Trang chủ » Sự xuất hiện của Hiện Hữu

Sự xuất hiện của Hiện Hữu

by Hậu Học Văn
440 views

1. Ta đã là gì trước khi nhập thai?

Khách: Sau khi giác ngộ, liệu một người vẫn còn ngã tướng?

Mahraj: Người giác ngộ không hề quen biết với cái ngã. Bao giờ một người còn nhận diện mình với hình tướng thì còn cái ngã. Người giác ngộ không còn sự nhận diện nào với hình tướng thân xác nên câu hỏi về ngã tướng đơn thuần không xảy ra. Không những thế, người giác ngộ thậm chí cũng không biết cả sự tồn tại của chính mình. Điều này có nghĩa nguyên lý giác ngộ cái Ta chứng kiến nguyên lý thị hiện, tức sinh lực cùng với sự hiện hữu.

K: Khi không còn hình tướng, một người không còn vấn đề nào nữa?

M: Chẳng một đường nét nào của thân xác chạm đến người giác ngộ. Thực thể giác ngộ cái Ta chứng kiến tất cả mọi sự thị hiện, cùng với thế giới và sự hiện hữu.

H: Trong trường hợp của người đã giác ngộ cái Ta, liệu tất cả hành vi của thân xác đều tự xảy ra?

M: Tất cả mọi hành động đều tự xảy ra. Khi sự hiện hữu nhập thai, sự hình thành thân xác tự xảy ra xung quanh sự hiện hữu; không có chuyện thân xác được ai đó tạo ra.

K: Trường hợp của bậc giác ngộ, người được dựng lập trong Cái Tuyệt Đối, người đó được nuôi sống bằng cách nào? Đối với một đứa trẻ, Tự Nhiên ban cho nó cha mẹ để nó có thể lớn lên với sự nuôi nấng của họ, còn bậc giác ngộ thì chẳng có ai kề cận để săn sóc.

M: Khi sự hiện hữu ở trong dạ con thì sự hình thành thân xác tự xảy ra, có phải thế không? Trường hợp của người giác ngộ cũng tương tự như thế, người giác ngộ là một với Tự Nhiên, người giác ngộ chính là Tự Nhiên nên Tự Nhiên lo lắng săn sóc cho người giác ngộ; không cần đến ai cả, mọi thứ đều tự xảy ra xung quanh người giác ngộ.

K: Có nhiều hành giả yoga cao siêu tìm cách sống cả nghìn năm. Họ treo ngược đầu, chỉ sống bằng không khí hay nước lã. Điều gì khiến họ làm như vậy, và tại sao họ sống giai dẳng với quá nhiều khổ hạnh như thế?

M: Họ được thỏa mãn một cách nào đó từ những gì họ làm, thật ra những gì họ đang thực hành tâm linh chỉ là hành xác. Họ muốn kéo dài sự hành xác và cảm thấy có nhiệm vụ nào đó bằng cách kéo dài sự sống trong lĩnh vực tâm linh. Sự hiện hữu này tùy thuộc vào cái gì? Nhờ cái gì mà ông tồn tại? Cuộc đời này không tiếp diễn mãi. Vì sao thế? Vì nếu có gì bất trắc xảy ra với thân xác thì cuộc đời kết thúc. Ông tin rằng ông hiện hữu nhưng sự hiện hữu tùy thuộc vào cái gì? Và nguyên nhân nào khiến sự tin tưởng này, sự hiện hữu này biến mất? Trong diễn tiến này hiện hữu trở thành “phi hiện hữu”. Rồi đến lượt “phi hiện hữu” tự trở thành hiện hữu. Thế nào, chúng ta phải hỏi ai để biết vì sao điều đó xảy ra.

Một người phải tìm hiểu chính mình. Ông có sự tin tưởng “ông hiện hữu”; sự hiện hữu này tùy thuộc vào cái gì? Chẳng có ai tìm hiểu những điều như thế. Tại sao có sự hiện hữu này, Ta hiện hữu như thế nào, tại sao Ta hiện hữu, và sự hiện hữu này tùy thuộc vào cái gì? Điều này không bao giờ được nghĩ đến; người ta chỉ nghĩ đến những yếu tố tương đối liên quan đến thân-tâm, còn phạm trù ở ngoài thân tâm thì họ chẳng bao giờ tìm hiểu. Theo ông “chết” là gì, một từ ngữ thông dụng, một cách nói thông thường? Lòng tin “Ta hiện hữu” này biến mất, sự tin tưởng “Ta hiện hữu” không còn nữa – đó là chết.

K: Nhiều người muốn kéo dài sự sống của họ – có nghĩa là họ yêu cái Ta. Thế họ vẫn còn ở trong những giới hạn của ảo tưởng hay đã siêu vượt ra ngoài?

M: Một khi đã thoát ra khỏi ý nghĩ thân xác thì liệu ông có trường thọ hay không chẳng còn quan trọng. Ông chẳng còn tùy thuộc bất cứ gì để tồn tại. Hãy tìm ra cho chính ông – mà không tùy thuộc vào bất cứ gì hay bất cứ ai – để biết ông là cái gì.

Dù ông muốn nghĩ tưởng hay tư duy về bất cứ gì thì “ông” không phải cái ông nghĩ là ông. Ông luôn luôn tư duy về một cái gì đó không phải là ông! Thế thì, làm sao suy nghĩ về chính ông? Điều này ông không thể làm được. Hiểu rõ điều này thì ông sẽ không còn ý nghĩ. Bất cứ gì ông làm, bất cứ gì ông nghĩ đến đều không phải là ông, ngay cả ý nghĩ cao thượng như Ishwara (Thượng đế) cũng chỉ là một khái niệm, và do đó xa lìa với chính ông. Sao, liệu có thể nào suy nghĩ về Cái Ta của chính mình? Đó là câu hỏi.

K: Ông bảo rằng chúng tôi phải bất tùy thuộc vào sự hiện hữu có tính cách chức năng (có nghĩa là sự tồn tại của thân-tâm), đây là điều tôi cố gắng thực hiện nhưng không cách nào tôi có thể bất tùy thuộc sức khỏe của tôi.

M: Ông nên hỏi những câu liên quan với chủ đề mà chúng ta đang bàn đến. Các câu hỏi của ông đều thô thiển và vu vơ. Ta đang nói về chủ đề một người phải tư duy về chính mình; không có chỗ cho ngôn từ (khái niệm). Mà khi không có ngôn từ thì cũng không có ý nghĩ.

Ông đã làm gì tám ngày trước khi nhập thai trong dạ con của mẹ ông, ông có biết hay Ta có biết không? Hãy giải thích cho Ta tình huống trước khi nhập vào dạ con, lúc đó ông đã như thế nào? Chỉ có ông mới có thể nói về trạng thái đó.

K: Tôi không nhớ, nhưng… Tôi đã là sự hiện hữu?

Người phiên dịch: Sự hiện hữu nhập vào dạ con. Sự hiện hữu trong tình trạng tiềm ẩn, trong phôi thai ở dạ con của người mẹ.

M: Ai biết sự hiện hữu trước khi nhập thai? Nếu biết được sự hiện hữu trước khi nhập thai thì ông đã chẳng muốn chui vào dạ con.

K: Tôi không nhớ.

M: Không thể nhớ được vì đó là trạng thái phi chú ý. Vậy đâu là vấn đề nhớ? Khi có sự hiện hữu thì sau đó chú ý mới sinh khởi. Sự hiện hữu nhập vào dạ con trong trạng thái tiềm tàng. Ranh giới giữa hiện hữu và “phi hiện hữu” là “moolamaya” (gốc rễ của sự lừa dối). Nhiều danh hiệu huy hoàng đã được gán cho nó. Khởi thủy không có sự chú ý, rồi đột nhiên sự chú ý bắt đầu.

Đây là một vật [Maharaj chỉ vào cái bật lửa]; trước khi xuất hiện tên nó là gì? Từ “phi hiện hữu” trở thành trạng thái hiện hữu, nó đã được thấy như thế nào? Ông vừa cảm nhận sự xúc chạm đó. Trước khi thấy bất cứ gì, chúng ta đều cảm nhận sự xúc chạm của cái “Ta là”. Nhận ra trạng thái trước khi nhập thai, trạng thái vĩnh cửu, dù trạng thái đó là bất cứ gì, an trú trong đó là trạng thái cao siêu nhất. Bây giờ, để cho ông hiểu, Ta gán cho nó một cái tên, trạng thái Parabrahman – trạng thái Tuyệt đối.

K: Trước khi nhập thai?

