy là một cách nói khác về sự dừng lại: dừng lại những tham vọng độc ác ranh mãnh, những sự khao khát không đáy của người lớn, quay về với tâm thức đơn sơ trong trắng của con trẻ. Đó là con đường duy nhất để vào Nước Trời, hay trở nên thánh hiền. Ở một chỗ khác, Đức Giêsu đã gọi tình trạng “dừng lại và quay về” đó là sự “tái sinh”. Ngài nói với Nicôđêmô trong cuộc hội thoại ban đêm ở Jérusalem:

Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn Trên.” (Gioan: 3,3).

Như thế đã rõ, “chỉ” (dừng lại) là điều kiện tiên quyết để làm sáng tỏ minh đức. Điều này cũng cho biết tại sao huyền thoại Địa đàng đã nói tới sự sa ngã của loài người khởi từ việc ăn, và tại sao trong các nền tu đức của nhân loại từ Đông sang Tây (trong đó có Phật giáo, Lão giáo…) đều dạy người ta phải tiết chế ăn uống. Bởi vì, dục vọng ăn uống là đầu mối của mọi dục vọng. “Chỉ” được dục vọng ăn uống là “chỉ” được mọi dục vọng khác.

2. Định:

Định là ổn định. Tinh thần chỉ được ổn định, sau khi thân xác đã ổn định, không còn bôn chôn xuôi ngược, lo lắng, kiếm tìm. Như vậy, định là bước thứ hai đến sau chỉ. Con người được ổn định sau khi đã biết dừng sự ham muốn (tri chỉ).

Chiết tự của chữ định () như sau:

– Bộ miên (): chỉ cái mái nhà.

– Phần biến thể của chữ chính () bên dưới.

Mái nhà” vừa biểu thị mái ấm gia đình, vừa biểu thị chính thân xác của mình. Định tức là trong nhà, trong thân xác của mình có sự chính đáng.

Chữ chính () bao gồm chữ chỉ () và chữ nhất (). Chỉ nhất là dừng lại ở một, tức là dừng lại ở Trời.

Định chỉ đến trạng thái con người hướng nội, quay về nội tâm và ở trong nhà mình, sống theo ý Trời, để tránh tình trạng hướng ngoại, vong thân, hay là “táng vu vật” (chôn trong vật).

Trở lại huyền thoại Địa đàng, lý do làm cho Eva sa ngã phạm tội là vì Eva đã bỏ Adam ở một mình, ra ngoài vườn để rồi nghe theo lời đường mật của con rắn. Vì thế sau này, trong thời Tân Ước, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ chăm cầu nguyện để tránh sa ngã trước cám dỗ của sự dữ. Cầu nguyện tức là chỉ nhất, là sống theo ý Trời. Và Đức Giêsu đã khuyên mỗi khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại. (Matthêu: 6, 6). Đó là ý nghĩa chữ định được dẫn giải theo Kinh Thánh.

Nhà Phật có phép tu khiến cho tâm thân ổn định không còn vọng động nữa, gọi là phép tu định. Nhập định là tình trạng tâm thức đã trở nên vắng lặng, vong ngã, lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) không còn hướng về lục trần, chấm dứt sự vong thân trong cảnh, chấm dứt tình trạng “tâm viên ý mã” (tâm như con vượn trèo cành, ý như con ngựa rong ruổi đó đây). Trong quá trình tu trì của Phật giáo gồm ba bước giới, định, huệ, thì giới chỉ (dừng lại), định (samadhi) là nhiếp tâm (tập trung tư tưởng), huệ là sự thông sáng. Chánh định là một chi quan trọng trong tám chi của Bát Chánh đạo. Nhờ có Chánh định, tâm thức mới có thể nhận chân được thực tướng của vạn hữu.

Đối với đạo Nho, định là một bước không thể thiếu trên đường hướng tới chí thiện.

3. Tĩnh:

Tĩnh là thinh lặng. Thinh lặng là kết quả của sự an định trong tâm hồn. Tâm thức thinh lặng có thể được hình dung như mặt nước hồ không gợn sóng. Hồ không gợn sóng vì không có gió làm cho xao động; do đó những bụi bẩn trong hồ đều lắng xuống đáy, khiến nước hồ trong veo. Tâm thức thinh lặng cũng trong veo như vậy. Tâm thức thinh lặng không mang một mặc cảm nào, không mặc cảm tội lỗi, không mặc cảm tự ti, không mặc cảm tự tôn, không vướng bận hình ảnh quá khứ cho nên không tiếc nuối, không dự phóng hình ảnh tương lai cho nên không ao ước chờ mong. Trong tâm thức thinh lặng chỉ có hiện tại miên trường hằng cửu, vượt thời gian và không gian; vì thế tâm thức thinh lặng có thể đưa tới những giấc ngủ say không mộng của trẻ thơ, của bậc chân nhân.

4. An:

An là sự yên vui. Yên vui là kết quả của tâm thức thinh lặng. Yên vui ở đây không chỉ là cảm thức bình an tương đối của một người mới trải qua thời chinh chiến tao loạn; không chỉ là cảm thức bình an của một người sống trong thời thái bình, kinh tế phồn vinh. Yên vui ở đây không phải là thứ tình cảm của một người mới được mối lợi lớn, được thỏa ước nguyện; cũng không phải là thứ tình cảm của một người vừa thoát khỏi những tai họa nguy hiểm, những chướng ngại cản trở công việc, thoát khỏi được những loại “kỳ đà cản mũi”. Yên vui ở đây không lệ thuộc vào sự được, mất thông thường của thế gian.

Yên vui ở đây là tình trạng tâm thức của con người đến gần được cõi đạo. Đó là niềm vui của Khổng tử khi nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ. 朝聞 夕死可矣(Buổi sáng được nghe đạo, chiều chết được rồi.) (Luận ngữ). Đó là niềm yên vui của Nhan Hồi mặc dầu sống trong ngõ hẹp với một nắm cơm hẩm, một vò nước lã.

