Trang chủ » Chương 8 – Sự độc lập của trẻ

Chương 8 – Sự độc lập của trẻ

by Hậu Học Văn
210 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Việc trẻ muốn được độc lập chính là bước tiến cơ bản mà chúng ta gọi là “phát triển tự nhiên”. Nếu chúng ta quan tâm đúng mức tới sự phát triển tự nhiên của trẻ, trẻ sẽ dần dần có được sự độc lập. Điều này không chỉ đúng với phương diện tâm lí mà còn phù hợp trên phương diện thể chất.

Nếu không gặp phải hiện tượng hồi quy, trẻ sẽ cố gắng có được sự độc lập về chức năng. Sự phát triển của trẻ sẽ trực tiếp đi theo hướng tự lập, như một mũi tên lao về phía trước. Một đứa trẻ vừa ra đời đã nhanh chóng bắt đầu quá trình độc lập của mình. Trong quá trình phát triển, trẻ không ngừng hoàn thiện bản thân, khắc phục khó khăn phía trước. Một sức mạnh quan trọng đang phát huy tác dụng bên trong con người trẻ, khiến trẻ không ngừng nỗ lực để đạt tới mục tiêu của mình. Sức mạnh này được các nhà khoa học gọi là “hành động có mục đích”. Nếu muốn tìm ra một thứ tương tự với kiểu “hành động có mục đích” này trong đời sống có ý thức của con người, thì đó có thể là cái mà chúng ta gọi là “ý muốn chủ quan”. Sự so sánh này chưa hoàn toàn chính xác. “Ý muốn chủ quan” thì bị hạn chế, nó là một phần trong ý thức của cá nhân. Còn “hành động có mục đích” thuộc về bản thân con người, có thể được coi là một động lực bẩm sinh, là khởi nguồn của sự tiến hóa. Sức mạnh quan trọng này có thể khiến trẻ thực hiện các loại hành vi trong quá trình trưởng thành. Nếu quá trình trưởng thành đó không bị bất cứ thứ gì làm phiền thì trẻ sẽ có được một “cuộc đời vui vẻ”. Trẻ sẽ trưởng thành tràn trề sức sống và niềm vui.

Việc trẻ muốn được độc lập chính là bước tiến cơ bản mà chúng ta gọi là “phát triển tự nhiên”. Nếu chúng ta quan tâm đúng mức tới sự phát triển tự nhiên của trẻ, trẻ sẽ dần dần có được sự độc lập. Điều này không chỉ đúng với phương diện tâm lí mà còn phù hợp trên phương diện thể chất, bởi vì thể chất cũng có xu hướng phát triển lên cao hơn, loại nhu cầu này rất mãnh liệt, chỉ có cái chết mới làm cho nó ngừng lại.

Sau đây chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu quá trình này và các giai đoạn trong đó. Sau khi ra đời, rời xa cái nôi là tử cung của mẹ, trẻ bắt đầu bước những bước đi độc lập đầu tiên, sau đó được trao cho một nguyện vọng mãnh liệt là đối diện với thế giới, học tập và tiếp thu tri thức. Có thể nói rằng, mỗi đứa trẻ vừa chào đời đã có “tâm lí chinh phục thế giới”. Thông qua việc học hỏi và tiếp thu tri thức từ thế giới xung quanh, trẻ hình thành nên cá tính của mình.

Đó là cột mốc đánh dấu giai đoạn đầu tiên sau khi trẻ chào đời. Nếu trẻ có khát khao chinh phục hoàn cảnh một cách mãnh liệt, thì thế giới trong mắt trẻ có thể nói là có sức hấp dẫn nhất định. Vì vậy chúng ta có thể nói (tuy không hoàn toàn chính xác) rằng trẻ đã yêu thế giới này, hay: “Đối với trẻ nhỏ, thế giới đầy rẫy những thứ kích thích cảm quan”.

 Cơ quan bắt đầu hoạt động đầu tiên trong cơ thể trẻ chính là các giác quan. Nếu những giác quan này không tiếp nhận mọi thứ thì còn dùng để làm gì? Các cơ quan này có thể ghi nhớ kích thích từ thế giới bên ngoài, giúp trẻ định hình cá tính. Khi nhìn ra xung quanh, chúng ta có thể nhìn thấy điều gì? Chúng ta có thể nhìn thấy mọi thứ. Chúng ta có thể nghe thấy gì? Chúng ta cũng có thể nghe thấy mọi loại âm thanh. Phạm vi cảm nhận của con người là vô cùng rộng lớn, nhưng không phải vừa ra đời chúng ta đã có thể phân biệt một loại âm thanh nào đó một cách dễ dàng. Thứ chúng ta nghe thấy đầu tiên là một loại âm thanh hỗn tạp. Sau đó, nhờ có quá trình tích lũy kinh nghiệm, chúng ta mới có thể phân biệt các loại âm thanh khác nhau. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lí học cấu trúc.