M: Bất cứ trạng thái nào có trước sự nhập thai đều là trạng thái toàn hảo tự nhiên nhất của ông, trạng thái đó luôn luôn hiện hành. Khi sự hiện hữu này ra đi, trạng thái đó vẫn còn, nó luôn luôn hiện hành.

Trạng thái mà ông ở trong đó tám ngày trước khi nhập thai, và hàng triệu năm trước, dù là bất cứ gì thì trạng thái đó vẫn hiện hành, ngay lúc này cũng thế, và sau khi sự hiện hữu ra đi nó vẫn hiện hành!

Vì tình trạng sức khỏe hiện nay, Ta không muốn nói nhiều. Nói về chủ đề này thì chỉ người hy hữu mới hiểu được Ta muốn nói gì. Khi có người hỏi Ta những câu thô thiển, ông có chờ mong Ta hạ cố xuống trình độ đó và giải thích tỉ mỉ như thể cho một lớp học vỡ lòng?

Ta có mấy câu hỏi thật lạ lùng! Trước khi Ta sinh ra, vào lúc nhập thai, ai đã lôi Ta vào dạ con? Cha Ta? Mẹ Ta? Và trong hình tướng nào? Có thể Ta đã có một hình tướng, mầu sắc hay kiểu dáng nào đó trước khi nhập thai thì mới có thể bị lôi vào dạ con.

Người nào tìm ra sự giải đáp cho điều bí ẩn này thì sẽ đi đến kết luận rằng sự hiện hữu và toàn thể thế giới hữu hình này chỉ là hư giả.

Khi sự hiện hữu này không có thì chẳng cần cái biết. Thậm chí ngay cả các thần linh vĩ đại như Brahma và Vishnu khi phải đối diện với điều bí ẩn này thì cũng chỉ biết nhắm mắt nhập định rồi biến mất.

K: Họ không làm gì hết sao?

M: Họ có thể làm được gì? Hiện ông đang cảm thấy “ông hiện hữu” vì có sự liên kết với hơi thở của sự sống; vì hơi thở của sự sống đang hoạt động, ông biết “ông hiện hữu”. Khi sự liên kết không còn nữa, ông có thể làm được gì? Liệu thật sự ông có thể làm được bất cứ gì?

K: Tôi phải làm gì để có được cái biết?

M: Chẳng phải làm gì cả mà chỉ bám lấy chính ông, cứ ở trong sự hiện hữu này rồi ông sẽ biết hiện hữu trở thành “phi hiện hữu” như thế nào. Vì thế, Ta chỉ có thể nói với ông một điều: Bám lấy sự giao tiếp của cái biết “Ta hiện hữu”, sự hiện hữu đó, an trú trong đó và quán tưởng nó mà thôi.

K: Tốt nhất là ở đó trong trạng thái “Ta hiện hữu”? Hiện hữu là thiền?

M: Không có “ở đó”, mà chỉ .

K: Liệu có thể như thế suốt ngày? Có pháp thiền quán nào chuyên biệt không?

M: Ai nói là suốt ngày? Còn ai khác có thể nói là suốt ngày nếu không phải là sự hiện hữu? Nó có thể nắm bắt mọi thứ trong sự quán tưởng này, nhưng không thể nắm bắt chính nó.

K: Có phải nghiệp là một vấn đề do chúng ta tạo ra?

M: Kẻ nào đã tạo ra ông thì kẻ đó đã tạo ra cái nghiệp này và những vấn đề của nghiệp, rồi ông tự lôi cuốn mình vào đó. Ai đã tạo ra ông? Ông hiểu thế nào là nghiệp? Nghiệp là sự chuyển động, là hành động.

K: Chừng nào còn ở trong vòng cương tỏa của nghiệp thì một người còn phải đương đầu với nghiệp và nghiệp có vẻ là cái gì có thật. Nhưng thật ra, không phải nó chỉ là một ảo tưởng hay sao?

M: Ta tìm cách kiềm giữ ông như thể ông đang ở trong dạ con. Nếu ông lắng nghe Ta chăm chú và im lặng, mọi chuyện sẽ bừng nở. Chúng ta đã nhận diện mình với hình tướng thân xác, đây là một sự ngớ ngẩn, một sự lầm lẫn chung.

K: Sự lầm lẫn cuối cùng?

M: Sự lầm lẫn đầu tiên và cũng là cuối cùng. Một lần nữa, hãy nhớ những lời Ta vừa nói. Mầm mống đã tạo nên thân xác này và mọi thứ khác, chừng nào mầm mống đó còn sống, còn ẩm ướt thì ông còn giải thích những lời lẽ này.

Một khi mầm mống đó không còn nữa thì ông chỉ ở trong sự vĩnh cửu, trong trạng thái vĩnh cửu của ông.

Từ hạt mầm nhỏ bé một cây đại thụ mọc ra, cao ngút trời. Tương tự như thế, mầm mống nhỏ bé này, sự hiện hữu này – sự xúc chạm của cái biết “Ta hiện hữu” – từ mầm mống này toàn thể thế giới hữu hình được tạo ra. Đến đây thì ngôn từ không còn năng lực, vì thế ông không thể diễn đạt hơn nữa bằng ngôn từ.

K: Cái ngã và thân xác của tôi, thân xác của những cái ngã khác trong phòng này, tất cả những gì chúng nghe được đều là khái niệm, là những chuyển động trong sự hiện hữu này. Có phải thế không?

M: Phải, nếu muốn rõ hơn, lấy trường hợp của giấc chiêm bao, giấc chiêm bao của ông. Vì Ta chỉ đề cập đến những khía cạnh cao siêu của cái biết, Ta không trả lời bất cứ câu hỏi thô thiển nào. Nếu có ai đó tranh luận hay đặt câu hỏi thì Ta sẽ không phản đối, vì đối với người đó – theo quan điểm và ở trình độ của họ – đó là những câu hỏi đúng.

Còn bây giờ, nếu phải để tâm đến một trạng thái nào đó, thì đó là trạng thái tám ngày trước khi nhập thai, trạng thái Parabrahman. Hôm qua từ ngữ cái “ngã” được dùng đến, và hôm nay cũng vậy. Cái “ngã” này gắn liền với trình độ nào, và khi nào?

Mọi thứ đều thiêng liêng nhất và cũng phàm tục nhất. Thiêng liêng và phàm tục chỉ có khi nào có sự hiện hữu. Nếu không có sự hiện hữu, đâu là thiêng liêng và phàm tục?

Ông gặp một số người và gọi họ là những thức giả uyên bác. Họ sẽ bảo ông rằng kiếp sau ông sẽ là một quân vương vĩ đại và kiếp sau đó ông còn là một quân vương vĩ đại hơn nữa. Khi được bảo cho biết như thế, người nghe rất vui mừng, rất mãn nguyện. Yêu quý chính mình là ảo tưởng căn bản nhưng không ai muốn nhìn nhận điều này.

Không ai muốn từ bỏ sự hiện hữu của mình, cái biết “Ta hiện hữu” của mình.

Giả sử câu hỏi sau đây được đặt với một vị thức giả: “Trước khi nhập thai, ông như thế nào?” Người đó có thể trả lời như sau: “Ta ở trong trạng thái tiềm tàng trong những phần tinh túy của cha mẹ ta”. Đó là cách mà một người thức giả trả lời. Tuy nhiên, nó vẫn dựa vào quan niệm quy ước, và nếu truy tìm xa hơn nữa đến tận cha mẹ của cha mẹ, vân vân, ông sẽ có một sự thụt lùi bất tận. Vì thế, nguyên lý vô hình tướng này chính là cái biết trong trạng thái tiềm ẩn, và nếu ông truy đến tận nguồn gốc thì nó trở về với sự vĩnh cửu.

Đó là lý do vì sao nguyên lý này là vĩnh cửu. Bây giờ, Ta cho hai gợi ý nữa để ông có thể tìm hiểu sâu xa hơn. Một: đặt ông vào trạng thái trước khi nhập thai, và hai: tự trói buộc ông trong quan niệm truyền thống về cha mẹ. Trong trường hợp sau, ông không thể nào nắm bắt được bản tánh đích thực của chính ông. Không thể hủy bỏ cái biết theo quy ước nhưng cái biết này không cần thiết, vì về cơ bản nó không thật, không đúng. Bất cứ gì một đứa trẻ không biết gì hay một vị thánh nhân đã giác ngộ nói ra đều đúng cả.

Ta cho ông một ý niệm khác: “Ai là nguyên lý toàn hảo hay kẻ đã có trước khi bất cứ thân xác nào được sinh ra?” Ở đây lại có sự tương đồng giữa một đứa bé còn trong nôi với một người giác ngộ hoàn toàn. Khi đứa trẻ nếm thức ăn, nó không hề biết đó là nước tiểu hay phân, thức ăn hay sữa, tất cả những thứ này đều có cùng một vị đối với nó. Làm sao đứa trẻ biết chính nó trong trạng thái như thế? Chỉ có nó biết. Sao, ông nghĩ gì về đứa trẻ và bậc giác ngộ?