Đối với tâm hồn cận kề cõi đạo, niềm yên vui thật là tuyệt vời, khôn tả: bởi vì trước mắt không có sắc màu, nhưng dường như có muôn màu rực rỡ; trong không gian không có tiếng nhạc, nhưng dường như vẫn có âm điệu du dương… Nói theo tôn giáo, đó là tiếng nhạc thiên quốc, tiếng ca thiên thần…

5. Lự:

Lự là nghĩ ngợi toan tính. Nghĩ ngợi toan tính để tìm ra phương thế đắc đạo. Tuy nhiên lự ở đây không phải là nghĩ ngợi toan tính thông thường như những nhà kinh doanh, những nhà chính trị, những nhà quân sự… Nghĩ ngợi toan tính thông thường làm cho người ta phải mệt óc, nhức đầu, bối rối, phiền muộn… Ở đây lự là kết quả của quá trình bốn bước chỉ, định, tĩnh, an; do đó lự là sự hướng chiều tâm thức tùy theo nhu cầu của tinh thần là nắm bắt đối tượng đạo” và đạt tới đối tượng “đạo” bằng trực giác nhạy bén của người đã tiến xa trên đường tu.

Lự của người thường thì lệ thuộc vào thị dục, vào ngoại vật. Thị dục làm cho tâm thức mờ tối, vì thế tinh thần bị phân vân, khó lòng phân biệt tốt xấu, phải trái, lợi hại, nhanh chậm… Ở đây, người tu đạo sau khi đã trải qua bốn bước chỉ, định, tĩnh, an, thì tâm thức đã trong sáng, không bị thị dục chi phối nữa; cho nên muốn nghĩ ngợi toan tính (lự) là tìm thấy ngay hướng đi, thấy ngay phương thế phải tiến hành.

6. Đắc:

Đắc là đạt được. Đạt được là gặt hái thành quả sau khi người tu đạo đã đi qua năm bước: chỉ, định, tĩnh, an, lự. Ở đây, Đức Khổng không nói ra rõ là đạt được cái gì. Nhưng xét văn mạch trong phần Kinh này, quá trình tu đạo 6 bước chỉ, định, tĩnh, an, lự, đắc được đặt sau cương lĩnh Đại học, thì chúng ta phải hiểu đó là đạt được những điều mà cương lĩnh nêu ra, hay nói khác đi là thành tựu cương lĩnh. Nói rõ hơn, người tu đạo đến đây đã có minh đức được sáng tỏ, đã thân yêu mọi người như chính mình và đã đạt được mức chí thiện. Nói tóm gọn lại là đắc Đạo, thành tựu chánh quả.

Đắc đạo là đạt được đạo quả nơi chính mình. Trước khi bàn đến việc giúp cho mọi người (thiên hạ) cũng đắc đạo như mình, Khổng tử xen vào một câu văn để nhấn mạnh đến thứ tự trước sau của những phương thế và cũng là thứ tự trước sau của những mức độ, những bước tiến:

Vật hữu bản, mạt; sự hữu chung, thủy. Tri sở tiên, hậu, tắc cận Đạo hỷ.”

(Vật có gốc, ngọn; việc có đầu, cuối. Biết chỗ trước, sau, thì gần được chân lý.)

Câu này nói về phương pháp tiến hành. Tiến hành việc tu đạo cũng giống như tiến hành bất cứ một công việc gì, đều phải theo thứ tự từ gốc tới ngọn, từ đầu tới cuối, từ trước tới sau. Cái gì cần phải làm trước, cái gì phải làm sau đều phải diễn ra đúng qui luật thứ tự. Nếu đảo lộn thứ tự, chắc chắn sẽ thất bại. Ví như xây một cái nhà, phải khởi sự từ việc đặt móng xây nền cho chắc, rồi sau đó mới xây tường, làm mái…

Trong việc tiến hành đạo đại học thì việc “minh minh đức” là gốc, là đầu; việc “thân dân” là ngọn, là cuối. Minh đức không được sáng ra thì không thể “thân dân” được.

Trong phương thế tiến hành thì chỉ (dừng lại) là việc khởi đầu, là việc phải làm trước hết; sau đó, các bước định, tĩnh, an, lự mới diễn ra tiếp theo. Ví bằng không chỉ (dừng lại) dục vọng làm sao thân tâm có thể định được? Những người tập ngồi thiền mà trước đó không chịu ăn chay tu tĩnh thì làm sao tâm thức có thể định?

Hơn nữa, nếu người ta không chỉ mà muốn đốt giai đoạn, nhảy sang Lự ngay, để nghĩ ngợi toan tính tìm phương pháp đắc đạo, e rằng chỉ gây nên sự tán loạn tâm thức; và việc tìm đạo chỉ là chuyện mò kim đáy biển mà thôi! 

Thứ tự của công việc tiến hành quan trọng như thế, cho nên Khổng tử mới nói “tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hỹ”. Chưa cần làm (hành), chỉ mới biết (tri) thứ tự trước sau của công việc thôi, đã là gần đạo rồi, sự thành công không xa nữa.

Câu văn “Vật hữu bản mạt…” này là lời nhấn mạnh chuyển tiếp giữa hai phần: phần trên nói về việc chính mình thực hành đạo đại học tiến đến mức chí thiện; phần dưới nói về việc giúp cho thiên hạ minh minh đức để rồi tất cả cùng đạt đến mức chí thiện.

Minh minh đức ư thiên hạ:

Việc giúp cho thiên hạ làm sáng tỏ minh đức cũng có thứ tự cần phải tiến hành trước sau.

