Trang chủ » Ta là Cái Đó [75 – 79] – Biết mình không biết, chính là cái biết thật

Ta là Cái Đó [75 – 79] – Biết mình không biết, chính là cái biết thật

by Hậu Học Văn
395 views

75. Trong an lạc và im lặng ông trưởng thành

Hỏi: Truyền thống của Ấn Độ cho chúng tôi thấy vai trò của Đạo sư là tất yếu. Đạo sư là tất yếu cho mục đích gì? Bà mẹ là tất yếu để cho đứa trẻ một thân xác, nhưng không thể cho nó linh hồn. Vai trò của người mẹ thì giới hạn. Thế còn với Đạo sư? Liệu vai trò của Đạo sư cũng giới hạn, và nếu giới hạn thì giới hạn đối với cái gì? Hay là Đạo sư là tất yếu một cách toàn diện, và thậm chí là tuyệt đối?

Maharaj: Ánh sáng trong tận cùng sâu thẳm, chiếu sáng một cách an lạc và vô thời trong tim là Đạo sư đích thực. Tất cả Đạo sư khác đều là người chỉ đường.

H: Tôi không quan tâm về Đạo sư bên trong, mà về người chỉ đường. Có rất nhiều người tin rằng nếu không có Đạo sư thì không thể nào tiếp cận với Yoga. Họ luôn luôn đi tìm một Đạo sư đích thực, lựa chọn hết người này đến người khác. Những Đạo sư như thế có giá trị gì?

M: Họ đều là những Đạo sư giai đoạn và tùy thuộc thời gian. Ông gặp những Đạo sư như thế trong mọi tầng lớp của cuộc đời. Ông cần đến họ để mong đạt được một kiến thức hay kỹ năng nào đó.

H: Người mẹ chỉ tồn tại trong một kiếp sống, bà bắt đầu khi sinh và chấm dứt khi tử. Bà không thể tồn tại mãi.

M: Tương tự như thế, Đạo sư tùy thuộc thời gian cũng không tồn tại mãi. Sau khi hoàn thành mục đích vị Đạo sư nhường chỗ cho người kế tiếp. Đó là chuyện tự nhiên và chẳng có gì đáng chê trách.

H: Tôi có cần một đạo sư riêng biệt cho từng loại kiến thức và kỹ năng riêng khác không?

M: Không hề có một quy luật nào cho những vấn đề như thế này, ngoại trừ một điều: “Cái bên ngoài thì vô thường, cái tận cùng bên trong thì thường hằng bất biến” mặc dù nó luôn luôn mới trong sự xuất hiện và hành động.

H: Quan hệ giữa Đạo sư bên ngoài và Đạo sư bên trong là gì?

M: Đạo sư bên ngoài tiêu biểu cho Đạo sư bên trong, Đạo sư bên trong chấp nhận Đạo sư bên ngoài – trong một lúc nào đó.

H: Vậy nỗ lực là của ai?

M: Dĩ nhiên là của người môn đồ. Đạo sư bên ngoài chỉ giáo, Đạo sư bên trong truyền sức mạnh; sự áp dụng tỉnh thức là thuộc về người môn đồ. Nếu không có ý chí, trí tuệ và công sức của người môn đồ thì vị Đạo sư bên ngoài hoàn toàn vô phương. Mà Đạo sư bên trong cũng chẳng làm gì được. Sự si mê và những theo đuổi sai lầm gây nên khủng hoảng và người môn đồ tỉnh ngộ trước cảnh ngộ đau đớn của chính mình. Người khôn ngoan thì không đợi đến khi bị một cú sốc, có thể là rất phũ phàng.

H: Liệu đó có phải là một sự răn đe?

M: Không phải răn đe, mà là một sự báo trước. Vị Đạo sư bên trong không hề cam kết phi bạo lực. Có nhiều khi vị Đạo sư bên trong rất tàn nhẫn trong sự tận diệt tính cách con người đầy u mê và lầm lạc. Đau khổ và cái chết, cũng như sự sống và hạnh phúc là những công cụ hành động của Đạo sư bên trong. Chỉ trong nhị nguyên, phi bạo lực mới trở thành quy luật thống nhất.

H: Một người có phải sợ hãi cái Ta của chính mình?

M: Chẳng có gì phải sợ, vì cái Ta có nghĩa là tốt lành. Nhưng chớ xem thường cái Ta. Nó đòi hỏi sự chú ý và tuân hành. Khi không được nghe theo, nó sẽ chuyển từ thuyết phục sang cưỡng bách, vì nó có thể chờ đợi nhưng không thể bị khước từ. Sự khó khăn không có đối với Đạo sư – dù bên ngoài hay bên trong. Đạo sư lúc nào cũng sẵn sàng, môn đồ chín chắn thì không có. Khi một người không sẵn sàng thì có thể làm được gì?

H: Sẵn sàng hay quyết tâm?

M: Cả hai. Nói chung thì cũng như nhau. Ở Ấn Độ người ta gọi là Adhikari, có nghĩa là vừa có khả năng và vừa có quyền.

H: Liệu Đạo sư bên ngoài có thể khai tâm – Diksha – cho môn đồ?

M: Đạo sư bên ngoài có thể có nhiều cách khai tâm, nhưng khai tâm vào Thực tại thì phải từ bên trong.

H: Ai ban cho sự khai tâm tối hậu?

M: Khai tâm tối hậu là tự ban cho.

H: Tôi có cảm tưởng là chúng ta chạy lòng vòng. Xét cho cùng, tôi chỉ biết một cái Ta – cái Ta hiện tại và có thể kinh nghiệm được. Cái Ta bên trong hay cái Ta siêu việt chỉ là một ý tưởng được nhận thức để giải thích và khuyến khích. Chúng ta nói về cái Ta đó như thể là nó có sự tồn tại độc lập. Nhưng nó không có.

M: Cả cái Ta bên ngoài lẫn cái Ta bên trong đều được tưởng tượng ra. Sự ám ảnh là một cái “ta” cần một sự ám ảnh về một cái “Ta Siêu Việt” để chữa trị, cũng như một người dùng gai để lể gai, dùng thuốc độc để giải thuốc độc. Tất cả mọi khẳng định đều phải cần đến một sự phủ định, nhưng đây mới chỉ là bước đầu tiên. Bước kế tiếp là vượt ra ngoài cả hai.

H: Tôi hiểu rõ rằng Đạo sư bên ngoài là cần thiết để kêu gọi sự chú ý của tôi về chính tôi, và sự cấp bách phải làm một cái gì đó cho chính tôi. Tôi cũng hiểu được là Đạo sư bên ngoài khó có thể tạo ra được sự thay đổi sâu kín trong tôi. Nhưng ở đây ông đề cập đến Sadguru – vị Đạo sư bên trong – tiên nguyên, bất biến, cội nguồn của hiện hữu, một sự hứa hẹn thường hằng, một mục tiêu chắc chắn. Nhưng liệu Đạo sư bên trong chỉ là một quan niệm hay là một thực tại?

M: Đạo sư bên trong là thực tại duy nhất. Tất cả những cái khác chỉ là cái bóng của thân tâm – Dehabuddhi – để lại trên bề mặt của thời gian.

Dĩ nhiên, ngay cả một cái bóng cũng liên quan đến thực tại, nhưng tự thân cái bóng thì không thật.

H: Tôi là thực tại duy nhất mà tôi biết. Đạo sư bên trong còn đó chừng nào tôi còn nghĩ đến ông ta. Tôi được cái gì khi đổi thực tại để lấy ông ta?

M: Cái ông mất lại là cái ông được. Khi cái bóng được thấy chỉ là một cái bóng thì ông chấm dứt đi theo nó. Ông quay lại và khám phá ra mặt trời vẫn luôn luôn hằng hữu – đằng sau ông.

H: Đạo sư bên trong cũng chỉ giáo?

M: Đạo sư bên trong ban cho ông sự tin tưởng rằng ông là vĩnh cửu, là bất biến, là thực tại – ý thức – tình yêu, ở trong và ngoài tất cả mọi hình tướng.

H: Một sự tin tưởng vẫn chưa đủ. Cần phải có bằng chứng chắc chắn.

M: Đúng thế. Trong trường hợp này bằng chứng chắc chắn thể hiện qua lòng can đảm. Sợ hãi hoàn toàn chấm dứt. Trạng thái vô úy này mới lạ một cách không thể lầm lẫn được, nhưng được cảm nhận là của chính mình, và trạng thái này không thể bị phủ nhận. Cũng như lòng yêu thương đứa con của chính mình. Làm sao có thể nghi hoặc được?

H: Chúng tôi có nghe nói về sự tiến bộ trong các tinh tấn về tâm linh. Theo ông sự tiến bộ đó là gì?

M: Khi vượt ra ngoài tiến bộ, ông sẽ biết tiến bộ là gì.

H: Cái gì làm cho chúng tôi tiến bộ?

M: Im lặng là yếu tố chính. Trong an lạc và im lặng ông trưởng thành.

H: Tâm hoàn toàn bất an. Làm thế nào để giữ tâm im lặng?

M: Hãy tin tưởng Đạo sư. Chẳng hạn như trường hợp của Ta. Tôn sư bảo Ta chỉ chú ý đến ý thức “Ta hiện hữu” và đừng để ý đến bất cứ gì khác. Ta chỉ việc làm theo. Ta không hề trải qua một khóa huấn luyện chuyên biệt nào về hít thở, hay thiền quán, hoặc tham cứu kinh điển. Bất cứ gì xảy ra, Ta không hướng sự chú ý đến nó mà an trú với ý thức “Ta hiện hữu.” Điều này có vẻ quá đơn giản, thậm chí còn thô thiển nữa. Lý do duy nhất mà Ta làm như vậy là Tôn sư bảo Ta làm như vậy. Và nó đã đem lại kết quả! Sự tuân hành là dung môi mạnh nhất hòa tan mọi tham ái và lo sợ.

Đừng để ý đến bất cứ gì làm cho tâm bận rộn; cứ làm bất cứ công việc gì ông phải hoàn tất, nhưng đừng nhận thêm nghĩa vụ nào mới; đặt ông trong trạng thái rỗng rang, luôn luôn sẵn sàng, và đừng chống lại những gì không mời mà đến.

Cuối cùng ông đạt đến một trạng thái vô chấp thủ, an vui không ràng buộc của sự thanh thản nội tâm và tự do không thể mô tả được, nhưng chơn thật một các lạ thường.

H: Khi một người đi tìm chân lý thành khẩn thực hành các pháp môn Yoga, liệu Đạo sư bên trong có hướng dẫn và trợ giúp, hay cứ mặc kệ người đó, rồi chờ kết quả?