K: Tôi tin rằng điều quan trọng để trở thành đứa trẻ là buông bỏ tất cả mọi ràng buộc.

M: Đâu là vấn đề buông bỏ, hay từ bỏ mọi thứ? Nó tự đến, ông chẳng cần quăng bỏ gì cả. Ông chỉ cần hiểu. Ông bắt buộc phải chịu đau khổ hay kinh nghiệm chỉ vì sự xuất hiện của hiện hữu. Ông có tìm bắt sự hiện hữu? Hay nó tự xảy đến. Đứa trẻ có nắm bắt cái gì không? Nó có nắm bắt một khái niệm, một ý tưởng hay một cái “ngã” nào không? Người giác ngộ đã hiểu trạng thái hiện hữu này cùng tất cả những trò đùa của nó, đã vượt ra khỏi nó và an trú trong trạng thái trước khi nhập thai. Người giác ngộ luôn luôn an trú trong trạng thái toàn hảo đó, mặc cho hiện hữu xuất hiện hay biến mất.

Suốt đời ông, ông đã đạt được rất nhiều thứ, ông có vô số diện mạo, rồi tất cả những diện mạo này và cái hiểu đó từ giã ông. Cuối cùng, ông sẽ chết đi với diện mạo nào? Nếu đã hiểu cái “ông” thực sự là, thì liệu có cần thiết theo đuổi tâm linh nữa không?

K: Trong thực tại thì không. Tôi tự hỏi vì sao tôi ở đây, lý do là gì? Tôi biết rất rõ trong tôi có vô minh. Tôi nghĩ lý do tôi đến đây là để được ông giúp đoạn trừ sự vô minh đó.

M: Vô minh của ông không còn nữa. Nào, hãy mô tả, ông muốn nói vô minh nghĩa là gì?

K: Mặc dù thấy rất nhiều điều nhưng tôi vẫn không nhận thức rõ về vô minh. Một đôi khi gặp vấn đề rắc rối, tôi nghĩ đó là vì sự vô minh của tôi.

M: Các trạng thái thức, ngủ, hiện hữu – kết hợp tất cả các kinh nghiệm này lại – chỉ là vô minh. Sự vô minh được gọi là “sinh ra” chính là ba trạng thái này. Một khi biết được điều này thì ông có thể làm bất cứ gì, ông hoàn toàn tự do. Khi biết rõ hư giả là hư giả thì lúc đó ông chẳng cần phải sùng kính. Mọi ý tưởng về người làm – có nghĩa những chuyện xảy ra là do ông làm – cũng không còn nữa.

Trước khi sự hiện hữu này xuất hiện, ông thuần túy là Parabrahman – cái Tuyệt Đối. Người giác ngộ không xem các trạng thái thức, ngủ và hiện hữu này là quan trọng. Cũng như ông không sợ con rắn bằng cao su, tương tự như thế người giác ngộ không quan tâm đến trạng thái thức và hiện hữu này.

K: Chúng không khác nhau hay sao?

M: Liệu ông có cần dùng đến cái biết này? Thấy và xác định các trạng thái đó là hư giả, có cần phải cố gắng?

K: Ông có thể nhìn thấy bất cứ gì mà chẳng cần cố gắng?

M: Một khi ông biết được vô minh thì lúc đó chẳng cần đến cố gắng vì ông đã xem các trạng thái thức, ngủ và hiện hữu như không biết (vô minh) thì không có sự ghi nhận nào về các trạng thái đó để nhắc đến sau này.

Ông đau khổ hay kinh nghiệm cái gì? Tên gọi của hình tướng thân xác này, những liên hệ của nó và sự hiện hữu kia. Nếu tư duy về những điều này thì ông sẽ có giải pháp tức thời.

K: Ông vừa nói về trạng thái nhập thai. Và ông cũng nói chúng ta ở trong trạng thái Parabrahman vĩnh cửu; thế còn nghiệp là gì, có phải nghiệp khác với trạng thái vĩnh cửu đó?

M: Không có nghiệp trong trạng thái Parabrahman. Đâu là câu hỏi về nghiệp?

K: Nhưng ông vừa nói về sự nhập thai, về thân tâm.

M: Ai đã nhập vào hình tướng thân tâm?

K: Tôi…? Chúng ta…?

M: Không gian vừa tràn vào căn phòng này, không gian ở ngoài kia. Tại sao và bằng cách nào không gian đã tràn vào căn phòng này?

K: Nguyên thủy không có không gian… thời gian?

M: Không gian ở bên ngoài căn phòng và không gian cũng ở trong này; không có sự khác biệt giữa không gian bên ngoài và không gian bên trong, tất cả chỉ là không gian! Đâu là câu hỏi đến và đi?

Ngày 8 tháng 1 năm 1980

❁ ❁ ❁

2. Sự xuất hiện của hiện hữu

Khách: Tôi cảm thấy giáo lý Thiên chúa giáo chỉ hướng dẫn từ thân-tâm đến ý thức nhưng không vượt ra ngoài.

Maharaj: Khi nói đến Christ, Krishna hay bất cứ đấng tiên tri nào khác thì phải hiểu rõ một điều. Khi các đấng ấy hiện thân thì chất liệu và công cụ cần cho tiến trình thị hiện chỉ là ngũ đại. Không những thế, sự hiện hữu xuất hiện từ các hình tướng hữu thân này còn là kết quả của những tương tác giữa năm đại. Sự hiện hữu thể hiện chính nó qua ba gunas và chỉ tồn tại chừng nào còn có tinh chất thực phẩm của ngũ đại. Và khi sự hiện hữu biến mất, các đấng cứu thế này không còn biết sự tồn tại của họ cũng như những gì họ đã làm trong trạng thái hữu thân.

Một người lần đầu tiên kinh nghiệm thế giới vào lúc nào và bằng cách nào? Kinh nghiệm này chỉ xảy ra sau khi sự hiện hữu xuất hiện từ thân xác được nuôi dưỡng bằng tinh chất thực phẩm của ngũ đại. Sự hiện hữu này cũng giống như một kính viễn vọng.

Một người quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao bằng kính viễn vọng này. Nhưng người quan sát thì không phải kính viễn vọng và phạm vi quan sát của nó. Tương tự như thế, sự chứng kiến thế giới ngũ đại hữu hình và vũ trụ xảy ra đối với cái Tuyệt Đối, hay nguyên lý vĩnh cửu Bất Sinh được gọi là Parabrahman. Nhưng cái Tuyệt Đối – Người Chứng Kiến – không phải là sự hiện hữu, tức phương tiện chứng kiến, và cũng không phải vũ trụ hữu hình bị chứng kiến. Bây giờ, câu hỏi là: Mười ngày trước khi nhập thai ông đã làm gì?

K: Chỉ quan sát.

M: Đây không phải là câu trả lời đúng. Ông phát biểu từ quan điểm nào? Ta muốn đặt ông vào vị trí của cái kính viễn vọng. Ta đưa ông xuống với tầm hiện hữu nhưng ông lạc đề. Ta đã nói gì với ông về kính viễn vọng? Hiện giờ, kính viễn vọng đó là cái gì? Nó được tạo ra bởi một cái gì đó; nó đã xuất hiện từ một cái gì đó. Thay vì tập trung vào điểm này, ông lảm nhảm hết chuyện này sang chuyện khác và tự cho mình là người hiểu biết. Có phải ông kinh nghiệm và quan sát thế giới bằng cái kính viễn vọng đó không?

Nhưng ông, cái Tuyệt Đối, không phải cái kính viễn vọng. Có đúng thế không? Thay vì ở yên tại điểm này, trong sự hiện hữu, ông lăng xăng nhảy hết chỗ này sang chỗ khác, xa rời địa điểm đứng của ông. Thế thì làm sao ông có thể đạt được sự an ổn.

K: Đó là tất cả tên gọi và trò đùa của cuộc sống.

M: Với thái độ hiện nay của ông thì vô lượng cái biết cũng không thể đem lại cho ông sự an lạc. Sự hiện hữu được gán cho vô số danh xưng và tước hiệu. Phải mất đến chín tháng để tạo ra cái kính viễn vọng này từ ngũ đại. Có bao giờ ông tư duy về điều này không? Qua kính viễn vọng đó mọi thứ được kinh nghiệm và được nhìn thấy, nhưng Người Quan Sát thì không phải kính viễn vọng.