Khổng tử đã nói về việc này rằng:

Cổ chi dục minh minh đức ư thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên tri kỳ tri. Trí tri tại cách vật.

(Người xưa muốn làm sáng tỏ cái năng lực sáng láng ở trong thiên hạ, trước là sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, trước là điều chỉnh nhà mình. Muốn điều chỉnh nhà mình, trước là sửa thân mình. Muốn sửa thân mình, trước là làm cho lòng mình được chính đáng. Muốn lòng mình được chính đáng, trước là làm cho ý mình được thành thật. Muốn ý mình được thành thật, trước là đạt đến cùng sự hiểu biết. Hiểu biết đến cùng ở tại sự tìm xét đến cùng sự vật.)

1. Tiên trị kỳ quốc:

Người xưa được nhắc đến ở đây có lẽ là các bậc thánh vương đời trước như: Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Đại Vũ, Thành Thang, Văn Vương, Vũ Vương; nhưng rõ rệt và tiêu biểu hơn cả là vua Thuấn. Theo truyện kể trong Kinh Thư, vua Thuấn đã sửa trị nước mình được tốt đẹp, mọi việc ổn định.

Với “tính thâm trầm mà khôn ngoan, văn vẻ mà sáng suốt, ôn hoà mà cung kính, thật thà mà chất thực” (Thuấn điển: 1), vua Thuấn được vua Nghiêu trao cho ngôi vua, “vua Thuấn cẩn thận thi hành mục luật năm đạo thường, thì năm đạo thường thuận tiện cả. Điều khiển trăm quan, trăm quan làm việc trôi chảy cả. Khi tiếp tân ở bốn cửa Đông, Tây, nam, Bắc, trong kinh thành, thì các nước chư hầu ở bốn phương hoà mục cả.” (Thuấn điển 2).

Để cho mọi người không quên cội nguồn, vua Thuấn hướng dẫn dân chúng kính nhớ Thượng đế bằng nghi lễ Phần sài, (Thuấn điển: 8); bởi vì có kính nhớ Thượng đế, người ta mới không xa rời đạo đức. Ngài đặt ra hình pháp rõ ràng nhưng vẫn có lượng khoan hồng để dân chúng biết xa lánh điều ác.

Ngài thường xuyên mở cửa đón bậc hiền tuấn ở bốn phương và luôn luôn tỉnh táo, sáng tai, tinh mắt, theo dõi mọi việc trong cả nước. Ngài “vỗ về người ở xa, triệu tập người ở gần; đối đãi tử tế với người có đức, tin dùng người có nhân, mà cự tuyệt kẻ gian ác.” (Thuấn điển 16).

Để chia sẻ trách nhiệm cai trị, vua Thuấn khéo kén chọn những bậc hiền tài như: Ông Vũ giữ chức Bách quỹ để điều khiển trăm quan. Ông Khí làm quan Hậu tắc để dạy dân trồng trăm giống thóc cho phải thời. Ông Tiết làm quan Tư đồ để dạy đạo lý cho dân một cách khéo léo, dịu dàng. Ông Cao Dao làm quan Sĩ tư, luận án minh xác để cho mọi người tin phục ngăn dẹp được giặc cướp, gian ác. Ông Thùy làm chức Cung công để điều lý những việc bách công. Ông Ích làm quan Trâm ngu, trông coi cây cỏ, chim muông, ở trên núi, rừng, dưới hồ, đầm. Ông Bá làm quan Trật tông, sớm tối kính cẩn giữ việc tế lễ. Ông Quỳ phụ trách dạy âm nhạc cho các con trưởng từ con vua, đến con quan khanh, quan đại phu để đào luyện tính tình: “…chính trực mà ôn hoà, khoan dung mà hơi ngặt, Cương nghị mà không tàn ngược, giản dị mà không ngạo mạn…” (Thuấn điển 24). Ông Long làm chức Nạp ngôn, xét kỹ các mệnh lệnh của vua để tránh sự gièm pha, làm hại công việc của người lương thiện, kinh động cả mọi người.

Kinh Thư lại cho biết: “Trong 3 năm, một lần xét công các quan. Trong 3 lần xét (9 năm) truất bãi người ươn hèn, cất nhắc người cần mẫn, các công việc đều thịnh vượng.” (Thuấn điển 27, Thẩm Quỳnh dịch).

Xem như thế thì việc thiên hạ truyền ngôn và nhiều học giả đời sau đã nhắc đến thời đại vua Thuấn cai trị là hoàng kim thời đại, thiên hạ thái bình quả cũng không ngoa! Việc cai trị đất nước tốt đẹp dĩ nhiên đưa đến kết quả song song với sự thịnh vượng, ổn định thì đạo đức cũng được đề cao; tội phạm giảm đến mức tối thiểu và minh đức của mọi người trong thiên hạ được sáng tỏ.

2. Tiên tề kỳ gia:

Tuy nhiên, muốn sửa trị nước mình, trước là điều chỉnh nhà mình. (Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia). Việc điều chỉnh gia đình phải được thực hiện trước việc sửa trị nước. Đó là thứ tự gốc ngọn, đầu cuối, trước sau (bản mạt, thủy chung, tiên hậu) của phương pháp tiến hành đã được nói ở trên.

Lại lấy trường hợp vua Thuấn làm gương mẫu, chúng ta thấy rằng trước khi sửa trị đất nước được thái bình, ngài đã điều chỉnh gia đình rất hay, đến nỗi cải hóa được cả người cha khó tính, người mẹ kế chẳng hiền và người em dị bào thất đức. Kinh Thư chép chuyện này như sau:

Các quan đồng ý tâu vua (Nghiêu) rằng ở dân gian có người góa vợ là Ngu Thuấn. Vua nói rằng phải, Trẫm cũng nghe nói. Nhưng người ấy thế nào? Quan nhạc thưa rằng: Người ấy là con một người loà, cha ngoan cố, mẹ lắm điều, người em dị bào (khác mẹ) tên là Tượng lại có tính ngạo ngược. Thế mà một lòng hiếu thảo, khiến cho họ biết hối lỗi, quay làm điều thiện, không xảy ra sự gian ác gì.” (Nghiêu điển 12, Thẩm Quỳnh dịch).