 Đó là hình thái phát triển tâm lí bình thường ở trẻ, trước hết trẻ tiếp nhận mọi thứ, sau đó mới bắt đầu sàng lọc.Giả dụ có một kiểu trẻ em khác, kiểu trẻ này không cảm nhận được sức hấp dẫn của thế giới bên ngoài, thay vào đó là một nỗi sợ hãi, thế giới đối với trẻ là khởi nguồn của mọi lo lắng.

 Đương nhiên hai tình trạng này sẽ có sự khác biệt rất lớn. Các nghiên cứu về trẻ em đã cho thấy, nếu ảnh hưởng của thế giới đến trẻ xuất hiện vào lúc trẻ được 6 tháng tuổi, sự phát triển của trẻ sẽ diễn ra bình thường. Có thể tìm được một số bằng chứng trên cơ thể trẻ, một số khác có thể được chứng minh thông qua các thí nghiệm. Ví dụ, khi dạ dày của trẻ bắt đầu tiết ra acid dạ dày để hỗ trợ tiêu hóa thức ăn, trẻ sẽ bắt đầu mọc răng. Cơ thể trẻ bắt đầu dần dần phát triển theo một số quy luật nhất định. Kết quả là, bắt đầu từ khoảng 6 tháng tuổi, thức ăn của trẻ không chỉ giới hạn ở sữa mẹ mà có thể ăn thêm một số thực phẩm trộn sữa, còn trước đó thì trẻ hoàn toàn phụ thuộc vào sữa mẹ, không thể tiêu hóa các loại thực phẩm khác. Vào thời điểm đó, trẻ đã đạt được độ độc lập nhất định. Đến 6 tháng tuổi, dường như trẻ muốn nói: “Chúng con không còn phụ thuộc vào mẹ nữa, chúng con có thể tồn tại độc lập rồi.” Tình trạng này cũng xảy ra vào thời kì thiếu niên, khi đó trẻ cảm thấy dựa dẫm vào cha mẹ là một việc đáng xấu hổ, và bắt đầu cố gắng nghĩ cách báo đáp cha mẹ.

 Chính vào thời kì này (được chúng ta coi là thời kì quan trọng nhất), trẻ có thể phát âm lần đầu tiên. Đó là dấu mốc đầu tiên của quá trình học ngôn ngữ của trẻ. Sau đó trẻ tiếp tục phát triển cho đến khi độc lập hoàn toàn. Khi biết nói, trẻ sẽ có thể bộc lộ suy nghĩ của mình, người lớn cũng không còn phải mất công dò đoán nhu cầu của trẻ nữa. Trẻ có thể giao lưu với thế giới này, vì ngôn ngữ chính là công cụ giao tiếp giữa người với người.

Có thể nói, giao tiếp với người khác bằng ngôn ngữ là một bước tiến quan trọng trong tiến trình độc lập của trẻ. Một đứa trẻ ban đầu không có gì, chưa biết làm gì, cho đến thời điểm này đã có thể biểu đạt suy nghĩ của mình, đồng thời có thể hiểu được lời nói của người khác. Trẻ dường như có khả năng nghe hiểu và sử dụng ngôn ngữ một cách đồng thời.

Không lâu nữa, trẻ sẽ tròn 1 tuổi, bắt đầu học đi, thoát khỏi những bó buộc bởi việc không biết đi. Trẻ có thể chạy nhảy khắp nơi. Nếu bạn không ở cạnh trẻ, trẻ có thể chạy hoặc trốn ở đâu đó. Đôi chân của trẻ được tự do hoàn toàn. Vì vậy mới nói, trẻ đang dần dần phát triển, điều này phản ánh những năng lực thúc đẩy trẻ trở nên độc lập đã tăng thêm một bước. Vấn đề hiện tại không còn là cho phép trẻ tự do hay muốn cho trẻ tự do nữa, sự độc lập của trẻ đã trở thành một thực tế hiển hiện trước mắt, là kết quả tất yếu của quá trình trưởng thành, là cơ hội trưởng thành mà tạo hóa ban tặng cho trẻ, chính tạo hóa đã cho trẻ khả năng độc lập, giúp trẻ có được sự độc lập.

Học đi là việc vô cùng quan trọng, không chỉ vì đây là một động tác phức tạp, mà còn vì nó là động tác trẻ học được chỉ một năm sau khi ra đời, hơn nữa còn diễn ra đồng thời với việc học nói và học tri thức từ thế giới xung quanh. Đối với trẻ, học đi là việc tối quan trọng. Các động vật có vú khác không cần phải học đi, chỉ có loài người phải trải qua quá trình này. Trước khi học đi, thậm chí là học đứng, trẻ phải trải qua sự phát triển trên ba phương diện. Trong khi đó, bò hay các động vật có vú khác vừa ra đời đã biết đi. Tất nhiên, những động vật này ở cấp thấp hơn con người rất nhiều, chỉ là hình thể to hơn chúng ta mà thôi. Con người vừa sinh ra không biết làm gì, và cần một khoảng thời gian rất dài để bồi dưỡng những khả năng này.