K: Đấng Krishna từng nói, chưa hề có lúc nào mà không có Ta…

M: Qua kính viễn vọng, tức sự hiện hữu, hay chỉ là biểu hiện của Người Quan Sát, Người Quan Sát chứng kiến thế giới hữu hình. Nhưng liệu ông có nghĩ rằng Người Quan Sát cũng biến mất khi kính viễn vọng và phạm vi quan sát của nó không còn?

Để nói một vật thể tồn tại phải có hai điều kiện: Điều kiện thứ nhất là vật thể, và điều kiện kia là người quan sát vật thể, tức người nói “có vật thể”. Đặc tính đầu tiên của sự hiện hữu là ý thức về cái biết “Ta hiện hữu”. Sau đó vô số đặc tính khác sinh khởi.

Nhưng Người Quan Sát – Cái Tuyệt Đối – hoàn toàn không có đặc tính, vì thế được gọi là “nirguna”, có nghĩa là “phi tính cách”, “phi thuộc tính” vân vân.

K: Ông đồng ý rằng Đấng Krishna không thể phát biểu bất cứ gì khi ngài không ở trong hình tướng thân xác, vì không có người phát biểu.

M: Hẳn nhiên, vì Krishna – trong trạng thái Tuyệt Đối – không có phương tiện nào để phát biểu… và phát biểu cho ai? Một khi nhận ra rằng tất cả những gì đang diễn ra chỉ là sản phẩm và vở kịch của ngũ đại trong cõi giới hiện hữu thì ông không còn bị tác động bởi những gì trong cõi giới hiện hữu và ông xa lìa nó.

Ta chỉ chú ý đến phương tiện mà nhờ đó Ta biết “Ta hiện hữu” và qua đó Ta kinh nghiệm thế giới. Ta chẳng cần biết đến các quyền lực siêu nhiên (siddhi) và bất cứ gì xuất hiện. Câu hỏi quan trọng duy nhất là: Phương tiện này đã tình cờ mà có như thế nào?

Nhiều người đến đây với mớ kiến thức thu thập được và mong đợi Ta nhận xét về kiến thức của họ. Làm sao Ta có thể? Họ đã bị chính mớ kiến thức đó ngăn che. Vậy cứ để họ tự tháo gỡ lấy.

Người chết không can thiệp vào việc của người sống. Tương tự như thế, người đã hiểu và biết rõ sự hiện hữu thì không còn quan tâm đến các hành hoạt và những gì xảy ra trong cõi giới hiện hữu.

Ở đây chúng ta nói về cái biết vượt ra ngoài sự hiện hữu. Nhưng, trên thế giới này ai là kẻ thực sự quan tâm đến cái biết thâm sâu như thế?

Mong muốn nghe thuyết giảng về cái biết thâm sâu này là một đặc ân lớn. Nhiều người chẳng thèm nghe dù cho họ có cơ hội.

K: Có giai thoại về một Thiền sư như sau: Khi đệ tử đến viếng, Thiền sư quát lớn:

“Tại sao mi đến? Mi chưa chết sao?” Đạo sư Ramana Maharshi cũng bảo cái tâm phải bị giết chết hoàn toàn.

M: Cứ việc tuôn ra tất cả những phiếm luận, khái niệm và ngôn từ của ông! Xét cho cùng, tâm là gì? Nó chỉ là một tiếng ồn diễn ra ở bên trong.

Cùng với lúc thức dậy, sự huyên thuyên bắt đầu rồi sau đó cuộc hội thoại kéo dài bất tận. Đó là tâm ông và ông chạy theo nó. Hơi thở của ông chính là cuộc hội thoại này. Nếu ngừng thở thì không thể có hội thoại.

K: Hồi tưởng về vấn đề này, tôi nhận thấy tình yêu và chân lý là một, và tôi cũng hiểu rằng sự giác ngộ tình yêu hoàn toàn ở ngoài tâm.

M: Tất cả những hí luận này đều thuộc bình diện của tâm. Ta không nói từ vị thế cá nhân, mà từ bình diện của toàn thể sự thị hiện. Một cá nhân hiểu về mình qua những khái niệm nào đó và do đó trải qua những lạc thú và đau khổ tương ứng. Nhưng trong hiện thức thì không phải thế. Tâm – tức cái diễn giải hạnh phúc và bất hạnh – là để điều hành mọi chuyện trong thế giới.

K: Các nghi thức thờ cúng – chẳng hạn như múa đèn, tức là “arati” và hát thánh ca

“bhajans” – là cần thiết để duy trì nhiệt tình của chúng ta đối với Thượng Đế và ngăn ngừa sự nhàm chán.

M: Theo ông hiểu, “arati” nghĩa là gì?

K: Tình yêu đặc biệt.

M: Trong tiếng Marathi “arati” có nghĩa là “sự cần thiết đặc biệt”. Sự cần thiết đặc biệt này là tình yêu mà mỗi sinh vật có cho chính mình. Chính lòng yêu thích được hiện hữu đã thúc đẩy mọi sinh vật tiến hành các sinh hoạt trong thế giới; nó là bản tính bẩm sinh của tất cả chúng sinh. Chính vì sự nhận diện của mỗi loài với đồng chủng nên ý tưởng về “sự khác biệt” sinh khởi, và cũng chính “sự khác biệt” này là nguồn gốc của lạc thú và đau khổ. Yêu thích được hiện hữu là yêu quý chính mình. Ai mà không yêu quý chính mình? Chính tình yêu này được gọi là “atma-prem” tức “Tình yêu cái Ta”.

Vì con người xem mình là một cá nhân nên nhận chịu đau khổ và lạc thú; chỉ trong trạng thái của ý thức [thuần túy] mới không có hạnh phúc và bất hạnh – hạnh phúc và bất hạnh chỉ được kinh nghiệm ở bình diện thân-tâm. Ta đã vượt ra ngoài trạng thái thân-tâm, tức trạng thái cá nhân này – và Ta đang nói với ông từ ý thức năng động thị hiện. Ngay cả ý niệm về “tốt” hay “xấu” xảy ra, hoàn toàn được gột sạch khỏi Ta. Không những thế, Ta chẳng có khái niệm nào về sống và chết. Tình trạng thể lực của Ta rất yếu. Bất cứ ai khác trong tình trạng như thế này đều không thể gượng dậy được.

Hoàn toàn mất đi sự hãnh diện về tính cách cá nhân là trạng thái “nirvana” của Ta, tức trạng thái vô diện mạo. Ông thực hiện mọi sinh hoạt trần tục và tâm linh của ông với một diện mạo. Chừng nào tính cách cá nhân còn đó thì ông còn bị phiền nhiễu bởi lạc thú và đau khổ, quá khứ và tương lai, sinh và tử, vân vân. Có bao giờ ông tư duy về những điều này? Ai hỏi ông câu hỏi này? Ta – ý thức thị hiện, năng động, và vô hình tướng – đang hỏi ông.

Vì sao ông chịu đau khổ? Ông đã tự dồn ép mình vào một hình tướng và một diện mạo nên ông đau khổ. Ông theo đuổi tâm linh từ cùng một vị thế hữu hạn và bị điều kiện hóa cho nên ông không tìm được chỗ đứng nào trong sự theo đuổi này. Trong bất cứ chủ đề nào mà ông bị thu hút, ông đều hành sử từ vị thế của một thực thể đã bị cá nhân hóa, mà không phải là ý thức thị hiện năng động. Cái biết “có mình” thì thị hiện, bao trùm và xuyên suốt tất cả. Nó tinh khiết và vi tế hơn cả ánh sáng nên vì thế nó biết được ánh sáng.

Vì vẫn còn bám víu vào ký ức cá nhân, nên ông không thể tiếp thu cái biết này và do đó ông bất an.

Có rất nhiều người hành “hatha-yoga”, có rất nhiều người trì tụng các danh hiệu linh thiêng (hành sùng tín) và có rất nhiều người hành khổ hạnh. Cứ xét theo bề ngoài thì nhiều người trong số họ đang theo đuổi con đường tâm linh. Nhưng họ thỏa mãn với sự chứng đắc những quyền lực siêu nhiên để theo đuổi các phép lạ. Họ không thể tinh tấn trên con đường tìm kiếm cái biết tâm linh đích thực, họ hãnh diện về các pháp môn chuyên biệt của họ, về những quyền lực mà họ chứng đắc và tính cách cá nhân của họ.

Đó hoàn toàn không phải cái biết tâm linh. Một người công chức hoặc là bằng lòng với đồng lương ít ỏi hoặc là xin thôi việc. Tương tự như thế, một người giác ngộ hoặc là bằng lòng với ba trạng thái thức, ngủ sâu và biết hoặc là từ bỏ chúng. Là người giác ngộ, Ta đang kể cho ông về Ta. Sự thay phiên giữa trạng thái ngủ sâu và thức này có ích lợi gì cho Ta? Ta không muốn chúng. Vũ trụ có thể nhận thức được này thì vô hạn và vô biên.