Cái thứ tự trước sau “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đó chẳng những phù hợp với trường hợp vua Thuấn mà cũng hợp cả với vua Nghiêu. Vua Nghiêu đã tiến hành sự cải thiện từ gần ra xa như vậy: “Hay tỏ đức tốt để thân với người trong họ chín đời. Các ngài trong họ chín đời hoà mục rồi, ngài tổ chức tốt cho cả trăm họ (dân trong hạt). Trăm họ sáng tỏ rồi, ngài hoà hợp cả đến muôn nước chư hầu. Bấy giờ, nhân dân trong thiên hạ đều hoà vui, bỏ điều ác mà làm điều thiện.” (Nghiêu điển 2, Thẩm Quỳnh dịch).

Việc điều chỉnh gia đình (tề gia) cần thiết như có cả một tấm gương lớn cho dân chúng soi vào để từ đó sinh lòng mến phục mà chấp hành mọi pháp lệnh sửa đổi.

3. Tiên tu kỳ thân:

Nhưng để có thể điều chỉnh gia đình cho được êm thắm, tốt đẹp thì trước đó phải tự sửa thân mình. (Dục tề kỳ gia giả, tiên tu kỳ thân). Nếu người chồng không tự sửa mình cho tốt, làm sao khuyên bảo được vợ cho nên hiền? Nếu người cha không tự sửa mình theo điều thiện, làm sao nêu gương cho con, dạy dỗ được con? Vì thế, việc điều chỉnh gia đình có gốc ở việc tu thân. Đóng vai người chồng, người cha mà xứng đáng, thể hiện phong cách một bậc quân tử, không cần khuyên bảo, không cần dạy dỗ, vợ con cũng tự khắc không dám làm điều xằng bậy.

4. Tiên chính kỳ tâm:

Việc tu thân là cần thiết như thế, là khởi đầu của một chuỗi những bước tiến hành: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thế mà, muốn tu thân thì phải làm sao đây?

Khổng tử nói tiếp: “Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm.” (Muốn sửa thân mình, trước là làm cho lòng mình được chính đáng.) Làm cho lòng mình được chính đáng có nghĩa là giữ cho lòng mình luôn hướng về điều thiện, hướng về bổn phận của mình. Theo nghĩa tiêu cực, thiện là những điều không gây thiệt hại cho mình và cho người. Theo nghĩa tích cực, thiện là những điều làm cho mình và cho người nên tốt hơn, đẹp hơn, vui hơn… Bổn phận là những điều mình phải làm trong phần vụ của mình. Ai cũng có bổn phận cần phải thi hành cả. Chồng có bổn phận phụ trách kinh tế gia đình và bảo vệ vợ con. Vợ có bổn phận hỗ trợ chồng và săn sóc con. Con có bổn phận vâng lời cha mẹ để thăng tiến mình, hoặc nếu có thể, giúp đỡ cha mẹ. Ở cương vị người cai trị thì có bổn phận lo cho dân chúng được an cư lạc nghiệp.

Không để cho tâm mình hướng về điều ác, hướng về những việc ngoài bổn phận, đó là giữ tâm chính đáng. Người xưa đã dùng một hình ảnh cụ thể về việc giữ tâm chính đáng như là người đi chăn dê vậy. Chăn đàn dê thì phải giữ cho các con dê ăn trong đồng cỏ của mình; thấy con nào bỏ đàn đi quấy phá nương rẫy của người khác thì quất cho trở về; hoặc không để cho con nào rơi xuống vực; trước sau giữ cho đàn dê đi có hàng có lối.

Nói một cách vắn gọn, muốn giữ tâm chính đáng thfi phải ghi nhớ lời Khổng tử dạy Nhan Hồi: “Khắc kỷ phục lễ”: chinh phục lấy mình và tuân theo tiết điệu uyên nguyên của đạo Trời. “Khắc kỷ phục lễ” là thi hành đức nhân. Thi hành đức nhân ở mức cùng tột cũng là giữ tâm chính đáng.

5. Tiên thành kỳ ý:

Tâm là một thể vô hình ở trong con người nhưng lại tùy thuộc vào ý. Ý là sự sinh khởi trong tâm khi tâm hướng về thế giới hiện tượng. Thế giới hiện tượng tức cảnh xâm nhập vào tâm qua năm cửa ngõ, nhà Phật gọi là ngũ căn: nhãn (mắt), nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (thân thể); và qua sự hồi tưởng nghĩ ngợi (ý).

Ý là tổng hợp của các hình ảnh về thế giới hiện tượng được gợi lại sau khi đã qua các cửa ngõ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Vì thế, ý khởi mối cho tâm. Muốn trị tâm phải chú trọng đến ý.

Ở đây, Khổng tử nói: “Dục chính kỳ tâm, tiên thành kỳ ý: Muốn lòng được chính đáng, trước là làm cho ý mình được thành thật.”

Ý thành thật là điều kiện để có tâm chính đáng. Thành thật là không tự dối mình, dối người.

6. Tiên trí kỳ tri:

Thành thật là tình trạng tâm thức chỉ có thể diễn ra khi người ta biết đúng đắn về sự vật. Do đó, Khổng tử nói tiếp: “Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri.” (Muốn ý mình được thành thật, trước là đạt đến cùng sự hiểu biết.)

Đạt đến cùng sự hiểu biết nghĩa là biết rốt ráo về sự vật với tất cả những tính chất của nó, những tác động tốt hoặc xấu của nó, những ảnh hưởng của nó trên tâm của mình.