M: Tất cả đều tự xảy ra. Người tìm kiếm cũng như Đạo sư chẳng làm gì cả. Mọi chuyện xảy ra như chúng xảy ra; chê hay khen sẽ được tính sau, sau khi ý thức và người làm xuất hiện.

H: Lạ nhỉ! Hiển nhiên là người làm phải có trước hành động.

M: Ngược lại thì mới đúng; hành động là một thực tế, người làm chỉ là một khái niệm. Ngay chính ngôn ngữ của ông cũng cho thấy rằng hành động thì chắc chắn còn người hành động thì mơ hồ; thay đổi trách nhiệm là một trò chơi đặc thù của con người. Cứ xem xét danh sách bất tận của các yếu tố ắt có cho bất cứ gì xảy ra, một người phải công nhận rằng mọi vật có trách nhiệm đối với mọi vật, dù xa cách đến đâu. Người làm là một sự tưởng tượng phát sinh từ ảo tưởng về “ta” và “cái của ta.”

H: Ảo tưởng mạnh đến thế sao?

M: Dĩ nhiên, vì nó dựa vào thực tại.

H: Cái gì là thật trong nó?

M: Hãy tìm ra, bằng cách loại trừ và bác bỏ những gì không thật.

H: Tôi vẫn chưa hiểu rõ vai trò của cái Ta bên trong trong sự tinh tấn tâm linh. Ai tinh tấn? Cái Ta bên ngoài hay bên trong?

M: Ông vừa phát minh ra những từ ngữ như tinh tấn, bên ngoài, bên trong, cái Ta, vân vân rồi tìm cách áp đặt chúng lên thực tại. Mọi chuyện chỉ tình cờ xảy ra như chúng là, nhưng chúng ta muốn khép nó vào một mô thức được tạo nên bằng cơ cấu của ngôn từ. Thói quen này mãnh liệt đến nỗi chúng ta có khuynh hướng phủ nhận rằng thực tại thì không thể được ngôn từ hóa. Chúng ta không chịu thấy rằng ngôn từ chỉ là những biểu tượng, có liên quan với nhau bởi quy ước và được các kinh nghiệm lập lại thành thói quen.

H: Kinh sách tâm linh có giá trị gì?

M: Chúng trợ giúp trong sự xua đuổi vô minh. Chúng hữu ích vào lúc đầu nhưng lại là chướng ngại vào lúc cuối. Một người phải biết lúc nào quăng bỏ chúng.

H: Sự liên kết giữa cái Ta và sự hài hòa vũ trụ – AtamaSattava – là gì?

M: Cũng như mặt trời và ánh nắng. Hài hòa và đẹp đẽ, hiểu biết và xúc cảm đều là những thể hiện của thực tại. Nó chính là thực tại trong hành động, ảnh hưởng của tinh thần lên vật chất. Tamas ngăn trở, Rajas xuyên tạc, Sattva làm cho hòa hợp. Với sự chín mùi của Sattva mọi tham ái và lo sợ chấm dứt; sự hiện hữu chơn thật phản chiếu trong tâm mà không bị méo mó. Vật chất được hồi phục thì tinh thần hiển lộ. Cả hai được thấy như là một. Chúng luôn luôn là một, nhưng cái tâm không toàn hảo thấy thành hai. Làm cho tâm toàn hảo là công việc của con người, vì vật chất và tinh thần gặp nhau trong tâm.

H: Tôi có cảm tưởng như đứng trước một cánh cửa. Tôi biết cánh cửa mở nhưng bị bầy chó tham ái và lo sợ canh giữ. Tôi phải làm gì?

M: Làm theo sự chỉ dẫn của Đạo sư và đừng sợ bầy chó. Cứ xem như chúng không có. Một lần nữa, tuân hành là quy luật bất biến. Tự do đạt được bằng sự tuân hành. Muốn thoát khỏi nhà tù, một người pải tuyệt đối làm theo chỉ thị của những người đang tìm cách cứu mình ra.

H: Lời dạy của Đạo sư nếu chỉ nghe suông thì chẳng có bao nhiêu công lực. Một người cần phải tin tưởng để làm theo. Cái gì tạo ra sự tin tưởng như thế?

M: Sự tin tưởng sẽ đến vào đúng thời điểm. Tất cả mọi thứ sẽ đến với thời gian. Đạo sư sẵn sàng chia sẻ, nhưng không có người nhận.

H: Đúng thế, Sri Ramana Maharshi vẫn thường nói: Đạo sư thì rất nhiều nhưng môn đồ ở đâu?

M: Theo giòng thời gian mọi chuyện xảy ra. Tất cả sẽ vượt qua, không một linh hồn – Jiva – nào bị thất lạc.

H: Tôi rất sợ nhận lầm cái hiểu tri thức với giác ngộ. Tôi có thể nói về chân lý mà không hề biết chân lý, và cũng có thể tôi biết chân lý mà không một lời nào được nói ra.

Tôi hiểu rằng những cuộc đàm luận như thế này sẽ được in thành sách và xuất bản. Ảnh hưởng của nó đối với người đọc sẽ như thế nào?

M: Những cuộc đàm luận như thế này sẽ chín mùi, nở hoa và kết trái trong người đọc nào chú tâm và biết suy gẫm. Lời lẽ dựa trên chân lý – đã trải qua thử thách – có sức mạnh riêng của nó.

❁ ❁ ❁

76. Biết mình không biết, chính là cái biết thật

Maharaj: Có thân xác. Bên trong thân xác có vẻ có một người quan sát, và bên ngoài thân xác là một thế giới bị quan sát. Người quan sát, sự quan sát và thế giới bị quan sát – cùng xuất hiện và cùng biến mất. Bên ngoài tất cả là không. Cái không này là một cho tất cả.

Hỏi: Những gì ông nói thì có vẻ đơng giản, nhưng không phải ai cũng nói như thế. Chỉ có ông, và một mình ông là người nói đến bộ ba và cái không – ở bên ngoài. Tôi chỉ thấy có thế giới, và thế giới đó bao gồm tất cả.

M: Ngay cả cái “Ta hiện hữu”?

H: Phải, ngay cả cái “Ta hiện hữu.” “Ta hiện hữu” vì có thế giới.

M: Và có thế giới vì có “Ta hiện hữu.”

H: Đúng, đó là một diễn tiến hai chiều. Tôi không thể tách rời hai cái, mà cũng không thể vượt ra ngoài. Tôi không thể nói một cái gì đó là nếu tôi không kinh nghiệm nó, cũng như tôi không thể nói một cái gì đó không là bởi vì tôi không kinh nghiệm nó. Cái ông kinh nghiệm là gì khiến ông có thể nói một cách cả quyết như thế?

M: Ta biết chính Ta như Ta là – phi thời, phi xứ, phi nhân duyên. Ông không thể biết vì ông mải mê với những thứ khác.

H: Vì sao tôi lại mải mê như thế?

M: Vì ông quan tâm.

H: Điều gì khiến tôi quan tâm?

M: Sợ hãi đau khổ, tham ái lạc thú. Lạc thú là sự chấm dứt của đau khổ và đau khổ là sự chấm dứt của hạnh phúc. Chúng thay phiên nhau trong một chuỗi diễn tiến bất tận. Hãy tìm hiểu cái vòng lẩn quẩn ấy cho đến khi nào ông thấy mình ở ngoài nó.

H: Thế không phải tôi cần đến ân đức của ông để đem tôi ra ngoài?

M: Ân đức của Thực tại bên trong của chính ông lúc nào cũng ở với ông. Chính sự cầu khẩn ân đức là một dấu hiệu của nó. Đừng lo lắng về ân đức của Ta, mà cứ làm những gì Ta bảo. Việc làm của ông là bằng chứng của lòng thành khẩn, chứ không phải là sự mong cầu ân đức.

H: Tôi phải thành khẩn về cái gì?

M: Chuyên chú tìm hiểu bất cứ gì ngang qua phạm vi chú ý của ông. Cùng với sự thực hành, phạm vi sẽ rộng dần, sự tìm hiểu sẽ sâu sắc hơn cho đến khi cả hai tự sinh khởi và không còn giới hạn.

H: Ông không cho rằng giác ngộ là kết quả của sự thực hành đấy chứ? Sự thực hành chỉ có tác dụng trong nội vi giới hạn của sự tồn tại vật lý. Làm sao nó có thể tạo ra cái vô hạn?

M: Dĩ nhiên, chẳng có liên hệ nhân quả nào giữa thực hành và trí tuệ. Nhưng sự thực hành có tác động sâu sắc đến các chướng ngại ngăn che trí tuệ.

H: Những chướng ngại đó là gì?

M: Tà kiến và tham ái đưa đến những hành động sai lầm làm cho thân tâm hư hao suy yếu. Sự phát hiện và từ bỏ cái hư giả sẽ tháo gỡ các chướng ngại ngăn trở cái thật đi vào tâm.

H: Tôi có thể phân biệt hai trạng thái của tâm: “Ta hiện hữu” và “Thế giới hiện hữu,” chúng cùng nổi lên và chìm xuống. Ai cũng nói: “Ta hiện hữu” vì “Thế giới hiện hữu.” Còn ông có vẻ như nói rằng: “Thế giới hiện hữu vì Ta hiện hữu.” Vậy lập luận nào đúng?

M: Chẳng có cái nào đúng. Hai cái là một và là cùng một trạng thái trong không gian và thời gian. Bên ngoài cả hai là cái vô thời.

H: Cái gì nối kết thời gian và cái vô thời?

M: Cái vô thời biết thời gian, thời gian không biết cái vô thời. Tất cả ý thức đều ở trong thời gian và đối với nó cái vô thời có vẻ như vô thức. Nhưng chính nó là cái làm cho ý thức khả hữu. Ánh sáng sáng trong bóng tối. Trong ánh sáng thì bóng tối không thấy được. Hay, nói theo cách khác: Trong đại dương bao la của ánh sáng những đám mây ý thức xuất hiện – đen tối và hữu hạn, được nhận thức qua sự tương phản. Đó chỉ là những cố gắng nhằm diễn tả bằng ngôn từ một cái gì đó rất đơn giản, nhưng hoàn toàn không thể diễn tả.

H: Ngôn từ có thể là cây cầu để vượt qua.

M: Ngôn từ có thể nói về một trạng thái của tâm, nhưng không thể dùng cho thực tại. Giòng sông, hai bờ sông, cây cầu bắc ngang – tất cả đều ở trong tâm. Chỉ riêng ngôn từ không thể đưa ông ra ngoài tâm. Cần phải có một lòng khao khát chân lý vô biên, hay sự tin tưởng tuyệt đối vào Đạo sư. Cứ tin Ta đi, chẳng hề có mục đích và chẳng có con đường nào đưa đến mục đích. Ông chính là con đường và cũng là mục đích; chẳng có gì để đạt đến, ngoại trừ chính ông. Tất cả những gì ông cần là hiểu, và hiểu là sự nở hoa của tâm. Cây tồn tại quanh năm, nhưng hoa nở và kết trái chỉ có mùa. Mùa thay đổi nhưng cây thì không. Ông là cây. Ông đã mọc ra vô số cành và lá trong quá khứ và ông sẽ còn mọc ra cành, lá trong tương lai – nhưng ông vẫn thế. Cái mà ông phải biết không phải cái đã là, hay sẽ là, mà là cái đang . Chính sự ham muốn của ông tạo ra vũ trụ. Biết thế giới là chính tạo vật của ông thì ông tự do.