Nhưng duy trì nó Ta được cái gì?

Vì an trú trong sự toàn hảo nên người giác ngộ chẳng cần chứng đắc bất cứ gì. Tuy nhiên, người tìm kiếm tâm linh hưởng được hàng triệu lần lợi lạc chỉ bằng cách ghi nhớ và chuyên chú vào cuộc đời của một thánh nhân, tiềm năng của cuộc sống đó vô cùng vĩ đại. Người thường không thể thấy được dù chỉ thoáng qua, hay có được khái niệm dù chỉ mơ hồ về trạng thái Tuyệt Đối của bậc giác ngộ. Người thường đành phải thỏa mãn với cung cách và sự thể hiện qua thân xác của bậc giác ngộ, được xem như bằng chứng về sự hiện hữu của vị ấy. Tuy nhiên, bậc giác ngộ không phải sự thể hiện qua thân xác mà cũng không phải sự hiện hữu.

Để ví dụ, một sĩ quan mặc quân phục với tất cả quân hàm và phù hiệu để chứng tỏ cấp bậc của mình. Tất cả những yếu tố đó tạo thành người sĩ quan, nhưng bộ quân phục cùng với quân hàm và phù hiệu thì không phải người sĩ quan. Như vậy, thân xác ông – một cái túi chứa thực phẩm – không phải là ông, nhưng cái nguyên lý “cái biết có mình” nội trú trong thân xác, căn bản mới là “ông”.

Ông không thể từ bỏ sự nhận diện ông với thân xác. Đây là một ảo ảnh vĩ đại. Do đó, ông không thể tiếp thu những gì Ta nói.

K: Làm sao bậc giác ngộ biết mình giác ngộ?

M: Khi người ấy nhận ra cái biết của chính mình, tức là ý thức “Ta hiện hữu”.

Ngay đây và bây giờ ông đang ở trong trạng thái giác ngộ. Nhưng ông tìm cách phán xét nó qua những ước muốn và khái niệm của tâm, vì thế ông không thể nhận ra nó và an trú trong nó.

Trong trạng thái giác ngộ không có sự cần cầu nào, ngay cả sự cần biết chính mình. Ông bị ràng buộc vào các cảm quan của thân xác. Vì thế, dù có thọ đến trăm tuổi ông vẫn còn khao khát sống thêm.

K: Này ông, ông không cảm thấy tội nghiệp và ái ngại cho những kẻ vô minh đi tìm chân lý như chúng tôi đến gặp ông hay sao?

M: Tại sao Ta lại phải tội nghiệp cho họ? Ta chính là mặt trời của tánh biết và nhìn xuống mọi người y như thế.

K: Cái gì là sự quan trọng của khoa chiêm tinh, cùng với các tinh tú, điều may và vận rủi?

M: Mọi thứ đều quan trọng vào đúng chỗ thích hợp của nó. Người nào chưa nhận ra diện mạo đích thực của mình thì lẽ tự nhiên chạy theo “tính cách quan trọng” của khoa chiêm tinh, các tinh tú và vận may, vân vân. Nhưng đối với người đã an trụ trong Cái Ta thì chẳng còn gì quan trọng và có ý nghĩa nữa. Một người như thế không còn bận tâm đến bất cứ gì.

K: Trạng thái Tuyệt Đối được cho là vĩnh cửu. Vậy làm sao từ một trạng thái vĩnh cửu như thế, một trạng thái vô thường và nhất thời như hiện hữu lại sinh khởi?

M: Để một trạng thái nhất thời như thế xuất hiện thì phải có một nguyên nhân.

Chẳng hạn như có hai người bạn thân, rất hòa hợp với nhau nhưng đột nhiên họ bắt đầu cãi vã. Phải có một nguyên nhân nào đó: Một sự va chạm nào đó, một sự hiểu lầm nào đó. Tương tự như thế, phải có một nguyên nhân nào đó làm cho ngũ đại và vũ trụ thị hiện xuất hiện từ trạng thái Tuyệt Đối. Nguyên nhân đầu tiên này ở ngoài mọi sự giải thích.

Cũng như hai người bạn xa nhau vì những bất đồng và va chạm giữa họ thì những yếu tố đầu tiên – không gian, không khí, lửa, nước và đất – được hình thành từ cái Tối Thượng, do sự va chạm và tác động lẫn nhau. Khi diễn tiến này tiếp tục thì nhiều hình thể khác nhau được tạo ra thành thế giới thực vật và động vật.

Trong thế giới thực vật – gọi là “vanaspati” – chúng ta thấy lùm bụi, các loài thảo, mộc, vân vân, là những thứ mọc lên ở một chỗ và không di chuyển được. Giai đoạn tiếp theo của sự tiến hóa được gọi là “vachaspati”, thế giới động vật gồm các loại vi trùng, côn trùng, thú vật và con người. Các chủng loại này có đặc quyền di chuyển và truyền thông với nhau.

Về mặt sinh học, con người là thú vật nhưng thuộc chủng loại siêu đẳng gọi là “brihaspati”. Nhờ nguyên lý cư trú nội thân đã tiến hóa cao, tức ý thức, con người có thể đạt được trí tuệ một cách trực giác và siêu vượt chính mình để nhập vào Cái Tối Thượng.

Trong suốt tiến trình này, ý thức con người – lúc đầu bị điều kiện hóa theo thân tâm – phát triển thành ý thức vũ trụ, biện minh một cách hùng hồn cho danh hiệu “brihaspati”, có nghĩa là “Chúa Tể của Thái cực Vô biên” tức nguyên lý bao trùm và xuyên suốt tất cả. Tối hậu, ý thức vũ trụ nhập vào cái Tuyệt Đối.

K: Khi hơi thở của sự sống lìa thân xác, có sự đau đớn vật lý nào không?

M: Người nào bị ràng buộc với các khái niệm thì sẽ đau đớn vào lúc lâm tử. Sự đau đớn gia tăng cường độ tương ứng với ý nghĩa của các khái niệm mà người đó bám víu vào. Người nào đã dâng hiến mình cho Thượng Đế và không còn khái niệm sẽ chết một cách hạnh phúc và bình yên như trải qua một giấc ngủ. Khi đi vào giấc ngủ ông có đau đớn không?

Thi sĩ thánh nhân Tukaram có nói trong một bài thơ của ông rằng các loài thực vật là họ hàng thân thích của loài người, chúng còn là tổ tiên của loài người. Làm sao có thể khác đi được khi tinh chất của thực vật chính là sự cần thiết tuyệt đối để tạo thành thế giới động vật, tức chủng loại “vachaspati”, và chủng loại “brihaspati” hay nhân loại?

Chư thiên trên các cõi trời đều phải khoác lấy hình tướng của loài người khi thị hiện trên trái đất, và thân thể của họ phải được bảo dưỡng bằng tinh chất thực vật. Để đạt đến trạng thái thiêng liêng, một vị phải có thân xác con người và ý thức.

Để an trú trong trạng thái tối thượng ông không phải làm gì khác ngoài việc chuyên chú lắng nghe các pháp thoại này, sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra một cách đúng đắn, đem lại lợi lạc cho tiến bộ tâm linh của ông.

Ta đã nói cho ông biết về sự hiện hữu, nó là hậu quả sự vận hành của ngũ đại và cũng là kết quả của thân xác tinh chất thực phẩm. Nhưng “Ông” – cái Tuyệt Đối – không phải thân xác, và thậm chí cũng không phải sự hiện hữu trú ngụ trong thân xác đó. Vậy thì tại sao ông lại lo sợ về sự ra đi của thân xác?

K: Vì được sinh ra nên chúng ta sẽ chết đi…

M: Người giác ngộ bất sinh và bất tử. Nhưng khi thân xác của người giác ngộ chết đi, người thân khóc than thương tiếc vì họ nhận diện họ với thân xác. Họ cho rằng người giác ngộ cũng là con người có thân, nhưng thật ra không phải thế.

K: Làm sao một người giác ngộ – an trú trong trạng thái “không biết” lại có thể liên lạc với chúng tôi?

M: Người giác ngộ được gọi như thế vì sở hữu “jnana” – tức sự hiện hữu – được duy trì bởi thân xác. Dù sở hữu “jnana”, người giác ngộ vẫn ở trong trạng thái “không biết”, tức trạng thái Tuyệt Đối. Sự hiện hữu và thân xác là phương tiện liên lạc của người giác ngộ. Nhưng người giác ngộ không phải là ngôn ngữ được thể hiện cho sự liên lạc.