7. Trí tri tại cách vật:

Để có thể hiểu biết đến cùng, Khổng tử đưa ra nguyên tắc: “Trí tri tại cách vật: hiểu biết đến cùng ở nơi sự tìm xét đến cùng sự vật.”

Trong quá trình thực hành ba điểm cương lĩnh Đại học, có tất cả 8 bước thứ tự từ thấp lên cao, từ gần ra xa; cổ nhân quen gọi là bát điều mục: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Như thế, “cách vật” là bước khởi đầu, bước nền tảng của một công trình to tát, đó là làm cho thiên hạ thái bình, làm cho người học đại học đạt tới chí thiện.

Tuy nhiên, hai chữ “cách vật” đã làm cho nhiều nhà Nho xưa bối rối, mỗi người hiểu một cách, do đó sự tu tập không thành tựu và thiên hạ cũng không thái bình. Bởi vì “cách vật” là bước nền tảng, cho nên “cách vật” hỏng thì cả bảy bước tiếp theo (trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) cũng sụp đổ, hoặc ít ra là lệch lạc. Thậm chí, “cách vật” hỏng thì cũng không biết “tri chỉ” (dừng lại); và việc “minh minh đức” cũng không thành. Vì vậy, chúng ta hãy dừng lại tìm hiểu bước này một cách cẩn thận trong phần tiếp theo đây.

Cách Vật: “Cách” nghĩa là đến nơi, “vật” là tiếng chỉ chung tất cả mọi thứ, mọi giống… trong thế giới hiện tượng. Như vậy, “cách vật” có nghĩa là tìm xét đến cùng sự vật.

Về phương pháp “tìm xét đến cùng sự vật” thì người xưa đã chia rẽ nhau. Khổng tử dạy thế nào, Tăng Tử thuật thế nào, những điều ấy nay đã thất truyền. Chu Hy nương lấy ý kiến của Trình tử rồi bổ cứu thêm, cho rằng muốn hiểu biết sự vật một cách chu đáo thì phải nghiên cứu sự vật cho tới tận cùng lý do (tại tức vật nhi cùng kỳ lý dã). Tuy không nói rõ phải nghiên cứu làm sao, nhưng đây là đại biểu cho lập trường hướng về vật của Nho gia.

Sau này, áp dụng lời dạy của Chu Hy về việc “cách vật”, Vương Dương Minh (1472-1528) muốn tìm hiểu cây trúc, ông đã lấy cây trúc chẻ ra xem, nghĩ mãi không thấy cái lý, lấy làm buồn bực, đến nỗi thành bệnh.Sự việc khiến cho Vương Dương Minh đổi hướng học tập để rồi về sau đưa tới một lập trường mới: lập trường duy tâm về “cách vật”. Ông cho rằng chỉ cần trí lương tri, loại bỏ tư dục; lau rửa cái tâm cho sáng, thì có thể hiểu thấu sự vật. Ông viết trong Ngữ lục: “Thánh nhân chi tâm như minh kính, chỉ thị nhất cá minh, tắc tùy cảm nhi ứng, vô vật bất chiếu (Tâm của thánh nhân như gương sáng, chỉ là một cái sáng, thì cứ tùy cảm mà ứng, không vật gì là không chiếu rõ.)

Suy nghĩ về lập trường của Vương Dương Minh, chúng ta nhận thấy rằng: Tâm của thánh nhân thì có thể chiếu và thấy rõ vật, nhưng tâm của phàm nhân cho dù cố gắng tới đâu cũng chỉ thấy rõ ngoại diện của vật; còn bên trong vật có gì, tính chất của vật ra sao, gương tâm đâu có thấy? Như vậy, cái thấy của tâm chỉ là cái thấy chủ quan mà thôi. Vả lại, muốn cho tâm sáng để trở nên thánh nhân thì phải gạt bỏ tư dục, nhưng do đâu mà có tư dục? Có phải do vật chăng? Thế mà, đã không hiểu rõ vật, thì bỏ tư dục làm sao? Như thế, lập trường duy tâm vẫn có chỗ lúng túng.

Tóm lại hai lối hiểu về “cách vật”, hai quan điểm về “cách vật” của Chu Hy và Vương Dương Minh đã làm cho không biết bao nhiêu thế hệ học Nho xưa bị hoang mang. Vì hoang mang lúng túng, cho nên đối với nhiều người, Nho học đã biến thành hư văn, và đem lại ít kết quả cho giới học thuật. Vì thấy khó trở nên thánh nhân, đa số Nho gia hướng về phía quan trường, học để kiếm một địa vị trong xã hội, trong cơ cấu chính trị quân chủ chuyên chế phong kiến.

Nay chúng ta hãy xét lại vấn đề này dưới một nhãn quan mới, một hướng mới.

Sở dĩ người ta không tu thân được, hay nói theo cương lĩnh đại học, người ta không làm sáng tỏ minh đức được bởi vì người ta không dừng lại những dục vọng đam mê, dừng lại sự lệ thuộc vào vật (tri chỉ). Nguyên do làm cho người ta lệ thuộc vào vật là vì không hiểu biết rốt ráo về vật. Một khi đã hiểu rõ về vật, nhất là những vật làm hại đến thân tâm mình, tự nhiên người ta sẽ hết đam mê, không lệ thuộc nữa. Nếu còn một chút lưu luyến nào, chỉ cần thêm ít nhiều nghị lực nữa, người ta cũng dừng lại được.