H: Ông nói thế giới là một đứa trẻ của tình yêu. Khi nhìn thấy thế giới đầy những kinh hoàng, chiến tranh, trại tập trung, và những sự bóc lột vô nhân đạo, làm sao tôi có thể nhận nó là sự sáng tạo của chính tôi? Dù hữu hạn đến đâu, tôi đã không thể nào tạo ra một thế giới tàn nhẫn như thế.

M: Hãy tìm ra ai là người mà thế giới tàn nhẫn này xuất hiện với, thì ông sẽ biết tại sao nó có vẻ tàn nhẫn như thế. Các câu hỏi của ông là hoàn toàn chính đáng, nhưng không thể trả lời được trừ khi ông biết thế giới là của ai. Muốn tìm ra ý nghĩa của một cái gì đó, ông phải hỏi người tạo ra nó. Ta cho ông biết: Ông chính là người tạo ra cái thế giới mà trong đó ông sống – chỉ có ông mới có thể thay đổi nó, hay xóa bỏ nó.

H: Làm sao ông có thể nói được rằng tôi đã tạo ra thế giới? Tôi không biết điều đó.

M: Khi ông biết rõ chính ông thì không có gì trong thế giới mà ông không biết. Cho rằng ông là thân xác nên ông thấy thế giới là một tập hợp của nhiều vật chất. Khi biết được ông là trung tâm của ý thức thì thế giới xuất hiện như biển tâm. Khi ông biết chính ông là ông trong thực tại, thì ông biết thế giới là chính ông.

H: Những gì ông nói nghe rất hoa mỹ nhưng không trả lời câu hỏi của tôi. Tại sao thế giới lại có quá nhiều đau khổ?

M: Nếu đứng riêng ra như một người quan sát thì ông không hề đau khổ. Ông sẽ thấy thế giới như một vở tuồng, một vở tuồng thú vị nhất.

H: Ồ, không! Tôi không thể nào chấp nhận cái lý thuyết Lila – vở tuồng – này. Sự đau khổ thì quá nhức nhối và ở khắp nơi. Thật là tàn nhẫn khi tiêu khiển bằng cách ngắm nhìn một cảnh tượng đau khổ! Ông mời chào tôi một Thượng đế quá tàn nhẫn!

M: Nguyên nhân của đau khổ ở trong sự đồng hóa người nhận thức với cái được nhận thức. Từ đó tham ái khởi sinh, và cùng đi với tham ái là hành động mù quáng, không cần biết hậu quả. Hãy nhìn xung quanh và ông sẽ thấy. Đau khổ là do con người tạo ra.

H: Nếu một người chỉ gây ra đau khổ cho riêng mình thì tôi đồng ý với ông. Nhưng hắn lại làm cho người khác đau khổ bằng sự dại dột của chính hắn. Một người nằm mơ thấy cơn ác mộng của riêng mình thì chẳng có ai đau khổ, ngoại trừ chính hắn. Nhưng giấc mơ tàn phá cuộc sống của người khác là giấc mơ gì?

M: Sự mô tả thì vô số và mâu thuẫn với nhau. Thực tại thì đơn giản – tất cả là một, hài hòa là quy luật vĩnh cửu; chẳng có ai bị bắt buộc phải đau khổ. Chính vì ông cố tìm cách mô tả và giải thích nên mới không đủ ngôn từ.

H: Tôi nhớ có lần Gandhi nói với tôi rằng cái Ta không bị ràng buộc bởi luật bất bạo hành – Ahimsa. Cái Ta hoàn toàn tự do áp đặt đau khổ lên những thể hiện của nó để chỉnh đốn chúng.

M: Trên bình diện nhị nguyên có thể là như thế, nhưng trong thực tại thì chỉ có một nguồn gốc, trong chính nó thì tối, nhưng làm cho tất cả chiếu sáng. Nó không thể được nhận thức nhưng tạo ra nhận thức. Nó không thể được cảm thọ nhưng tạo ra cảm thọ. Nó không thể nghĩ ra được nhưng nó tạo ra ý nghĩ. Nó phi hiện hữu nhưng khai sinh ra hiện hữu. Nó là hậu cảnh bất biến của mọi chuyển động. Một khi đến được chỗ đó thì ở đâu đối với ông cũng là ở nhà.

H: Nếu tôi là cái đó, thế cái gì làm cho tôi được sinh ra?

M: Ký ức của những ước muốn không được thỏa mãn trong quá khứ lưu giữ lại năng lượng, và thị hiện tự thân thành con người. Khi năng lượng tích tụ tiêu hao thì con người chết. Những ước muốn không được thỏa mãn được đem sang kiếp sau. Sự đồng hóa chính mình với thân xác luôn luôn tạo ra những tham ái mới và không có cách nào chấm dứt, trừ khi cái cơ cấu của sự ràng buộc này được thấy một cách rõ ràng. Ta không nói rằng cùng một con người tái sinh. Con người đó chết đi và chết đi vĩnh viễn. Nhưng ký ức của nó – vẫn còn cùng với tham ái và lo sợ – cung cấp năng lượng cho một con người mới. Cái thật không tham dự vào tiến trình này, nhưng làm cho nó khả hữu bằng cách cho nó ánh sáng.

H: Điều khó khăn đối với tôi như sau: Tôi có thể thấy mỗi kinh nghiệm là thực tại của riêng nó. Kinh nghiệm có đó – và được kinh nghiệm. Ngay khi tôi chất vấn nó và đặt câu hỏi nó xảy ra với ai, ai là người quan sát, vân vân, thì kinh nghiệm trôi qua, và tất cả những gì tôi có thể tìm hiểu chỉ là ký ức về nó. Tôi không thể tìm hiểu cái khoảnh khắc sống động – cái bây giờ. Sự thấy biết của tôi là của quá khứ, chứ không thuộc về hiện tại. Khi tôi biết, tôi không thực sự sống trong cái bây giờ mà chỉ trong quá khứ. Liệu có thể có cái biết thực sự của hiện tại?

M: Điều mà ông mô tả hoàn toàn không phải là biết, mà chỉ là tư duy về kinh nghiệm. Cái biết chơn thật – Samvid – là trạng thái nhân chứng thuần túy, mà không hề có cố gắng nào để làm bất cứ gì về sự kiện được chứng kiến. Ý nghĩ và cảm thọ, ngôn từ và hành động của ông có thể là một phần của sự kiện xảy ra; ông quan sát tất cả mà không động tâm, với đầy đủ ánh sáng của sự minh mẫn và hiểu. Ông hiểu chính xác chuyện gì đang xảy ra, vì nó không tác động đến ông. Điều này có vẻ như là một trạng thái thờ ơ lạnh nhạt, nhưng thật ra không phải thế. Một khi đã ở trong trạng thái này thì ông yêu thích những gì ông thấy, dù bản chất của sự kiện xảy ra là gì. Tình yêu không lựa chọn này là tiêu chuẩn của tánh biết. Nếu không có nó thì ông đơn thuần chỉ quan tâm – vì những lý do cá nhân nào đó.

H: Bao giờ còn có đau khổ và lạc thú thì một người không thể nào không quan tâm.

M: Bao giờ một người còn ý thức thì còn đau khổ và lạc thú. Ông không thể chống lại đau khổ và lạc thú trên bình diện của ý thức. Muốn thoát ra khỏi đau khổ và lạc thú ông phải vượt ra khỏi ý thức, và điều này chỉ có thể xảy ra khi ông nhìn ý thức như một cái gì đó xảy đến đối với ông chứ không phải trong ông, như một cái gì đó bên ngoài, xa lạ, khoác lên ông. Rồi hốt nhiên ông tự do không còn ý thức, hoàn toàn một mình, không có gì xâm nhập. Đó chính là trạng thái đích thực của ông. Ý thức là một loại ban ngứa khiến ông phải gãi. Dĩ nhiên, ông không thể bước ra ngoài ý thức vì ngay chính ý nghĩ bước ra khỏi ý thức lại ở trong ý thức. Nhưng nếu ông biết cách nhìn ý thức của chính ông như một sự bực bội – cá nhân và riêng tư – và ông bị vây hãm trong đó như một con gà con trong vỏ. Từ thái độ này sẽ phát sinh một cơn khủng hoảng và chính cơn khủng hoảng sẽ phá vỡ vỏ trứng.

H: Đức Phật nói đời là bể khổ.

M: Chắc chắn ngài đã có ý muốn nói rằng mọi ý thức đều đau khổ, và đó là điều hiển nhiên.

H: Thế chết hứa hẹn sự giải thoát?

M: Người nào tin mình đã được sinh ra thì rất sợ chết. Trái lại, người nào thực sự biết mình thì chết là một điều vui mừng.

H: Truyền thống Ấn giáo cho rằng đau khổ là do định mệnh đưa đến và định mệnh thì có tính cách thưởng phạt. Cứ nhìn không biết bao nhiêu tai họa, do thiên nhiên hay con người tạo ra, lụt lội và động đất, chiến tranh và cách mạng – liệu có thể nghĩ rằng mỗi người chịu đau khổ vì tội lỗi của riêng mình, mà chính mình có khi không biết là tội lỗi? Liệu hàng triệu người đau khổ, có phải vì họ là những tên tội phạm bị trừng phạt đích đáng?

M: Có phải một người chỉ đau khổ vì những tội lỗi của chính mình? Chúng ta có thực sự khác biệt? Trong đại dương bao la của đời sống chúng ta đau khổ vì tội lỗi của người khác, và làm cho người khác đau khổ vì tội lỗi của chính mình. Dĩ nhiên luật công bằng có hiệu lực tối hậu, và sau cùng thì mọi nợ nần đều được thanh toán song phẳng. Nhưng trong khi còn sống, chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau rất sâu sắc.

H: Đúng thế, một nhà thơ đã nói: “Không có ai là một hòn đảo.”

M: Ở phía sau mỗi một kinh nghiệm là cái Ta và sự mong muốn kinh nghiệm của nó. Có thể gọi đó là ước muốn, gọi đó là tình yêu – ngôn từ thì chẳng quan trọng.