Ông cũng có thể ở trong trạng thái của người giác ngộ nếu ông lùi lại và an trú trong trạng thái trước khi ngôn từ sinh khởi trong ông. Trạng thái này được phát hiện ở ranh giới giữa trạng thái ngủ sâu và trạng thái thức, có nghĩa là ngay vào lúc bắt đầu có sự xuất hiện của ý thức.

Trạng thái này được gọi là “para-shakti” hay “para-vani”, tức nguồn gốc của ngôn từ hay ngôn ngữ. Từ nguồn gốc này, tức giai đoạn đầu tiên, cho đến lúc cuối cùng thoát ra khỏi miệng để truyền đạt, ngôn ngữ phải trải qua ba giai đoạn nữa – tức là bốn giai đoạn tất cả. Giai đoạn thứ nhì là “pashyanti”, có nghĩa là giai đoạn phôi thai, trong đó sự

hình thành mơ hồ của ngôn ngữ bắt đầu. Giai đoạn thứ ba là “madhyama”, hay giai đoạn giữa, sự hình thành ngôn ngữ một cách rõ rệt diễn ra trong phạm vi của tâm. Giai đoạn thứ tư “vaikhari” và cũng là giai đoạn cuối cùng, hơi thở làm cho ngôn ngữ từ miệng bật ra tiếng thành sự diễn tả bằng lời.

“Para-vani” là hình thức vi tế nhất của ngôn ngữ. Từ ngữ này còn có một ý nghĩa sâu xa. “Para” có nghĩa là “khác”, biểu thị sự tách biệt với trạng thái Tuyệt Đối, nhưng kề cận với trạng thái Tuyệt Đối nhất.

Người giác ngộ hay Đấng Krishna bảo: “Ta không phải para-vani” vì các vị ấy an trú trong trạng thái Tối Thượng. Khi Ta nói đến Krishna thì đừng cho đó là một nhân vật; Krishna là cái Tuyệt Đối.

Một người có cảm tưởng mình “đã hiểu” khi một khái niệm, hay tước hiệu hoặc danh xưng như “Krishna” được đề cập đến, nhưng không phải thế. Một người phải Krishna để thực sự hiểu Krishna.

“Para-vani” không phải ngôn ngữ của cái Tuyệt Đối, vì nó vẫn là sản phẩm của sự hiện hữu. Sau khi trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, cuối cùng nó thể hiện một khái niệm bằng lời nói – mà khi chúng ta chấp nhận – liền chiếm hữu chúng ta. Trong tiến trình này chúng ta hoàn toàn nhận diện với khái niệm và đánh mất diện mạo đích thực của chính mình.

K: Có lần trong khi thiền quán, tôi an trụ trong trạng thái “para-vani” trước khi tâm sinh khởi, và thấy các hình ảnh của quá khứ và tương lai.

M: Trong trạng thái “para-vani”, một người đạt được các năng lực siêu nhiên và có thể thấy quá khứ và tương lai. Trạng thái này cũng đưa đến sự đánh thức năng lượng “kundalini”.

Ngày 9 tháng 1 năm 1980

❁ ❁ ❁

3. Thời gian là đứa con của một phụ nữ vô sinh sản

Khách: Đau đớn vật lý và đau khổ tâm lý khác nhau như thế nào?

Maharaj: Khi có bất ổn trong thân xác thì có đau đớn vật lý; còn khi có bất an do ý nghĩ hay khái niệm gây ra thì có đau khổ tâm lý. Ông có biết những điều này đã sinh khởi vào lúc nào không?

K: Tôi không biết.

M: Nó tự xảy ra và ở bên trong. Nhưng ngày đầu tiên của đời sống đã được ghi nhận như thế nào và vào lúc nào?

K: Từ chết sự sống xảy ra; trước đó không có ý thức.

M: Cái gọi là sự sống này được gán cho cái gì? Hãy tìm hiểu điều này, cái gì thực sự được sinh ra?

K: Một khái niệm được sinh ra.

M: Cho dù nói rằng một khái niệm được sinh ra thì cũng không hoàn toàn đúng. Chuyện gì đã thực sự xảy ra?

K: Thời gian và không gian xuất hiện.

M: Ông phải hành “dhyana-yoga” thâm sâu thì mới có thể tìm ra câu trả lời đúng. Có nhiều trường phái “Upanishad” và nhiều pháp môn “yoga” như “hatha-yoga”, “Patanjali yoga” vân vân. Nhưng Ta chỉ biết “atma-yoga” – có nghĩa là “biết cái Ta” – ngoài ra Ta chẳng biết gì khác. Từ một đống bột mì chung, nhiều món ăn được làm ra bằng nhiều cách khác nhau.

Tương tự như thế có nhiều pháp môn tâm linh khác nhau. Ta không quan tâm đến việc nhấp nháp các món mỹ vị khác nhau – tức các pháp môn – mà chỉ chú trọng đến món chính, tức Nguồn Gốc tiên nguyên của mọi sự hiện hữu.

Vì sao trạng thái hiện hữu của Ta, sự tồn tại của Ta cùng toàn thể sự thị hiện đã sinh khởi, sinh khởi như thế nào và từ cái gì? Trong nguồn gốc tiên nguyên đó không hề có cảm nhận về sự hiện diện của Ta. Trạng thái hiện hữu đã làm cho sự phân biệt (nhị nguyên) xảy ra với nguồn gốc tối hậu đó như thế nào?

Các trường phái “Upanishad” và các pháp môn yoga chỉ là những khái niệm tưởng tượng. Ta không tham dự vào các trường phái và pháp môn này. Ta chỉ tìm hiểu về “phi hiện hữu” và hiện hữu của Ta, vì sao các trạng thái này đã sinh khởi, và sinh khởi như thế nào.

K: “Tôi được sinh ra” tự nó là…

M: Nhưng đó chỉ là một khái niệm được ông chấp nhận. Nó chỉ là một cái gì được nghe nói.

K: Cứ mỗi khoảnh khắc chúng ta lại được sinh ra.

M: Đúng, cứ mỗi khoảnh khắc sự sống xảy ra. Nhưng chất liệu được sinh ra đó là gì?

K: Có thể là bất cứ gì?

M: Hiện hữu xuất hiện trên “phi hiện hữu”; và trong hiện hữu hàng ngàn sự sinh ra và các hình thức của sự sống được tạo thành chỉ trong khoảnh khắc.

K: Nhưng nền tảng của tất cả những thứ đó chỉ là “không”.

M: Phải có người biết cái “không” này, và người biết cũng là “không”! Trong “phi hiện hữu” làm sao điều này có thể được nói ra, và ai là người nói ra? Trong trạng thái “phi hiện hữu” – gọi là “nirvishaya” – không có chủ thể và cũng không có khách thể. Còn trong trạng thái hiện hữu, cả chủ thể lẫn khách thể đều có, vì thế được gọi là “savishaya”.

Ông có biết “Patanjali yoga” chuyên về nhị nguyên? Ông có nghiên cứu pháp môn “yoga” này? Có phải “Patanjali yoga” chuyên về “ràng buộc” và “tháo gỡ”?

K: Tôi có đọc sơ qua. “Patanjali yoga” chuyên về nhị nguyên.

M: Patanjali tạo ra nhị nguyên từ cái gì? Khi tạo ra nhị nguyên, ông ta đã phân chia cái gì? Bất cứ gì Patanjali phân chia, không phải nó đều ở trong cõi giới của hiện hữu – trong phạm trù của chủ thể khách thể hay sao?

K: Ngay khi một người tìm cách phân chia cái gì đó thì nó trở thành “khách thể”.

M: Nhưng nguyên lý tối thượng có trước phạm trù chủ thể, khách thể. Ta muốn biết ông phân chia trạng thái đó bằng cách nào? Trên trạng thái “phi hiện hữu”, hiện hữu xuất hiện cùng với sự thị hiện, tạo ra một cảm thọ như thể “Ta hiện hữu”. Người [hiện hữu] đó là ai thì không quan trọng; chỉ “Ta hiện hữu” mới quan trọng.