Với một phạm vi thu hẹp là tu thân, chúng ta sẽ không có tham vọng tìm hiểu thấu đáo về mọi loài vật. Hiện nay mọi loài vật là đối tượng tìm hiểu của nhiều môn học như: vật lý, địa lý, nhân chủng học… Với sự chia nhỏ các loài vật ra thành nhiều môn học, cùng với sự giúp đỡ của nhiều máy móc tinh vi, thế mà các nhà bác học cũng chưa có thể thấu tỏ hết về vật. Huống chi một người học về ngành minh triết lại có thể ôm đồm muốn “cách vật” được hết mọi thứ, hiểu cho cùng cái lý của mọi vật. Có tham vọng như thế chẳng là quá đáng và không tưởng ư? Vậy chúng ta chỉ bàn đến việc “cách vật” có liên hệ tới việc tu thân mà thôi.

Lấy ví dụ: một người mê ăn uống, rượu chè, nghiện thuốc, ham sắc dục. Nếu người ấy muốn tu thân để làm sáng tỏ minh đức thì phải “cách vật” ra sao?

Trước hết hãy hướng công phu “cách vật” về các món ăn. Một người thích ăn những cao lương mỹ vị, bởi vì hoặc người ấy tưởng rằng những cao lương mỹ vị bổ béo, làm cho thân xác khỏe mạnh, làm cho tinh thần minh mẫn, khôn ngoan, sảng khối; hoặc người ấy bị quyến rũ bởi mùi thơm, vị ngon, dáng vẻ hấp dẫn… Nếu bây giờ người ấy tìm hiểu đến cùng món cao lương mỹ vị (cách vật), sẽ thấy nó có những chất tạo nên tình trạng dị ứng gan làm cho ngứa ngáy, có nhiều mỡ gây nên tình trạng mỡ bọc tim, có nhiều cholestérol làm tắc nghẽn mạch máu, có nhiều calci tạo nên chứng sỏi thận, có nhiều năng lượng (calori) làm cho hoa mắt váng đầu, hoặc có thể làm cho tinh thần mờ tối mất sáng suốt, hoặc tạo nên tính ghen tuông, giận hờn…

Thứ đến, hãy hướng công phu “cách vật” về rượu. Có nhiều thứ rượu, được chế bằng mễ cốc, hoa quả… được ủ men. Riêng về rượu đế, men bao gồm nhiều vị thuốc nóng, trong đó có quế là một dược phẩm cực nóng. Do đó, rượu nào cũng nóng. Uống rượu nhiều có thể bị chai gan, tim đập nhanh, thần kinh bị rối loạn, khiến cho tinh thần không tự làm chủ được thân tâm nữa…

Tiếp nữa, hãy hướng công phu “cách vật” về thuốc. Trong các loại ma túy, thuốc lào, cho đến thuốc lá là nhẹ nhất, nhưng đều gây nghiện. Trong thuốc lá có chất nicotine; khi đọng vào phổi sẽ làm trở ngại việc hấp thụ dưỡng khí, gây ho hen và có thể tạo nên chứng ung thư phổi…

Để đối trị khuynh hướng đam mê sắc dục, ở Ấn Độ xưa, các nhà tu Phật đã vận dụng phép quán, trong đó có phép quán thân xác các động vật chết, từ lúc mới chết đến lúc hoại rữa. Việc “cách vật” này cho người ta thấy vẻ đẹp thân xác chỉ là hư ảo, không có gì đáng quí trọng, đáng phải lệ thuộc; từ đó, sự đam mê sắc dục có thể chấm dứt hoặc giảm bớt.

Tương truyền rằng vào hồi Đức Thích Ca cùng đệ tử Ananda, đồng thời cũng là em họ của ngài đi hoằng dương giáo pháp, có một nữ thí chủ cứ bám riết theo Ananda, bởi vì ông này rất đẹp trai. Một hôm, Ananda bạch Phật rằng nếu ngài không cứu chắc ông không thể tu được. Hôm sau, vừa thấy nữ thí chủ hiện diện, Ngài vời lại chất vấn về lý do đeo đuổi Ananda. Người nữ ấy đã thành thật giải trình về nỗi đam mê của mình, đại ý rằng: vì thấy Ananda quá đẹp, đẹp từ con mắt, đến cái mũi, cái miệng… Nghe xong, Đức Phật ôn tồn đặt câu hỏi về từng thứ: con mắt, cái mũi, cái miệng của Ananda, Ngài nói đại ý: giả như con mắt, cái mũi, cái miệng ấy bị bệnh hóa ra đổ ghèn, sổ mũi nhơ nhớp… hoặc sau này vào tuổi lão niên, răng rụng, má hóp… liệu rằng chúng còn đẹp chăng? Người nữ ấy đã im lặng lắng nghe, lộ vẻ buồn rầu và không đáp lại; bởi vì nàng nhận thấy quả thực, một lúc nào đó, con mắt xinh xắn ấy, cái mũi dễ thương ấy, cái miệng với đôi môi duyên dáng ấy sẽ trở nên xấu xí, hư hao… Thế là, từ đấy về sau, người nữ ấy không còn đeo bám Ananda nữa. Nàng đã giác ngộ về lẽ vô thường của tạo vật!

Đó là Đức Thích Ca đã dùng phép “cách vật” mà đối tượng (vật) được xét ở đây chính là người đệ tử đẹp trai Ananda, để giúp cho người nữ thí chủ được giác ngộ.

Như vậy, việc “cách vật” (tìm xét đến cùng sự vật) khiến cho người ta hiểu biết thấu đáo về sự vật. Trên đây chỉ là một vài ví dụ nhỏ trong trăm ngàn ví dụ về “cách vật”. Nếu người ta đều “cách vật” đến nơi đến chốn, thì sẽ không còn lệ thuộc vào vật nữa; và mọi điều xấu, mọi tội ác đều có thể giải trừ.