H: Có thể nào tôi mong muốn đau khổ? Có thể nào tôi đòi hỏi đau đớn một cách có tính toán? Không phải tôi như một kẻ dọn một chiếc giường thật êm ái với hy vọng được một giấc ngủ ngon, nhưng bị một cơn ác mộng ghé thăm, thế là hắn lăn lộn và la hét trong mơ? Chắc chắn không phải tình yêu đã đẻ ra ác mộng.

M: Tất cả đau khổ được gây ra bởi sự cô lập và ích kỷ, bởi thái độ hẹp hòi và tham lam. Khi nguyên nhân được nhận ra và tháo gỡ thì đau khổ không còn.

H: Tôi có thể tháo gỡ những nguyên nhân gây ra đau khổ của tôi, nhưng người khác vẫn bị phó mặc với đau khổ.

M: Để hiểu được đau khổ, ông phải vượt ra ngoài đau khổ và lạc thú. Chính những tham ái và lo sợ của ông ngăn che cái hiểu của ông, và do đó ông không thể giúp người khác. Trong thực tế, không hề có người khác, giúp chính ông chính là giúp mọi người. Nếu thực sự nghiêm túc về những đau khổ của nhân loại, ông phải hoàn chỉnh phương tiện giúp ích duy nhất mà ông có – chính ông.

H: Ông vẫn tiếp tục nói rằng tôi là người sáng tạo, người giữ gìn và người hủy diệt thế giới, có mặt khắp nơi, thông suốt mọi sự, và quyền năng tuyệt đối. Khi suy nghĩ về những gì ông nói, tôi tự hỏi: “Tại sao trong thế giới của tôi lại có nhiều xấu xa đến thế?”

M: Không hề có xấu xa, không hề có đau khổ; niềm vui của sự sống là tối cao. Cứ nhìn xem, tất cả đều đeo bám lấy sự sống như thế nào, sự tồn tại thật quý giá làm sao.

H: Trên màn ảnh của tâm, các hình ảnh tiếp nối nhau trong một chuỗi diễn tiến bất tận. Chẳng có gì thường hằng về tôi cả.

M: Hãy nhìn kỹ ông một lần nữa xem. Màn ảnh có đó – nó không hề thay đổi. Ánh sáng vẫn chiếu đều đặn. Chỉ có cuốn phim ở giữa tiếp tục chuyển động và làm cho hình ảnh xuất hiện. Ông có thể gọi cuốn phim là định mệnh – Prarabdha.

H: Cái gì tạo ra định mệnh?

M: Vô minh là nguyên nhân của cái bất khả tránh.

H: Vô minh về cái gì?

M: Vô minh về trước ông là trước tiên. Ngoài ra, ông còn vô minh về bản chất chơn thật của mọi vật, cùng những nguyên nhân và hậu quả của chúng. Ông nhìn xung quanh mà không hề hiểu biết, ông nhận hiện tướng làm thực tại. Ông tin rằng ông biết thế giới và chính ông – nhưng chính sự vô minh của ông khiến ông nói: Ta biết. Hãy bắt đầu với sự nhìn nhận rằng ông không biết, và khởi sự từ đó.

Không gì có thể giúp ích cho thế giới hơn là điều ông chấm dứt vô minh. Lúc đó, ông sẽ chẳng cần làm bất cứ gì đặc biệt để cứu giúp thế giới. Chính sự hiện hữu của ông là cứu giúp, dù ông có hành động hay không.

H: Làm sao có thể biết được vô minh? Để biết được vô minh thì trước tiên phải biết.

M: Đúng thế. Chính sự nhìn nhận “Ta vô minh” là sự khởi đầu của biết. Một người vô minh thì vô minh về sự vô minh của mình. Ông có thể nói rằng vô minh không tồn tại, vì ngay khi được nhận diện vô minh liền biến mất. Do đó, ông có thể gọi nó là vô thức hoặc sự mù quáng. Tất cả những gì ông thấy quanh ông và trong ông là những gì ông không biết và không hiểu, nhưng ông không biết rằng ông không biết và không hiểu. Biết được ông không biết và không hiểu là cái biết đúng thật, cái biết của một tấm lòng khiêm tốn.

H: Đúng, Đấng Christ đã nói: Phước thay cho những kẻ nghèo nàn trong ý nghĩ…

M: Ông muốn nói thế nào cũng được; thực tế thì cái biết là thuộc về vô minh. Ông biết rằng ông không biết.

H: Có bao giờ vô minh chấm dứt?

M: Có gì sai với không biết? Ông không cần biết tất cả. Biết cái ông cần biết là đủ. Những gì còn lại sẽ tự lo liệu lấy mà chẳng cần ông biết vì sao. Điều quan trọng là vô thức của ông không làm gì ngược lại với ý thức, và có sự hợp nhất ở tất cả các bình diện. Biết thì không quá quan trọng đến như thế.

H: Những gì ông nói rất đúng về tâm lý, nhưng khi cần biết người khác, cần biết thế giới, thì biết được rằng tôi không biết – chẳng giúp ích gì nhiều.

M: Một khi ông hợp nhất được bên trong, cái biết bên ngoài đến với ông một cách tự sinh khởi. Vào mỗi khoảnh khắc trong cuộc sống, ông biết cái ông cần biết. Đại dương bao la của tâm vũ trụ chứa đựng tất cả cái biết; tất cả là của ông khi ông cần. Có thể là hầu hết những cái biết đó ông chẳng bao giờ cần biết – nhưng nó vẫn là của ông thì cũng thế.

Giống như cái biết, quyền năng cũng vậy.

Bất cứ gì ông cảm thấy cần làm đều chắc chắn xảy ra. Chẳng có gì nghi hoặc là Thượng đế chăm lo cho sự điều hành vũ trụ, nhưng ngài vẫn vui mừng khi có sự trợ giúp. Khi ngài giúp vô vị kỷ và có trí tuệ, toàn thể quyền năng của vũ trụ thuộc về sự điều khiển của người đó.

H: Ngay cả quyền năng mù quáng của thiên nhiên?

M: Không hề có quyền năng mù quáng. Ý thức là quyền năng. Biết cái gì cần làm thì cái đó sẽ được làm. Chỉ cần tỉnh thức và im lặng. Một khi đã đến nơi và biết được bản chất chơn thật của ông, sự tồn tại của ông trở thành phước báu cho tất cả. Có thể ông không biết và thế giới cũng không biết, nhưng sự cứu giúp tỏa sáng. Có những người trên thế giới này làm nhiều điều tốt lành hơn những gì mà tất cả các chính khách và những người nhân đức gộp lại. Họ tỏa ra ánh sáng và sự an lạc mà không hề dụng tâm hoặc hay biết. Khi người khác nói với họ về những phép lạ họ đã làm thì chính họ cũng ngạc nhiên. Họ chẳng nhận gì là của riêng họ, họ không cảm thấy hãnh diện mà cũng không thèm khát tiếng tăm. Họ chỉ không thể mong cầu bất cứ gì cho chính họ, thậm chí họ cũng không hề vui mừng khi giúp người khác; biết được Thượng đế tốt lành thì họ an vui.

❁ ❁ ❁

77. “Ta” và “Của Ta” là hư giả

Hỏi: Tôi rất ràng buộc với gia đình và những gì tôi có. Làm sao tôi có thể chiến thắng sự ràng buộc này?

Maharaj: Sự ràng buộc này sinh khởi cùng với ý thức “ta” và “của ta”. Tìm ra ý nghĩa đích thực của những từ ngữ này thì bà sẽ thoát khỏi mọi ràng buộc. Bà có một cái tâm trải ra trong thời gian. Hết chuyện này đến chuyện khác xảy ra với bà và để lại ký ức. Chẳng có gì là không đúng với điều đó. Vấn đề chỉ phát sinh khi ký ức về những đau khổ và lạc thú trong quá khứ – là những gì thiết yếu đối với tất cả sự sống hữu cơ – tồn tại như một phản xạ chi phối thái độ. Phản xạ này có hình tướng là cái “ta” và sử dụng thân và tâm cho mục đích của nó hiển nhiên là tìm kiếm lạc thú và trốn tránh đau khổ. Khi nhận ra cái “ta” như chính nó là – một mớ tham ái và lo sợ – và ý thức “của ta” bao gồm tất cả sự vật và con người cần thiết cho mục đích lánh khổ tìm vui, thì bà sẽ thấy được cái “ta” và cái “của ta” là những ý tưởng sai lầm, không có nền tảng trong thực tại. Được tạo ra bởi tâm, chúng cai trị kẻ đã tạo ra chúng chừng nào kẻ đó còn cho chúng là thật; nhưng khi bị chất vấn thì chúng biến mất.

Cái “ta” và cái “của ta” không có thực thể trong chính chúng, nên cần một sự chống đỡ mà chúng tìm được ở thân xác. Thân xác trở thành điểm viện dẫn của chúng. Khi nói về chồng “của tôi” và con “của tôi” bà muốn nói chồng của thân xác và con của thân xác. Hãy từ bỏ ý tưởng là thân xác và đối diện câu hỏi: “Ta là ai?” Ngay lập tức một diễn tiến sẽ xảy ra và đem thực tại trở lại, hay đúng hơn là đem tâm đến với thực tại. Chỉ có điều là bà không được sợ hãi.

H: Tôi sợ cái gì? 

M: Để thực tại hiện hữu thì những ý tưởng về “ta” và “của ta” phải ra đi. Chúng sẽ ra đi nếu bà để chúng đi. Lúc đó trạng thái tự nhiên bình thường của bà tái xuất hiện – trong trạng thái đó bà không phải thân mà cũng chẳng phải tâm, không phải “ta” mà cũng chẳng phải “của ta” – bà ở trong một trạng thái hiện hữu hoàn toàn khác. Đó là trạng thái biết thuần túy về sự hiện hữu, mà không phải là cái này hay cái kia, không có sự nhận diện cái Ta với bất cứ gì riêng biệt, hay chung nhất. Trong ánh sáng thuần túy đó của ý thức hoàn toàn không có gì – ngay cả ý nghĩ không có gì. Chỉ có ánh sáng.

H: Có những người tôi yêu. Tôi cũng phải từ bỏ họ?

M: Bà chỉ buông bỏ sự bám víu lấy họ. Phần còn lại thì tùy họ. Họ có thể mất đi hoặc không mất đi sự quan tâm với bà.

H: Làm sao họ có thể? Họ không phải là của tôi sao?

M: Họ thuộc về thân xác của bà, chứ không phải của bà. Hay đúng hơn, không có ai là không phải của bà.

H: Thế còn những sở hữu của tôi?

M: Khi cái “của tôi” không còn, những gì sở hữu của bà ở đâu?

H: Xin cho tôi biết, có phải tôi sẽ mất tất cả khi mất đi cái “Tôi”?

M: Bà có thể mất mà cũng có thể không. Điều đó đối với bà không quan trọng. Cái mất của bà sẽ là cái được của một ai đó. Bà không quan tâm.