Chúng ta vừa nói về nhị nguyên. Liệu trạng thái nhị nguyên này bắt đầu cùng với sự xuất hiện của hiện hữu trên “phi hiện hữu”, hay nó triển khai sau này? Điều này rất đơn giản. Khi sự hiện hữu – có nghĩa là cái biết “Ta hiện hữu” – được cảm nhận thì rõ ràng là Đặc Tính cũng bắt đầu (Có nghĩa là cái biết về các thuộc tính và tính chất vừa mới hình thành trong ký ức). Sau đó, sự hiện hữu thị hiện thành nhiều, hoạt động qua vô số hình tướng. Tiếng rầm rì đầu tiên của sự hiện hữu: “Ta hiện hữu, Ta hiện hữu” là nhị nguyên. Nhưng ai là người chấp nhận tính cách nhị nguyên này? “Phi hiện hữu” chấp nhận tính cách nhị nguyên cùng với hiện hữu. Trạng thái Tuyệt Đối “phi hiện hữu” – bằng sự nhận lấy trạng thái hiện hữu – trở thành nhị nguyên trong sự thị hiện.

Ngôn từ tạo ra nhị nguyên giữa chúng ta. Hai người cùng ngồi trong im lặng và như vậy không có lời qua tiếng lại. Nhưng ngay khi họ bắt đầu đối thoại thì cũng là lúc nhị nguyên sinh khởi.

Khi trạng thái “phi hiện hữu” thể hiện tính khách thể qua trạng thái hiện hữu (Thế giới là “những khách thể”, có nghĩa là sự thị hiện), thì trạng thái này được gọi là ảo ảnh (maya), hay còn gọi là phương diện nữ, còn trạng thái “phi hiện hữu” được gọi là phương diện nam. Vì thế, hoạt động của vũ trụ thị hiện được gọi là sự vận hành của “prakriti” và “purusha” – tức là sự vận hành của các phương diện nam và nữ.

K: Tôi đã thử theo một con đường mà qua đó sự hiện hữu này có thể kinh nghiệm cái “phi hiện hữu”, tức là cái thị hiện kinh nghiệm cái Bất Thị Hiện. Chúng tôi phải hiểu tính cách bất khả của điều này ngay từ lúc khởi đầu.

M: Ta vẫn thường nói với ông như thế. Ông cần phải thực hành sâu xa thiền quán.

Hiện hữu phải hoàn toàn nhập vào trạng thái “phi hiện hữu”. Hàng ngày Ta giải trừ các bức xúc và căng thẳng khi đi vào giấc ngủ sâu. Bằng cách này, Ta quên mất chính mình, trải qua sự quên lãng và nghỉ ngơi. Như thế, hiện hữu biến mất vào “phi hiện hữu”.

Khi thực hành “dhyana-yoga” một cách đúng đắn, hiện hữu dần dần tan biến vào “phi hiện hữu”. Trong trạng thái trung gian giữa giấc ngủ sâu và thức, một cảnh tượng chiêm bao tự diễn ra. Tương tự như thế, trong thiền định thâm sâu tất cả trí tuệ cần thiết hiển lộ cho ông biết. Sau khi đã hiểu tất cả những điều này và nhận ra rằng thế giới hữu hình là không thật, liệu ông vẫn còn cho mình là một con người? Trạng thái hiện hữu là trạng thái thị hiện. Nó không có tính cách cá nhân, nó được tạo thành bởi ngũ đại, ba thuộc tính gunas, và nguyên lý nam nữ “prakriti-purusha”. Sau này hiện hữu sẽ nhập vào “phi hiện hữu”.

Đó là lý do vì sao Ta nói con đường của Ta là “Atma-yoga”, tức là an trú trong Cái Ta. Khi trạng thái “phi hiện hữu” trở thành hiện hữu, thế giới cùng với vạn vật xuất hiện. Theo sự chỉ giáo của Tôn sư, Ta đã trở thành một với hiện hữu. Hiện hữu có nghĩa là có cái thấy biết rằng mình là toàn thể vũ trụ năng động. Khi đã vượt ra ngoài tính cách cá nhân, một người chỉ là sự hiện hữu thị hiện. Trong tiến trình này, cái Bất Thị Hiện tự hiển lộ.

K: Điều Maharaj gọi là thiền có nghĩa là an trụ trong trạng thái hiện hữu.

M: Không có người tạo tác và cũng chẳng có ai đã tạo ra Ta.

K: Người tạo tác có sẵn trong sự thị hiện. Trước tiên, chúng ta cần ý thức về sự hiện hữu rồi mới trở thành người tạo tác.

M: Sự tạo tác xảy ra do tâm và những khái niệm của người đó. Do tiếng rầm rì trong tâm mà thế giới của một người được tạo dựng. Cho dù ngay cả khi một mình, tiếng rầm rì và huyên thuyên của tâm vẫn tiếp diễn.

K: Và cả tâm cũng được tạo ra.

M: Phải. Nhưng vào khi nào? Khi “phi hiện hữu” trở thành hiện hữu thì lúc đó tâm mới xuất hiện và hoạt động. Chỉ người hy hữu, một trong hàng triệu người, mới hiểu đúng những gì Ta muốn nói.

K: Khi hiểu được điều ông muốn nói thì “con người” không còn nữa.

M: Không có vấn đề “của người” hay “của ta”. Trong đại dương bao la thuộc sự thị hiện của Ta, hàng triệu người như ông đang trôi giạt khắp nơi như những con sóng và gợn sóng.

K: Ngoại trừ đạo sư, tất cả mọi người đều là những gợn sóng.

M: Nhưng đạo sư là gì? Có phải đạo sư là một thân xác sống bằng mẩu bánh mì?

K: Đó lại là một từ ngữ khác để gọi cái bất khả diễn tả. Thầy của tôi bảo rằng tôi, một cá nhân, trước tiên phải chấp nhận một đạo sư, rồi đạo sư sẽ đưa tôi đến cái thị hiện và sau đó là cái Bất Thị Hiện.

M: Nhưng đạo sư là trạng thái thị hiện. Nếu chấp nhận tính cách cá nhân thì ông không thể tinh tấn. Ông phải nhận diện với toàn thể sự thị hiện ngay từ khoảnh khắc đầu tiên bắt đầu một ngày. Ánh sáng của sự quang minh tràn khắp nơi. Bằng cách đồng nhất với sự thị hiện, ông bao trùm và xuyên suốt tất cả. Trái lại, nếu còn bám víu với một thực thể cá nhân thì ông không thể tinh tấn. Vì chết là điều bất khả tránh, vậy thì tại sao Ta lại không tuân theo sự chỉ giáo của Tôn sư? Bằng cách tuân theo sự chỉ giáo của Tôn sư một cách tuyệt đối thì cái thị hiện trở thành bất thị hiện một cách tự nhiên, không cần đến cố gắng, và hiện hữu nhập vào “phi hiện hữu”. Bất thị hiện có nghĩa là hoàn toàn tĩnh lặng và an nghỉ; lúc đó không còn sinh và tử, không còn đến và đi.

Mọi sinh hoạt thế gian không thể xảy ra nếu không có tiếng rầm rì của hiện hữu. Tính cách cá nhân và sự thị hiện là kết quả của “phi hiện hữu” trở thành hiện hữu, giống như đánh thức một người từ giấc ngủ sâu. Con người trong giấc ngủ sâu và con người hoàn toàn tỉnh thức không hai và không khác. Người ngủ cũng là người thức giấc.

K: Trạng thái thức là một từ ngữ khác để gọi thế giới.

M: Thức có nghĩa là toàn thể thế giới thị hiện.

K: Khi được đánh thức, một người luôn luôn trở lại với nhị nguyên.

M: Vì Ta nói với ông nên ông mới tiếp tục nói với Ta. Nếu biết bất cứ ai thành khẩn, đem kẻ đó đến đây.

K: Rất hiếm khi tôi bảo ai đến đây; chỉ một đôi lần tôi đã làm như thế.

M: Ta thích những người thành khẩn muốn hiểu. Ta đuổi thẳng bất cứ ai tranh luận chỉ vì thích lý sự.

Ta luôn luôn an trú trong cái Bất Thị Hiện. Nhưng bất cứ gì xảy ra đều do quyền lực của “yogamaya”, [hay] sự hiện hữu, và cũng là trạng thái thị hiện.

Một nhà thơ Marathi vĩ đại đã đề cập đến trạng thái Bất Thị Hiện trong các bài thơ của ông, và nói lên điều sau: “Thử nghĩ đến người phụ nữ vô sinh sản, chẳng có ai đụng đến nhưng vẫn thụ thai và đẻ ra một đứa trẻ”. Cũng như thế, “yogamaya” đã đẻ ra thế giới hữu hình. Điều này có nghĩa là, sự hiện hữu – tức là kết quả của thân xác được nuôi dưỡng bằng tinh chất thực phẩm – đã phóng chiếu ra sự thị hiện này, và đó là hình ảnh Tôn sư của Ta. Cái Bất Thị Hiện và cái thị hiện, tức “yogamaya”, không bao giờ ở chung với nhau.