Do đó, Khổng tử dùng cách nói đảo lại để nhấn mạnh đến quá trình cần phải theo, làm cho thiên hạ được thái bình:

Vật cách, nhi hậu tri chí. Tri chí, nhi hậu ý thành. Ý thành, nhi hậu tâm chính. Tâm chính, nhi hậu thân tu. Thân tu, nhi hậu gia tề. Gia tề, nhi hậu quốc trị. Quốc trị, nhi hậu thiên hạ bình.” (Sự vật được xét đến cùng rồi sau mới hiểu biết thấu đáo. Hiểu biết thấu đáo rồi sau mới có lòng chính đáng. Lòng chính đáng rồi sau mới có thân được sửa. Thân được sửa rồi sau mới có nhà được điều chỉnh. Nhà được điều chỉnh rồi sau mới có nước được sửa trị. Nước được sửa trị rồi sau thiên hạ mới được thái bình.)

Sự vật có được xét đến cùng, chúng ta mới biết được những chi tiết về tính chất và những tác dụng của nó đối với con người. Như thế mới là hiểu biết thấu đáo về sự vật. Đành rằng “thiên địa vạn vật nhất thể”, mọi vật đều xuất hoạt từ đại năng lực Thái Cực, cùng có một mẫu số chung về “âm dương nhị khí”, nhưng vì độ số âm dương khác nhau, cho nên mọi vật có những tính chất và tác dụng khác nhau. Biết điểm chung mà không biết những điểm riêng của vật không thể vận dụng tốt được. Vì vậy sự hiểu biết thấu đáo sẽ làm cho ý được thành thật.

Trước một sự quyến rũ xấu nào đó của vật, có lời dạy hay luật buộc phải tránh; nhưng nếu thiếu “trí tri” (hiểu biết thấu đáo), thì ý không thành thật muốn tránh. Người ta giữ luật chỉ vì bị bắt buộc mà không có sự hưởng ứng tích cực, hoàn toàn. Như thế, giữ luật chỉ là một sự giả dối. Ý đã giả dối thì tâm không chính đáng được; nếu có hành động tốt hay nói điều tốt cũng chỉ là che mắt thế gian.

Nay do “cách vật” mà có “trí tri”, người ta sẽ không bị mê hoặc, quyến rũ, và ý mới thành thật đi trong điều thiện.

Có ý thành thật thì sẽ có tâm chính đáng. Có tâm chính đáng thì sẽ sửa được những thói hư tật xấu; do đó mới thành tựu việc tu thân. Thành tựu việc tu thân mới có thể nên gương mẫu cho vợ con bắt chước; do đó việc tề gia thành tựu. Nếu ở cương vị vua một nước hay bậc lãnh đạo quốc gia thì việc tề gia thành tựu sẽ là một tấm gương lớn cho cả nước soi chung, ai ai cũng bắt chước; thế là đất nước được sửa trị. Đất nước được sửa trị thì không có nạn tham nhũng, hối lộ, trộm cắp, đói nghèo… mọi người yêu thương giúp đỡ nhau thì toàn dân được đoàn kết. Toàn dân đoàn kết thì không có nước nào dám xâm lược, trái lại phải đến giao hảo tốt. Vì thế, thiên hạ sẽ được thái bình.

Bên Tây phương đã chú trọng rất nhiều tới “cách vật”; nhưng mục đích của họ hướng tới việc chinh phục vật chất. Do đó, Tây phương thành công nhiều về khoa học thiên nhiên và họ đã hướng tới nền văn minh trục vật (đuổi theo vật chất). Về phía Đông phương, các thánh hiền luôn luôn hướng về Đạo; cá nhân hướng về Đạo thì trở nên thánh nhân; dân chúng hướng về Đạo thì thiên hạ thái bình. Cho nên mục đích của việc “cách vật” được ưu tiên nhắm tới việc tu thân.

Đó là lý do mà Khổng tử ân cần nhắc nhở trong lời cuối của phần Kinh:

Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản. Kỳ bổn loạn, nhi mạt trị giả, phủ hỹ. Kỳ sở hậu giả bạc, nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu dã: Từ Thiên tử cho tới người thường dân, tất cả đều phải lấy việc sửa mình làm gốc. Gốc rối loạn mà ngọn được sửa trị, chẳng có vậy. Nơi đáng dày lại mỏng mà nơi đáng mỏng lại dày, chưa hề có vậy.”

Không phải chỉ có con trẻ hoặc dân chúng mới cần sửa mình, mà ngay cả các quan cai trị và nhất là vua, vị lãnh tụ của một nước, lại càng cần phải sửa mình hơn nữa. Một người ở cương vị thường dân sống trong làng xóm xa xôi, hẻo lánh không sửa mình thì ít người biết đến và cũng chẳng quan trọng gì. Nhưng một ông vua sống ở kinh thành nếu không sửa mình, trái lại sống phóng túng, trụy lạc, xa hoa… thì cả nước đều biết. Vua đã không sửa mình theo đạo thì nêu gương cho các quan cho dân chúng làm sao được! Vua không sửa mình sẽ gây ra mối loạn trong hoàng cung và chẳng bao lâu cả triều đình sẽ rối loạn theo; thế là đất nước sẽ suy vong và sụp đổ trong sớm tối.

Nếu tính từ bốn bước cuối trong Bát điều mục tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì:

– Tu thân là gốc của tề gia, tề gia là ngọn của tu thân.

– Tề gia là gốc của trị quốc, trị quốc là ngọn của tề gia.

– Trị quốc là gốc của bình thiên hạ, bình thiên hạ là ngọn của trị quốc.

Chung qui “tu thân” là gốc của tất cả và “bình thiên hạ” là ngọn của tất cả. Tu thân mà không nên hay chẳng chịu tu thân (gốc hỏng) thì tề gia chẳng thành (ngọn hư). Tề gia chẳng thành (gốc hỏng) thì trị quốc không được (ngọn hư). Trị quốc không được (gốc hỏng) thì thiên hạ không được thái bình (ngọn hư).