H: Nếu không quan tâm tôi sẽ mất tất cả!

M: Một khi không còn gì cả, bà không có gì phải lo.

H: Tôi còn phải lo cho sự sống còn của tôi.

M: Đó là chuyện của thân xác và nó sẽ được giải quyết bằng ăn, uống và ngủ. Những cái đó có đủ cho mọi người, miễn là mọi người chia sẻ.

H: Xã hội của chúng ta đặt nền tảng trên sự chiếm đoạt, chứ không phải sự chia sẻ.

M: Bằng cách chia sẻ bà sẽ thay đổi nó.

H: Tôi không thích chia sẻ. Dù sao những gì tôi sở hữu vẫn phải chịu thuế.

M: Đóng thuế thì không giống như tự nguyện chia sẻ. Xã hội không thể thay đổi bằng sự cưỡng bách mà bằng sự thay đổi cách suy nghĩ. Nếu hiểu rằng không có gì là của riêng bà, tất cả đều thuộc về mọi người thì lúc đó xã hội sẽ thay đổi.

H: Cái hiểu của một người chẳng đưa thế giới đi xa hơn được.

M: Thế giới trong đó bà sống sẽ chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc. Nó sẽ trở thành một thế giới lành mạnh và an vui, nó sẽ chiếu sáng và dung thông, gia tăng và trải rộng. Sức mạnh của một trái tim chơn thật thì vô biên.

H: Xin ông nói tiếp.

M: Nói không phải là thú tiêu khiển của Ta. Có khi Ta nói, có khi Ta không nói. Việc Ta nói hay không nói là một phần của tình huống nào đó, mà không tùy thuộc vào Ta. Khi có một tình huống Ta cần phải nói thì Ta nghe chính Ta nói. Trong những tình huống khác Ta không nghe Ta nói. Nói hay không nói đối với Ta cũng như nhau. Dù Ta có nói hay không thì ánh sáng và tình yêu của sự hiện hữu mà Ta là – không bị tác động; ánh sáng và tình yêu đó cũng không thuộc sự kiểm soát của Ta. Chúng là, và Ta biết chúng là. Có một sự thấy biết hân hoan, nhưng không có ai là người hân hoan. Dĩ nhiên, vẫn có ý thức về sự đặc thù, nhưng là sự đặc thù của một dấu vết ký ức, giống như sự đặc thù của một cảnh phim của một màn ảnh luôn luôn hiện tại. Nếu không có ánh sáng và màn ảnh thì không thể có hình ảnh. Khi biết được hình ảnh chỉ là một trò chơi của ánh sáng và màn ảnh thì bà không còn cho hình ảnh là có thật. Tất cả những gì cần làm là: Hiểu được rằng bà yêu cái Ta, cái Ta yêu bà, và ý thức “Ta hiện hữu” là sự liên kết cả hai, như một biểu hiện của sự đặc thù, dù tính đa dạng thì hiển nhiên. Hãy xem cái “Ta hiện hữu” như dấu hiệu của tình yêu giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa thực tướng và biểu hiện. Cũng như trong một giấc mơ tất cả đều khác nhau – ngoại trừ ý thức về “Ta” vì nó khiến bà có thể nói “Ta đã mơ” – thì ý thức “Ta hiện hữu” khiến bà có thể nói “Ta lại là cái Ta thật của Ta.” Ta chẳng làm gì cả và không gì có thể động đến Ta. Ta là cái Ta là và không gì có thể ảnh hưởng được Ta. Ta có vẻ như tùy thuộc tất cả, nhưng thật ra tất cả đều tùy thuộc Ta.

H: Làm sao ông có thể nói ông không làm gì cả? Thế không phải ông đang nói với tôi?

M: Ta không cảm thấy Ta đang nói. Hành vi nói đang diễn ra, chỉ thế thôi.

H: Tôi nói.

M: Thế à? Bà nghe chính bà đang nói và bà nói: Ta nói.

H: Mọi người đều nói: “Ta làm, Ta đến, Ta đi.”

M: Ta không bác bỏ những quy ước về ngôn ngữ của bà, nhưng chúng xuyên tạc và phá hoại thực tại. Chính xác hơn thì phải nói là: “Có hành vi nói, làm, đến, và đi.” Vì để cho bất cứ gì xảy ra thì toàn thể vũ trụ phải cùng xảy ra. Thật là sai lầm khi tin rằng bất cứ gì riêng biệt đều có thể tạo ra một sự kiện. Mỗi một nguyên nhân đều mang tính vũ trụ. Thân xác bà không thể nào tồn tại nếu toàn thể vũ trụ không góp phần vào sự tạo thành ra nó và duy trì sự sống của nó. Ta hoàn toàn biết rõ mọi chuyện xảy ra như chúng xảy ra vì thế giới là như nó là. Để tác động lên dòng sự kiện Ta phải đưa một yếu tố mới vào thế giới, và một yếu tố như thế chỉ có thể là chính Ta – sức mạnh của tình yêu và hiểu biết hội tụ trong Ta.

Khi một thân xác được sinh ra, đủ mọi thứ xảy ra đối với nó và bà tham dự trong đó, vì bà cho chính mình là thân xác. Bà giống như một người ở trong rạp xinê, cười và khóc với hình ảnh của cuốn phim, dù biết rất rõ chính mình luôn luôn ngồi trên ghế và hình ảnh của cuốn phim chỉ là một trò chơi của ánh sáng. Chỉ cần chuyển sự chú ý từ màn ảnh sang chính mình là đủ để phá vỡ sự si mê. Khi thân xác chết đi, trạng thái của sự sống mà bà hiện đang sống – một chuỗi diễn tiến gồm các sự kiện vật lý và tâm lý – kết thúc. Thậm chí nó có thể kết thúc ngay bây giờ mà không còn chờ cho đến khi thân xác này chết đi. Chỉ cần chuyển sự chú ý vào cái Ta và duy trì sự chú ý ở đó, là đủ. Tất cả xảy ra như thể có một quyền năng bí mật tạo ra và vận hành mọi chuyện. Hãy nhận ra bà không phải là người vận hành mà chỉ là người quan sát thì bà sẽ an lạc.

H: Quyền năng đó có tách biệt với tôi?

M: Dĩ nhiên là không. Nhưng bà phải bắt đầu bằng cách là một người quan sát vô tư. Lúc đó bà sẽ nhận ra toàn thể sự hiện hữu của bà chính là người yêu thương và người hành động mang tính vũ trụ. Bao giờ còn vướng mắc trong những phiền não của một con người riêng biệt thì bà không thể thấy gì ngoài con người. Nhưng tối hậu bà sẽ nhận ra bà không phải cái riêng biệt mà cũng không phải vũ trụ, bà ở ngoài cả hai. Như cái đầu nhỏ bé của cây bút chì có thể vẽ ra vô số bức tranh thì điểm vô phương vị của tánh biết vẽ ra nội dung của toàn thể vũ trụ bao la. Tìm ra được điểm đó thì bà sẽ tự do.

H: Tội tạo ra thế giới này bằng cái gì?

M: Bằng chính ký ức của bà. Chừng nào bà còn không biết chính mình là người tạo ra nó thì thế giới của bà còn hữu hạn và lập đi lập lại. Một khi đã thoát khỏi sự đồng hóa chính mình với quá khứ, bà hoàn toàn tự do sáng tạo một thế giới mới của sự hài hòa và cái đẹp. Hoặc có thể bà vẫn ở ngoài hiện hữu và phi hiện hữu.

H: Cái gì còn lại khi tôi buông bỏ ký ức?

M: Chẳng có gì còn lại.

H: Thế thì sợ quá.

M: Bà sẽ sợ cho đến khi bà chứng nghiệm tự do và những phước báu của tự do. Dĩ nhiên, có những ký ức còn cần thiết để nhận diện và hướng dẫn thân xác, và những ký ức như thế vẫn còn, nhưng không còn sự ràng buộc nào với một thân xác như thế; nó không còn là mảnh đất của tham ái và lo sợ. Tất cả những điều này không mấy khó để hiểu và thực hành, nhưng bà phải quan tâm. Nếu không có sự quan tâm thì không gì có thể được thực hiện.

Sau khi đã thấy bà chỉ là một mớ ký ức được đan kết với nhau bằng sự ràng buộc thì hãy bước ra khỏi và nhìn từ bên ngoài. Có thể bà sẽ nhận ra lần đầu tiên cái gì đó không phải là ký ức. Bà không còn là một con người nào đó, bận rộn với những chuyện riêng tư. Cuối cùng bà an lạc. Bà sẽ nhận ra rằng chưa hề có sai lầm gì với thế giới, mà chỉ có bà đã sai lầm nhưng bây giờ thì điều đó đã qua. Sẽ không bao giờ bà còn bị câu thúc trong mạng lưới của lòng tham ái, sinh khởi từ vô minh.

❁ ❁ ❁

78. Tất cả kiến thức đều là vô minh

Hỏi: Chúng tôi xin phép được hỏi ông đã giác ngộ như thế nào?

Maharaj: Trường hợp của Ta khá đơn giản và dễ dàng. Tôn sư trước khi qua đời đã bảo Ta: “Hãy tin Ta, ông là Thực tại Tối thượng. Chớ nghi hoặc lời Ta, chớ hoài nghi Ta. Điều Ta nói với ông là chân lý, hãy làm theo đó.” Ta đã không thể quên được lời dạy của Tôn sư, và vì không quên – Ta đã giác ngộ.

H: Nhưng thật ra ông đã làm gì?

M: Chẳng có gì đặc biệt. Ta sống cuộc đời của Ta, làm nghề của Ta, chăm sóc gia đình, và mỗi phút rảnh rỗi Ta chỉ nhớ nghĩ đến Tôn sư và lời ngài dạy. Tôn sư qua đời một thời gian ngắn sau đó, Ta chỉ còn ký ức để trông cậy. Thế là đủ.

H: Chắc chắn là phải do ân đức và quyền năng của Tôn sư.

M: Lời lẽ của Tôn sư là chơn thật nên đã trở thành sự thật. Chân ngôn luôn luôn là chân lý. Tôn sư đã chẳng làm gì cả, lời lẽ của ngài ứng nghiệm vì đó là chân lý. Bất cứ gì Ta làm đều phát xuất từ bên trong, không van xin mà cũng chẳng mong cầu.

H: Tôn sư đã khởi động một tiến trình nhưng không tham dự trong đó?

M: Ông muốn nói thế nào cũng được. Mọi chuyện xảy ra như chúng xảy ra – ai có thể giải thích tại sao và làm sao? Ta đã chẳng làm gì một cách có chủ ý. Tất cả đều tự đến – ước muốn buông bỏ, độc cư, và trở vào trong.

H: Ông không làm một cố gắng nào?