K: Có một người đã dịch cuốn I AM THAT (TA LÀ CÁI ĐÓ) sang một ngoại ngữ, ông ta muốn đặt cho nó cái tựa Tat-Tvam-Asi.

M: Ta không thích như thế. Hoặc là giữ cái tựa I AM THAT (TA LÀ CÁI ĐÓ) còn không thì thôi.

K: Nhưng ông Maurice Frydman (Người dịch cuốn I AM THAT từ tiếng Marathi sang tiếng Anh) đã đồng ý.

M: Ta không đồng ý. Và cũng đừng làm biến chất nội dung của cuốn sách bằng cái hiểu của ông, dù ông có tự cho mình là bậc giác ngộ. Cứ làm đúng như Frydman đã làm; bản gốc là bản chính xác phải được dịch theo mà không được sửa đổi.

K: Sau khi thiền quán, bây giờ tôi nhận ra yếu chỉ giáo pháp của ông là ở trong I AM THAT (TA LÀ CÁI ĐÓ).

M: Nếu ông muốn nhận ra ý nghĩa của I AM THAT, hãy nhập sâu vào thiền định, nhưng “ông”, cái thị hiện, phải nhập vào “Ông”, cái Bất Thị Hiện. Đó là ý nghĩa tối hậu.

Bất cứ kinh nghiệm nào Ta có về thế giới và Thượng Đế đều không do ân đức hay sự gia ơn của Thượng Đế mà hoàn toàn do Ta, do trạng thái của Ta. Nếu không có Ta, thì Ta không thể kinh nghiệm. Ta đã hiện hành và luôn luôn hiện hành. Vì sự hiện hữu của Ta, Ta kinh nghiệm thế giới. Bây giờ Ta thấy một cách rõ ràng tính Một Duy Nhất trong các giáo pháp của ba bậc giác ngộ hay ba đấng “acharyas”: Shankara, Madhava và Ramanuja.

Mọi sự tạo thành đều sinh khởi từ “moolamaya”, ảo ảnh đầu tiên và tiếng rì rầm bí ẩn của nó. Tất cả ngôn từ, đàm luận và danh hiệu đều dựa vào những sự sinh khởi này.

Tương tự như thế, tất cả những hình ảnh này đều là những lời lẽ huyên thuyên và thể hiện của một người nào đó. Những hình ảnh này là sản phẩm của cuộc nói chuyện yêu đương và sự tìm đến với nhau của hai người.

Trạng thái hiện hữu được gọi là Thượng Đế. Trạng thái của Thượng Đế là toàn thể sự thị hiện. Đó là trạng thái của Ta trong khi kinh nghiệm; nó là nhị nguyên. Nhưng trạng thái Bất Thị Hiện của Ta thì bất nhị, và trong trạng thái đó không có sự kinh nghiệm và sự thị hiện. Ta, cái Tuyệt Đối, không phải là trạng thái hiện hữu.

Cho dù có đầy những kiến thức tâm linh, ông không có vẻ sẵn sàng từ bỏ các kinh nghiệm ở bình diện thân-tâm. Nếu không còn nhận diện với cảm giác thân tâm, trước tiên ông sẽ nhập vào sự hiện hữu, rồi sau đó ông sẽ vượt ra khỏi cả chính sự hiện hữu. Tuy nhiên, ông vừa muốn giữ tính cách cá nhân ở bình diện thân tâm vừa muốn kinh nghiệm và ở trong cả hai trạng thái hiện hữu và “phi hiện hữu” thì đó là điều không thể được. Ta, cái Tuyệt Đối, là người chứng kiến sự hiện hữu của Ta, tức toàn thể sự thị hiện. Trạng thái này được ca tụng bằng nhiều danh hiệu cao quý như Thượng Đế, Maheshwar, vân vân và được rất nhiều người sùng kính. Đối với họ những điều như Ta nói có lẽ là một cái tát tai tàn ác.

K: Nếu tôi nói “Ta không là Cái Đó” thì vẫn có “Ta là Cái Đó”.

M: Kinh nghiệm không có nghĩa là người kinh nghiệm.

K: Người kinh nghiệm bị kinh nghiệm. Người kinh nghiệm là một khách thể nhưng được cho là chủ thể. Tôi kinh nghiệm và “Tôi hiện hữu” là một khách thể, nhưng được xem như một chủ thể. Thấy khách thể là chủ thể có phải là một ảo tưởng không?

M: Nếu ông bảo ông nói thì ông là kẻ nói láo. Tất cả những gì ông nói đều thuộc về trí thức, chỉ để đối đáp với những gì Ta nói. Ông có trực tiếp thực hành những điều ông nói không?

K: Đó là thực hành. Tôi tìm kiếm cái “Ta” ở khắp nơi. Bất cứ nơi nào tôi đến để tìm “Ta”, thì đều không có “Ta”.

M: “Ta” không phải từ ngữ “Ta”, nó là tất cả mọi thứ.

K: “Ta” là một cá nhân thì không thể đạt đến chỗ là tất cả mọi thứ.

M: Ta chẳng buộc tội ai là một cá nhân. Ông tự nhận diện mình với một cá nhân. Nỗi sợ chết không cho phép ông siêu vượt vào hiện hữu.

K: Chỉ cái hư giả mới muốn tiếp tục là cái hư giả.

M: “Ta”, cái Tuyệt Đối, không phải cái “tôi” cá nhân. Cái “tôi” cá nhân không thể chịu được sự hiện hữu phi nhân cách, và sợ hãi cái chết. Cái “Ta” thật, vĩnh cửu – cái Tuyệt Đối – không hề sợ chết. Cái mà ông muốn kéo dài, nuôi dưỡng và duy trì bằng những chất thuộc ngũ đại thì không phải là ông. Vì ông tự nhận diện mình với một cái không thật nên có nỗi sợ chết.

“Ông”, cái Tuyệt Đối, không phải cái “ông” cá nhân. Nhưng suốt hai mươi bốn giờ, cái thực thể “ông” cá nhân được trông nom, nuôi dưỡng và bảo vệ để nó có thể kéo dài mãi. Nói tóm lại, ông trông nom, nuôi dưỡng, bảo vệ và canh giữ cái không phải là ông trong thực tế.

K: Khi gặp sư tử thì ông chỉ có hai sự lựa chọn. Hoặc là ông bỏ chạy hoặc là ông để cho nó ăn thịt.

M: Còn cách thứ ba. Ông làm cho sư tử phải sợ ông vì cả hai cách kia ông đều bị nó ăn thịt. Thế thì tại sao lại chết một cách hèn nhát vì sợ? Hãy can đảm tấn công và bẻ vài cái răng của nó. Ai sợ hãi thời gian thì trở thành con mồi của nó. Thời gian tự nó trở thành con mồi của người nào không sợ nó.

Người đã siêu vượt thời gian, sự hiện hữu và những thuộc tính của nó thì ở trong cái Tuyệt Đối. Người giác ngộ không ngừng hủy diệt thời gian trong khi tất cả những người khác đều bị thời gian hủy diệt. Người giác ngộ siêu việt thời gian, ngũ đại, các thuộc tính và cảm xúc.

K: Chúng ta phải cẩn thận không tạo ra một cái gì như thật để cho người đó có ý định hủy diệt.

M: Ông cho mình là một bậc giác ngộ nhưng ông chất chứa quá nhiều thứ. Sợ hãi thời gian cũng như sợ hãi một đứa trẻ chưa hề được sinh ra.

K: Tôi không hề nói rằng tôi cho mình là một bậc giác ngộ.

M: Thời gian là đứa con của một phụ nữ vô sinh sản. [Maharaj chỉ vào một người hỏi và một người nữa]. Cả hai ông đều là những nhân vật nổi tiếng về trình độ tâm linh, các ông trang bị rất đầy đủ đến đây để công kích Ta. Nhưng Ta cho các ông biết, các ông không thể xác định được Ta đâu.

Vì sao Ta không sợ hãi thời gian? Vì ngay cả sự hủy diệt của vũ trụ hữu hình này, và Brahman, cũng không thể hủy diệt Ta. Trước khi, trong khi và sau khi sự hủy diệt xảy ra, Ta, cái Tuyệt Đối, vẫn hiện hành, vẫn nguyên vẹn, bất cấu và bất biến.

Khi chết, các ông chết cùng với diện mạo nào? Nếu biết chắc mình sẽ chết, tại sao các ông lại nhận chịu một cái chết tầm thường? Hãy chết một cách cao thượng và hiên ngang. Trước khi chết, hãy là cái Tối Thượng, cái Vô Biên, cái Tuyệt Đối.

Ngày 14 tháng 1 năm 1980

❁ ❁ ❁

Nisargadatta Maharaj – Nước Thiêng của sự Bất Tử

5 1 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x