Đó là ý nghĩa của lời Kinh: “Kỳ bổn loạn, nhi mạt trị giả, phủ hỹ: gốc rối loạn mà ngọn được sửa trị, chẳng có vậy.”

Lẽ ra cần phải nỗ lực tu thân, mà không tu thân, không sửa lỗi lầm của mình, người chồng, người cha lại đi chê trách vợ con, thậm chí đánh vợ, mắng con, bắt họ vào kỷ luật do mình áp đặt!

Lẽ ra cần phải nỗ lực tề gia, mà lại không làm, một ông vua hay một ông quan lại quá khắt khe với dân chúng, trói buộc dân vào những luật pháp ngặt nghèo, tàn nhẫn!

Lẽ ra cần phải nỗ lực trị quốc cho tốt đẹp bằng những kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.., một ông vua cứ tăng cường binh bị, thao diễn quân sự hòng làm cho thiên hạ thái bình!

Tất cả những việc đó đều ứng vào lời Kinh:

Kỳ sở hậu giả bạc, nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu dã: nơi đáng dày lại mỏng, mà nơi đáng mỏng lại dày, chưa hề có vậy.”

Nơi đáng nỗ lực, chú tâm, tài bồi (dày) là gốc; nơi không cần nhiều nỗ lực, chú tâm (mỏng) là ngọn. Gốc là nhân, ngọn là quả.

Nếu hành động trái khoáy, chú trọng đến ngọn mà không chú trọng đến gốc, chẳng có công trình nào thành tựu.

Chồng không tu thân mà muốn điều chỉnh gia đình thì vợ con đã chẳng nghe, lại còn phá đám. Giới cai trị (vua quan) mà không tu thân, không điều chỉnh được gia đình, họ hàng của mình, buông thả cho con em mình làm điều xằng bậy, thì dân chúng sẽ bất tuân phép nước; đồng thời giặc giã trộm cướp nổi lên như ong, chẳng có vũ khí súng đạn nào kiềm chế được. Do đó thiên hạ không thể thái bình.

Biết gốc, biết ngọn; biết việc nào cần làm trước, việc nào nên làm sau; biết chỗ nào nên dày (chú tâm nhiều), chỗ nào nên mỏng (chú tâm ít); đó là biết phương pháp thành tựu đạo đại học, đạt tới chí thiện, thiên hạ thái bình.

Theo Chu Hy và cả truyền thống các nho gia cựu trào đều cho rằng toàn văn lời Kinh ở trên là do Đức Khổng dạy các môn đệ. Sau đó, Tăng tử, một cao đệ của Đức Khổng tử sau Nhan Hồi, đã thuật lại hoặc dạy lại cho các môn đệ đời kế tiếp. Dĩ nhiên trong khi thuật lại, Tăng tử có thêm lời giải thích để làm sáng tỏ ý tứ của lời Kinh. Đáng tiếc, những lời giải thích ấy đã không được chính Tăng tử viết, mà lại do các đệ tử của ông ghi chép lại. Không ai biết các đệ tử ghi chép lời giải thích của Tăng tử là những vị nào, và cũng không biết những ghi chép ấy đầy đủ đến mức nào, trung thực đến mức nào!

Thế rồi, chúng ta cũng không biết ai là người thu gom các lời ghi chép ấy để góp chung lại thành phần Truyện lưu truyền đến ngày nay!

Căn cứ vào lời của Chu Hy: “Bản sách cũ có lắm chỗ [thẻ tre] lẫn lộn, nay nhân có sự xác định của Trình tử, (tôi) khảo cứu thêm kinh văn, đem phân biệt thứ tự như dưới đây”, chúng ta nhận thấy có những điểm đáng lưu ý sau:

– Phần Truyện gồm những lời giải thích có thể đã bị mất mát ít nhiều. Bằng chứng là những lời giải thích cho hai chữ “cách vật” đã bị mất theo như lời Chu Hy xác nhận ở phần dưới.

– Phần Truyện lại có lắm chỗ bị sắp lẫn lộn. Lý do bị mất mát và bị sắp lẫn lộn có thể là vì sự bảo quản sách không được tốt trong thời gian Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, hoặc trong những thời gian chinh chiến, loạn lạc. Chúng ta đã biết sách ngày xưa được viết bằng những thẻ tre hoặc thanh gỗ mỏng, rồi đục lỗ ở gáy, xâu lại bằng dây. Lâu ngày, dây bị đứt, thẻ tre bị sắp lộn là thường, nhất là đối với những người ít học.

– Trình tử (Không rõ Chu Hy muốn nói tới Trình Minh Đạo hay Trình Y Xuyên hay chỉ cả hai anh em) là người có công nghiên cứu, sắp xếp lại thứ tự của phần Kinh và phần Truyện để cho ý tứ được thông suốt.

– Chu Hy là người nghiên cứu bổ sung để phân biệt rõ ràng hai phần Kinh, Truyện; tách phần Truyện ra thành 10 chương rõ rệt, thêm vào ý nghĩa hai chữ “cách vật” đã mất.

Sau đây, chúng ta sẽ cố gắng phân tích và tìm hiểu để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa phần Truyện so với ý nghĩa phần Kinh ở trên. Bởi vì có làm sáng tỏ chúng ta mới có thể vận dụng tốt đẹp những lời dạy của thánh hiền vào đời sống.

❁ ❁ ❁
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Luận Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung
LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

4 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bình chọn nhiều nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] Luận Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung […]

trackback

[…] Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung (LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính và […]

trackback

[…] Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung (LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải NGUYỄN MINH TIẾN hiệu đính và […]

trackback

[…] Giới thiệu ❁ Chương Chu Hy & Phần Kinh ❁ Phần Truyện – Chương 1 – 5 ❁ Phần Truyện – Chương 6 – 9 ❁ Phần Truyện – […]

4
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x