M: Không. Ông có tin hay không tin thì tùy, thậm chí Ta cũng chẳng nôn nóng giác ngộ. Tôn sư chỉ bảo Ta là cái Tối thượng rồi ngài qua đời. Ta hoàn toàn tin lời Tôn sư. Phần còn lại tự xảy ra. Ta nhận thấy Ta thay đổi – chỉ thế thôi. Thực tình mà nói, Ta đã sửng sốt. Một ước muốn sinh khởi trong Ta để xác minh lời của Tôn sư. Ta tin chắc Tôn sư đã không lừa dối Ta, và cảm thấy hoặc là Ta phải hiện thực hóa trọn vẹn ý nghĩa lời ngài dạy, hoặc là Ta chết đi. Ta cảm thấy rất cương quyết nhưng không biết phải làm gì. Ta vẫn thường trải qua hằng giờ suy nghĩ đến Tôn sư và sự đoan chắc của ngài – không phải tìm lý lẽ để chứng minh, mà chỉ nhớ đến những gì ngài đã nói với Ta.

H: Rồi chuyện gì xảy ra với ông? Làm sao ông biết được ông là cái Tối thượng?

M: Chẳng có ai đến bảo Ta, mà Ta cũng không được báo cho biết từ bên trong. Thật ra, lúc ban đầu khi còn cố gắng, Ta đã trải qua một số chứng nghiệm lạ thường: Ta thấy ánh sáng, nghe tiếng nói, gặp chư thiên nam, nữ và trò chuyện với họ. Nhưng sau khi nghe Tôn sư bảo Ta: “Ông là Thực tại tối thượng” thì Ta không còn thấy các linh ảnh và không còn trải qua những cơn xuất thần mà trở nên rất tỉnh lặng và đơn giản. Ta nhận ra chính mình ngày càng biết ít đi và càng ít tham ái cho đến khi Ta có thể nói trong sự kinh ngạc: “Ta không còn biết gì, Ta không còn muốn gì.”

H: Ông thật sự không còn tri kiến và tham ái, hay ông tự nhân cách hóa một con người giác ngộ dựa theo hình ảnh mà Tôn sư đã trao cho ông?

M: Tôn sư không hề trao cho, mà Ta cũng chẳng có sẵn một hình ảnh nào. Tôn sư không hề nói với Ta về một cái gì đó để mong đợi.

H: Còn nhiều chuyện xảy đến với ông. Hay ông đã đến đích của cuộc hành trình?

M: Không hề có cuộc hành trình nào. Ta là, như Ta đã luôn luôn là.

H: Thực tại Tối thượng mà ông đã phải đạt đến là gì?

M: Ta không còn bị mê lầm nữa, chỉ thế thôi. Ta vẫn thường tạo ra một thế giới rồi vào sống trong đó. Bây giờ Ta không làm điều đó nữa.

H: Thế thì ông ở đâu?

M: Trong cái không – ở ngoài hiện hữu và phi hiện hữu, bên ngoài ý thức. Cái không này rất viên mãn, đừng tội nghiệp cho Ta. Cũng như một người nói: “Ta đã hoàn tất công việc của Ta, Ta không còn gì để làm nữa.”

H: Ông cho sự giác ngộ của ông một cái ngày nhất định. Điều này có nghĩa một cái gì đã xảy ra với ông vào ngày đó. Chuyện gì đã xảy ra?

M: Tâm chấm dứt tạo ra sự kiện. Sự tìm kiếm muôn thuở và không ngừng đã kết thúc – Ta không cần gì nữa, Ta không mong cầu gì nữa – Ta không nhận bất cứ gì là của chính Ta. Chẳng còn cái “ta” để phấn đấu cho nó. Ngay cả ý thức “Ta hiện hữu” trơ trọi cũng phai nhạt dần. Còn một điều khác Ta nhận thấy là Ta đã mất hết tất cả những sự tin tưởng chắc chắn theo thói quen. Trước kia Ta chắc chắn về rất nhiều thứ, nhưng bây giờ Ta không chắc chắn về bất cứ gì. Ta cảm thấy Ta chẳng mất gì vì không biết gì, vì tất cả cái biết của Ta đều sai lầm. Sự không biết của Ta trong chính nó có sự hiểu biết một thực tế là: tất cả cái biết đều vô minh, và “Ta không biết” là câu nói đúng thật duy nhất mà tâm có thể phát biểu. Lấy ý tưởng “Ta đã được sinh ra” làm ví dụ. Ông có thể cho đó là đúng thật. Nhưng thật ra nó không đúng. Ông chưa bao giờ được sinh ra, và ông sẽ không bao giờ chết đi. Chính cái ý tưởng đã được sinh ra và chết đi, chứ không phải ông. Bằng cách đồng hóa ông với ý tưởng đó ông trở nên hữu tử. Cũng giống như trong phim xinê tất cả đều là ánh sáng, thì ý thức là một thế giới bao la. Khi quan sát kỹ, ông sẽ thấy tất cả danh xưng và hình tướng chỉ là những con sóng vô thường trong đại dương bao la của ý thức, và chỉ có ý thức mới có thể được nói là , chứ không phải những biến hóa của nó.

Trong sự bao la của ý thức một tia sáng xuất hiện, một điểm vô cùng nhỏ bé và vẽ ra vô số hình ảnh, ý nghĩ, cảm thọ, khái niệm và ý tưởng – giống như cây bút vẽ lên mặt giấy. Vết mực mà cây bút để lại chính là ký ức. Ông là cái điểm vô cùng nhỏ bé đó, và thế giới luôn luôn được tái tạo bằng chính chuyển động của ông. Ngay khi ông dừng lại thì không còn thế giới. Hãy nhìn vào trong và ông sẽ nhận ra điểm sáng đó là ảnh phản chiếu của nguồn sáng vô biên trong thân xác thành ý thức “Ta hiện hữu”. Duy nhất chỉ có ánh sáng, tất cả những cái khác chỉ xuất hiện.

H: Ông có biết ánh sáng đó không? Ông đã thấy nó chưa?

M: Đối với tâm thì nó có vẻ như bóng tối. Nó chỉ có thể được biết qua các ảnh phản chiếu của nó. Tất cả đều được thấy trong ánh sáng ban ngày – nhưng chính ánh sáng ban ngày thì không được thấy.

H: Liệu tôi có phải hiểu rằng tâm ông và tâm tôi như nhau?

M: Làm sao có thể như thế? Ông và cái tâm của riêng ông, được đan dệt bằng ký ức, ràng buộc bởi tham ái và lo sợ. Ta không có tâm của riêng Ta; cái gì Ta cần biết thì vũ trụ sẽ đem đến trước Ta, cũng như vũ trụ cung cấp thực phẩm cho Ta thọ dụng vậy.

H: Ông có biết tất cả những gì ông muốn biết?

M: Chẳng có gì Ta muốn biết. Nhưng nếu cần biết thì Ta biết.

H: Cái biết đó đến với ông từ bên trong hay bên ngoài?

M: Không phải như ông nghĩ. Cái bên trong của Ta là bên ngoài, và cái bên ngoài là bên trong. Ta có thể lấy từ ông cái biết cần thiết vào lúc này, nhưng ông không tách biệt khỏi Ta.

H: Chúng tôi nghe nói về Turiya – trạng thái thứ tư, trạng thái này là gì?

M: Là cái điểm sáng vẽ ra thế giới tức là Turiya. Là chính ánh sáng tức là Turiyatita. Nhưng danh xưng có ích gì khi thực tại thì quá cận kề?

H: Có sự tiến bộ nào trong tình trạng của ông? Khi so sánh ông hôm qua với ông hôm nay, ông có thấy chính ông thay đổi, và tiến bộ? Cái nhìn của ông về thực tại có mở ra theo chiều rộng và chiều sâu?

M: Thực tại thì bất di bất dịch nhưng thường xuyên chuyển động. Nó cũng giống như một con sông hùng vĩ – trôi chảy nhưng vẫn có đó – một cách vĩnh cửu. Cái trôi chảy không phải là con sông với lòng sông và hai bờ, mà là nước của con sông, thì Sattva Guna – sự hài hòa vũ trụ – đối với – TamasRajas – những thế lực của bóng tối và tuyệt vọng – cũng như thế. Trong Sattva luôn luôn có thay đổi và tiến bộ, trong Rajas có thay đổi và thoái bộ, còn Tamas tiêu biểu cho sự hỗn loạn. Ba Gunas này luôn luôn tương khắc lẫn nhau – đây là một thực tế và không gì có thể tranh biện với thực tế.

H: Tôi có phải luôn luôn trở nên trì trệ với Tamas, tuyệt vọng với Rajas? Thế còn Sattva?

M: Sattva là sự chiếu sáng thuộc bản chất chơn thật của ông. Ông luôn luôn có thể tìm ra nó ở ngoài tâm và ở ngoài vô số thế giới của tâm. Nhưng nếu chỉ muốn một thế giới thì ông phải chấp nhận ba Gunas – vật chất – năng lượng – sự sống – là bất khả phân, là một về tánh thể, và dị biệt về hình tướng. Cả ba hòa lẫn với nhau và trôi chảy trong ý thức. Trong thời gian và không gian có một dòng chảy bất tận: sinh ra và lại chết đi, tiến bộ, thoái bộ, rồi lại tiến bộ, thoái bộ – hiển nhiên là vô thủy và vô chung. Thực tại – tức tánh biết vô thời, bất biến, vô thân, vô tâm – là cực lạc.

H: Tôi hiểu. Theo ông mỗi vật đều là một trạng thái của ý thức. Thế giới có vô số vật – một hạt cát là một vật, một hành tinh là một vật. Chúng liên hệ với ý thức như thế nào?

M: Nơi ý thức không đạt đến thì vật bắt đầu. Một vật là một hình thức hiện hữu mà chúng ta chưa hiểu. Nó không biến đổi – luôn luôn như thế – nó có vẻ như có đó bởi chính nó – một cái gì xa lạ. Dĩ nhiên là nó ở trong Chit – ý thức, nhưng lại có vẻ như ở ngoài ý thức vì tính bất biến hiển nhiên của nó. Nền tảng của mọi vật là ở trong ký ức – nếu không có ký ức thì không có sự nhận biết. Sáng tạo – Phản chiếu – Loại bỏ: BrahmaVishnuShiva – là một tiến trình bất tận. Tất cả đều bị chi phối bởi tiến trình này.

H: Không có một lối thoát?

M: Ta không làm gì khác hơn là đang chỉ cho ông lối thoát. Khi hiểu rằng cái Một bao gồm cả Ba, và ông là cái Một thì ông không còn tạo ra thế giới.

H: Lúc đó chuyện gì xảy ra đối với ý thức của tôi?

M: Sau giai đoạn sáng tạo là giai đoạn tìm hiểu và nhận xét, rồi sau cùng đến giai đoạn từ bỏ và quên. Ý thức vẫn còn, nhưng ở trong trạng thái tiềm ẩn và tĩnh lặng.

H: Thế trạng thái biết chính mình vẫn còn?

M: Trạng thái biết chính mình sẵn có trong thực tại và không bao giờ phai nhạt. Nhưng ý thức về chính mình thì không phải là tính cách con người vô thường – Vyakti, mà cũng không phải tính cách cá nhân bị ràng buộc bởi nghiệp lực – Vyakta. Nó là cái còn lại sau khi tất cả những nhận dạng chính mình bị loại bỏ là hư giả – nó là ý thức thuần túy, ý thức [chính mình] là tất cả những gì hiện hữu, hay có thể hiện hữu.  Ý thức thì thuần khiết vào lúc đầu và vào lúc cuối, nhưng ở khoảng giữa nó bị tưởng tượng – tức là nguồn gốc của sáng tạo – làm cho cấu nhiễm. Trong tất cả mọi thời, ý thức vẫn luôn luôn như thế. Biết được ý thức như nó là, có nghĩa là giác ngộ và an lạc phi thời.

H: Ý thức “Ta là” thật hay không thật?

M: Cả hai. Nó là không thật khi chúng ta nói: “Ta là cái này, Ta là cái kia.” Nó là thật khi chúng ta nói: “Ta không là cái này mà cũng chẳng là cái kia.”

H: “Ta hiện hữu” chính là nhân chứng, hay tách biệt với nhân chứng?

M: Nếu không có cái này thì không thể có cái kia. Nhưng chúng không phải là một. Cũng giống như hoa và mầu sắc của hoa. Không có hoa thì không có mầu sắc; không có mầu sắc thì hoa không thể hiện hình. Ở ngoài cả hai là ánh sáng; khi tiếp xúc với hoa thì ánh sáng tạo nên mầu sắc. Hãy nhận ra bản tánh chơn thật của ông là thuộc về ánh sáng thuần khiết mà thôi, còn cái được nhận thức lẫn người nhận thức cùng xuất hiện và biến mất với nhau. Cái làm cho cả hai khả hữu – nhưng không phải cả hai – là sự hiện hữu chơn thật của ông, có nghĩa là không phải “cái này” hay “cái kia”, mà là sự thấy biết thuần túy cái hiện hữu và phi hiện hữu. Khi tánh biết xoay ngược trở lại với chính nó thì cảm nhận là không biết. Khi tánh biết xoay ra ngoài thì những cái có thể biết xuất hiện. Nói rằng: “Ta biết chính Ta” là một mâu thuẫn, theo nghĩa cái gì “bị biết” thì không thể là “chính Ta”.

H: Nếu cái Ta luôn luôn là cái không biết, vậy cái gì được giác ngộ trong sự giác ngộ chính mình?

M: Biết được cái bị biết không phải là Ta hay cái của Ta là đủ giải thoát. Không còn đồng hóa chính mình với một mớ ký ức và thói quen; trạng thái ngạc nhiên trước sự trải ra đến vô biên của hiện hữu; khả năng sáng tạo bất tận và tính cách hoàn toàn siêu việt của nó; sự vô úy tuyệt đối phát sinh từ nhận thức rõ tính hư giả và vô thường của từng tướng trạng của ý thức – đều tuôn trào từ một cội nguồn sâu thẳm và vô tận. Biết nguồn gốc là nguồn gốc, biểu hiện là biểu hiện, biết chính mình là nguồn gốc tức là giác ngộ chính mình.

H: Nhân chứng là thật hay không thật?

M: Không ai có thể nói: “Ta là nhân chứng.” Cái “Ta là” luôn luôn bị chứng kiến. Trạng thái thấy biết không dính mắc là ý thức nhân chứng, là tấm “gương tâm.” Nhân chứng xuất hiện và biến mất cùng với đối tượng, do đó nó không hẳn là thật. Tuy nhiên, dù đối tượng là bất cứ gì thì nhân chứng vẫn không thay đổi, do đó, nhân chứng cũng là thật. Nhân chứng cùng dự phần trong cái thật và cái không thật, và do đó nó là cây cầu giữa cái thật và cái không thật.

H: Nếu tất cả chỉ xảy ra với cái “Ta là” và nếu cái “Ta là” vừa là cái bị biết vừa là người biết vừa là chính sự biết thì nhân chứng làm gì? Nhân chứng có ích lợi gì?

M: Nhân chứng không làm gì và cũng chẳng có ích lợi gì?

H: Thế thì tại sao lại nói về nhân chứng?

M: Bởi vì nhân chứng có đó. Cây cầu chỉ phục vụ cho một mục đích duy nhất – vượt qua. Không ai xây nhà trên cầu cả. Cái “Ta là” nhìn sự vật, nhân chứng thấy xuyên suốt sự vật. Nó thấy sự vật như chúng là: hư giả và vô thường. Lên tiếng nói rằng: “Không phải Ta, không phải của Ta” là công việc của nhân chứng.

H: Có phải nhân chứng là cái thị hiện – Saguna – mà qua đó cái bất thị hiện – Nirguna – được miêu tả?

M: Cái bất thị hiện không thể được miêu tả. Không gì thị hiện có thể miêu tả cái bất thị hiện.

H: Thế tại sao ông lại nói về nó?

M: Vì đó là sinh quán của Ta.

❁ ❁ ❁

79. Con người, Nhân chứng và Cái Tuyệt đối

Hỏi: Chúng tôi đã dùng ma túy trong một thời gian khá lâu, hầu hết những loại ma túy chúng tôi dùng đều làm cho ý thức giãn nở. Ma túy cho chúng tôi kinh nghiệm về những trạng thái khác thường của ý thức, cao cũng như thấp. Chúng tôi biết rằng những cảm giác do ma túy đem lại đều không đáng tin cậy, nếu tốt nhất thì chỉ thoáng qua, còn tệ hại nhất thì hủy hoại cơ thể và nhân cách. Chúng tôi đang tìm những phương cách tốt hơn để phát triển ý thức và trạng thái siêu nghiệm. Chúng tôi muốn kết quả của sự tìm kiếm sẽ ở lại với chúng tôi và làm cho cuộc sống của chúng tôi phong phú, thay vì chỉ hướng về những ký ức nhạt phai và nuối tiếc vô vọng. Khi nói về tâm linh, chúng tôi muốn nói sự tìm hiểu chính mình và phát triển chính mình; mục đích của chúng tôi đến Ấn Độ là hoàn toàn tâm linh. Chúng tôi đã để lại thời kỳ Hippy vui vẻ phía sau; bây giờ chúng tôi rất nghiêm túc và sẵn sàng dấn thân. Chúng tôi biết có một thực tại để tìm kiếm, nhưng không biết làm thế nào để tìm ra thực tại và nắm giữ thực tại. Chúng tôi chỉ cần hướng dẫn mà không cần sự thuyết phục. Liệu ông có thể giúp chúng tôi?

Maharaj: Các ông không cần giúp mà chỉ cần hướng dẫn. Cái mà các ông tìm kiếm lại ở ngay trong các ông. Điển hình là trường hợp của Ta. Ta chẳng làm gì cho sự giác ngộ của Ta. Tôn sư bảo thực tại ở ngay trong Ta. Ta nhìn vào trong và tìm thấy thực tại trong đó, đúng như Tôn sư đã bảo Ta. Thấy thực tại cũng đơn giản như thấy chính mặt mình trong gương. Chỉ có điều là tấm gương phải trong và trung thực. Một cái tâm tĩnh lặng, không bị biến dạng bởi tham ái và lo sợ, hoàn toàn không còn ý nghĩ và ý tưởng, trong sáng trên mọi bình diện – là cần thiết để phản chiếu thực tại. Hãy trong sáng và tĩnh lặng, tỉnh thức và vô tư – tất cả những cái còn lại sẽ tự xảy ra.

H: Trước khi giác ngộ chân lý, ông đã phải làm cho tâm trong sáng và tĩnh lặng. Ông đã làm như thế nào?

M: Ta chẳng làm gì cả. Giác ngộ tự xảy ra. Ta sống cuộc sống của Ta, chăm lo những nhu cầu của gia đình. Tôn sư cũng không làm gì cả. Nó chỉ tự xảy ra như lời ngài đã nói là nó sẽ xảy ra.

H: Mọi thứ không thể chỉ xảy ra. Phải có một nguyên nhân cho từng sự vật.

M: Tất cả những gì xảy ra là nguyên nhân của tất cả những gì xảy ra. Nguyên nhân thì vô số; ý tưởng về một nguyên nhân duy nhất là ảo tưởng.

H: Chắc chắn ông đã phải làm một cái gì đó đặc biệt – một hình thức thiền quán hay Yoga. Làm sao ông có thể nói rằng giác ngộ tự xảy ra?

M: Chẳng có gì đặc biệt. Ta chỉ sống cuộc sống của Ta.

H: Tôi hết sức ngạc nhiên.

M: Ta cũng thế. Nhưng có gì đáng ngạc nhiên? Lời dạy của Tôn sư trở thành sự thật. Có sao đâu? Tôn sư biết Ta còn rõ hơn Ta biết chính Ta, chỉ thế thôi. Tại sao lại tìm kiếm nguyên nhân? Lúc đầu Ta dành đôi chút chú tâm và thời gian cho ý thức “Ta hiện hữu”, nhưng chỉ lúc đầu thôi. Chẳng bao lâu Tôn sư qua đời, Ta tiếp tục sống. Lời của Tôn sư chứng tỏ là chơn thật. Chỉ thế thôi. Tất cả chỉ là một tiến trình. Ông có khuynh hướng tách rời sự kiện theo thời gian và tìm kiếm nguyên nhân.

H: Công việc của ông hiện nay là gì? Ông hiện đang làm gì?

M: Ông tưởng tượng hiện hữu và làm giống nhau. Không phải thế. Tâm và thân chuyển động, thay đổi và làm cho nhiều tâm khác chuyển động và thay đổi, và đó gọi là làm, là hành động. Ta thấy ngay trong bản chất của hành động là tạo thêm hành động khác, giống như lửa tiếp tục bằng cách đốt cháy. Ta không hành động mà cũng chẳng làm cho người khác hành động. Ta luôn luôn biết rõ những gì đang xảy ra.

H: Trong tâm ông, hay còn cả trong tâm người khác?

M: Chỉ có một tâm, cái tâm đó đầy những ý nghĩ: “Ta là cái này, Ta là cái kia, cái này của Ta, cái kia của Ta.” Ta không phải tâm, chưa bao giờ là tâm và sẽ không bao giờ là tâm.

H: Vậy tâm xuất hiện như thế nào?

M: Thế giới gồm có vật chất, năng lượng và trí tuệ. Chúng thể hiện tự thân theo nhiều cách. Tham ái và tưởng tượng tạo nên thế giới, trí tuệ dung hòa hai cái và tạo ra ý thức về sự hài hòa và an lạc. Đối với Ta, tất cả chỉ xảy ra; Ta biết rõ tất cả nhưng không hề bị tác động.

H: Ông không thể biết mà không bị tác động. Có một sự mâu thuẫn trong ngôn từ. Nhận thức thì biến dịch. Một khi đã kinh nghiệm một cảm giác, ký ức không cho phép ông trở lại với trạng thái trước đó.

M: Đúng thế. Cái gì được thêm vào ký ức thì không thể tẩy xóa dễ dàng. Nhưng chắc chắn là có thể làm được, và trong thực tế Ta luôn luôn làm như thế. Cũng như một con chim đang bay, Ta không hề để lại dấu vết.

H: Nhân chứng có danh xưng và hình tướng, hay ở ngoài danh xưng và hình tướng?

M: Nhân chứng chỉ là một điểm trong tánh biết. Nó không có danh xưng hay hình tướng. Nó cũng như ảnh phản chiếu của mặt trời trong một giọt sương. Giọt sương có danh xưng và hình tướng nhưng điểm sáng li ti được tạo ra bởi mặt trời. Sự trong suốt và tĩnh lặng của giọt sương là điều kiện cần thiết nhưng tự thân nó thì chưa đủ. Tương tự như thế, sự trong sáng và im lặng của tâm là cần thiết để ảnh phản chiếu của thực tại xuất hiện trong tâm, nhưng tự thân sự trong sáng và im lặng thì chưa đủ. Phải có thực tại ở ngoài tâm. Vì thực tại luôn luôn sẵn có, do đó cần chú trọng đến các điều kiện cần thiết.

H: Liệu có thể nào tâm trong sáng và tĩnh lặng nhưng ảnh phản chiếu không xuất hiện?

M: Còn phải kể đến định mệnh. Cái không biết thì ở trong vòng cương tỏa của định mệnh; đúng là định mệnh, thật thế. Một người có thể phải chờ đợi. Nhưng dù bàn tay của định mệnh có nặng nề đến đâu thì vẫn có thể nhấc nó ra được bằng sự kiên nhẫn và tự chủ. Trực tâm và sự trong sáng sẽ xóa bỏ các chướng ngại và hình ảnh của thực tại sẽ xuất hiện trong tâm.

H: Làm sao một người có được tự chủ? Tôi không có quyết tâm?

M: Trước tiên phải hiểu rằng ông không phải con người mà ông tin ông là. Những gì ông nghĩ ông là chỉ là những ám thị hay tưởng tượng. Ông không hề có cha mẹ, ông không hề được sinh ra và ông sẽ không bao giờ chết đi. Hoặc là ông tin Ta khi Ta bảo ông thế, hoặc là ông đạt đến điều đó bằng nghiên cứu và tìm hiểu. Con đường của tín tâm thì nhanh chóng, còn con đường kia thì chậm nhưng chắc chắn. Nhưng cả hai cần phải được xác nghiệm trong hành động. Hãy hành động dựa trên điều ông cho là đúng – đây là con đường đưa đến chân lý.

H: Được hưởng chân lý và định mệnh là một và như nhau?

M: Phải, cả hai đều ở trong cái không biết. Giá trị của cái biết chỉ là hư giả. Cái biết luôn luôn thuộc về các chướng ngại; khi không còn chướng ngại một người có thể vượt ra ngoài.

H: Liệu sự hiểu biết rằng tôi không phải là thân xác có cho tôi sức mạnh của cá tính – cần thiết cho sự tự chủ?

M: Khi ông biết mình không phải là thân mà cũng chẳng phải là tâm thì thân và tâm không thể khống chế được ông. Ông sẽ đi theo chân lý dù có phải đến bất cứ đâu, và làm bất cứ gì cần làm dù phải trả bằng mọi giá.

H: Liệu hành động có thiết yếu cho sự giác ngộ chính mình?

M: Để giác ngộ, hiểu là chính yếu. Hành động chỉ là thứ yếu. Một người đã hiểu vững vàng sẽ không ngại hành động. Hành động là xét nghiệm chân lý.

H: Xét nghiệm có cần thiết không?

M: Nếu không thường xuyên xét nghiệm chính ông thì ông không thể phân biệt giữa thực tại và hoang đường. Quan sát và lý luận chặt chẽ thì hữu ích trong một chừng mực nào đó, nhưng thực tại thì nghịch lý. Làm sao ông biết được ông đã giác ngộ trừ khi ông quan sát các ý nghĩ và cảm thọ, ngôn từ và hành động của ông, và ngạc nhiên về những thay đổi xảy ra trong ông mà ông không biết tại sao và làm sao? Chính xác là như thế vì chúng bất ngờ đến nỗi ông biết chúng là thật. Cái có thể thấy trước và được mong đợi thì khó có thể là thật.

H: Con người xuất hiện như thế nào?

M: Một cách chính xác như cái bóng xuất hiện khi ánh sáng bị ngăn che bởi thân xác, thì con người xuất hiện khi sự thấy biết chính mình thuần túy bị ngăn che bởi ý tưởng “Ta là thân xác.” Và cũng như cái bóng thay đổi hình dạng và vị trí tùy theo đường nét của mặt đất, thì con người có vẻ vui mừng và đau khổ, nhàn hạ và trần lao, tìm và mất, tùy theo mô thức của định mệnh. Khi thân xác không còn, con người hoàn toàn biến mất, không bao giờ trở lại – chỉ nhân chứng và cái Không biết Vĩ đại còn lại.

Nhân chứng là cái nói: “Ta biết.” Con người nói: “Ta làm.” Nếu nói “Ta biết” thì không sai nhưng chỉ hạn chế, còn nói “Ta làm” thì hoàn toàn sai lầm, vì không có kẻ làm; tất cả đều tự xảy ra, kể cả cái ý nghĩ là một người làm.

H: Thế hành động là gì?

M: Vũ trụ đầy những hành động nhưng không có người hành động. Có vô số con người, nhỏ bé, to lớn và rất to lớn – qua sự nhận dạng – tưởng tượng chính họ hành động, nhưng điều này không thay đổi được thực tế rằng thế giới của hành động – Mahadakash – là một tổng thể duy nhất, trong đó tất cả đều tương thuộc và tương tác lẫn nhau. Các tinh tú tác động đến chúng ta một cách sâu sắc, và chúng ta cũng tác động đến các tinh tú. Lùi ra khỏi hành động để trở lại với ý thức, cứ phó mặc hành động cho thân và tâm vì nó thuộc phạm trù của thân tâm. Duy trì trạng thái nhân chứng thuần túy cho đến khi ngay cả hành vi nhân chứng hòa tan trong cái Tối thượng.

Thử tưởng tượng một khu rừng rậm đầy những cây đại thụ. Từ một thân cây xẻ ra một miếng ván và dùng cây bút chì viết lên miếng ván. Nhân chứng đọc các chữ viết và biết cây bút chì và miếng ván liên hệ rất xa xôi đến khu rừng, còn giòng chữ thì hoàn toàn không liên quan. Giòng chữ được thêm vào và nếu nó có biến mất thì cũng chẳng có gì quan trọng. Theo sau sự biến mất của tính cách con người luôn luôn là một cảm giác vô cùng nhẹ nhõm như thể vừa trút được một gánh nặng.

H: Khi ông nói “Ta ở trong trạng thái bên ngoài nhân chứng”, dựa trên kinh nghiệm nào mà ông nói như thế? Trạng thái đó khác biệt với giai đoạn chỉ là nhân chứng như thế nào?

M: Nó cũng giống như giặt vải in. Trước tiên là các mẫu vẻ phai dần, rồi đến nền mầu và cuối cùng là miếng vải chỉ còn trắng trơn. Tính cách con người nhường chỗ cho nhân chứng, rồi nhân chứng ra đi và tánh biết thuần túy còn lại. Miếng vải trắng từ lúc đầu và vẫn trắng vào lúc cuối, các mẫu vẽ và mầu nhuộm chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nào đó.

H: Liệu có thể có biết mà không có đối tượng của biết?

M: Biết với một đối tượng được gọi là hành vi nhân chứng. Khi có sự đồng hóa cái Ta với đối tượng – do tham ái và lo sợ tạo nên – trạng thái như thế được gọi là con người. Trong thực tế chỉ có một trạng thái, khi bị làm cho biến dạng bởi sự đồng hóa của cái Ta thì nó được gọi là con người, khi được tô mầu với ý thức hiện hữu thì nó là nhân chứng, khi vô sắc và vô biên thì nó được gọi là cái Tối thượng.

H: Tôi nhận thấy tôi luôn luôn bồn chồn, mong đợi, hy vọng, tìm kiếm, tìm thấy, vui mừng, từ bỏ, lại tìm kiếm. Cái gì đã khiến tôi luôn luôn sôi nổi như thế?

M: Ông thực sự đi tìm chính ông mà ông không biết. Ông mong chờ một tình yêu xứng đáng để yêu, và hoàn toàn đáng yêu. Vì vô minh ông đi tìm nó trong thế giới của những cái đối nghịch và mâu thuẫn. Khi tìm thấy nó bên trong thì sự tìm kiếm của ông kết thúc.

H: Như thế thì sẽ luôn luôn chỉ có cái thế giới đầy đau khổ này để tôi bằng lòng với.

M: Đừng phỏng đoán. Ông không biết được. Đúng là tất cả những sự thị hiện đều ở trong những cái đối nghịch. Lạc thú và đau khổ, tốt và xấu, cao và thấp, tiến bộ và thoái bộ, nghỉ ngơi và tranh đấu – chúng cùng đến và ra đi với nhau – và bao giờ còn một thế giới thì các mâu thuẫn luôn luôn có đó. Có những thời kỳ hoàn toàn hòa hợp, cực lạc và đẹp đẽ – những chỉ trong một giai đoạn. Cái gì toàn hảo sẽ trở về với nguồn gốc của sự toàn hảo – những cái đối nghịch tiếp tục cuộc chơi.

H: Làm sao tôi đạt đến sự toàn hảo?

M: Giữ im lặng. Cứ làm việc thế gian của ông, nhưng bên trong giữ im lặng. Rồi tất cả sẽ đến với ông. Đừng mong đợi việc làm của ông đưa ông đến với sự giác ngộ. Nó có thể lợi lạc cho người khác nhưng không lợi lạc cho ông. Hy vọng của ông ở trong sự giữ im lặng trong tâm và an tịnh trong tim. Những người giác ngộ đều rất an tịnh.

❁ ❁ ❁

Nisargadatta Maharaj – Ta là Cái đó (I am That)
Người dịch: Vũ Toàn

Ảnh: Zac Durant on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x