 Chỉ đứng vững và bước đi bằng hai chân thôi cũng là hoạt động đòi hỏi sự kết hợp của những cơ quan thần kinh vô cùng phức tạp, một trong số đó chính là tiểu não.

Hình 6 – Tiểu não nằm phía dưới Đại não

 Tiểu não của trẻ bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh chóng kể từ thời điểm trẻ được 6 tháng tuổi cho đến tháng thứ 14, 15, sau đó dần dần chậm lại. Tiểu não tiếp tục phát triển cho đến khi trẻ được bốn tuổi rưỡi. Hành vi đứng và bước đi của trẻ được quyết định bởi sự phát triển của tiểu não. Trên thực tế, trong giai đoạn này, trẻ đang phát triển trên hai phương diện. 6 tháng trẻ có thể biết ngồi, 9 tháng trẻ biết bò hoặc lăn, 10 tháng biết đứng, 12–13 tháng có thể biết đi. Đến 15 tháng tuổi, trẻ đã biết đi thành thạo.

Một phần khác của quá trình phức tạp này chính là sự phát triển của hệ thống thần kinh. Thần kinh cột sống có thể truyền mệnh lệnh tới các cơ bắp ở phần chân. Nếu thần kinh cột sống chưa phát triển thì mệnh lệnh sẽ không thể nào truyền đi được. Sự hình thành thần kinh cột sống bắt đầu trong chính giai đoạn này. Nó có vai trò tất yếu trong việc kiểm soát hoạt động của cơ bắp. Vì vậy, bước đi là sự phối hợp của nhiều yếu tố phức tạp. Yếu tố thứ ba chính là sự phát triển của xương. Chúng ta đều biết chân của trẻ sơ sinh chưa hoàn toàn được xương hóa mà vẫn còn mềm, không thể gánh vác trọng lượng của toàn bộ cơ thể. Trước khi trẻ học đi thì xương chân phải trở nên cứng hơn. Ngoài ra, còn cần chỉ ra một điểm nữa, khi vừa chào đời, xương sọ của trẻ chưa hoàn toàn liền thì đến giai đoạn này đã bắt đầu kín lại. Khi trẻ bị ngã sẽ không khiến não bộ bị tổn thương nghiêm trọng nữa.

 Trước giai đoạn này, chúng ta chưa thể dạy trẻ tập đi, vì bước đi được quyết định bởi sự phát triển của hàng loạt phương diện trong cơ thể trẻ, các cơ quan có liên quan trước hết cần phải phát triển hoàn thiện. Đi ngược lại quy luật phát triển của tự nhiên là điều lợi bất cập hại, bước đi là hành vi quyết định bởi sự phát triển tự nhiên. Tất cả mọi điều đều cần tuân theo quy luật tự nhiên. Tương tự, ý muốn ngăn cản trẻ bước đi cũng không phù hợp thực tế, bởi theo quy luật tự nhiên, các cơ quan sau khi hình thành sẽ được đưa vào sử dụng, một cơ quan sau khi hình thành bắt đầu phát huy tác dụng của nó. Công việc mang tính chức năng này trong thuật ngữ hiện đại gọi là “trải nghiệm môi trường”. Nếu không thu nhận được những kinh nghiệm này, các cơ quan không thể phát triển bình thường, hoặc không phát triển hoàn toàn.

 Chỉ khi được phát huy tác dụng một cách bình thường thì mới có nghĩa là phát triển hoàn toàn. Chỉ khi tiếp thu kinh nghiệm từ môi trường sống, trẻ mới phát triển toàn diện, chúng ta gọi loại kinh nghiệm này là “lao động”. Sau khi học nói, trẻ sẽ nói không ngừng nghỉ và chẳng ai có thể ngăn cản được trẻ. Việc khó nhất trên đời chính là bắt trẻ yên lặng. Nếu việc học đi và học nói của trẻ gặp phải trở ngại, trẻ sẽ không thể phát triển bình thường mà sẽ bị bó buộc. Ngược lại, hành vi đi, nhảy, chạy sẽ thúc đẩy đôi chân phát triển.

 Vì vậy, bằng những khả năng này, trẻ sẽ nâng cao tính tự lập của mình. Chỉ khi được tự do sử dụng những khả năng này thì mới có thể phát triển tự do, sự độc lập từng bước này thúc đẩy trẻ phát triển. Nói một cách đơn giản, tâm lí học hiện đại cho rằng, phát triển không phải là thứ từ trên trời rơi xuống. “Bất cứ hành vi nào của cá nhân cũng là sản phẩm của kinh nghiệm hoàn cảnh”.

 Nếu coi giáo dục là thứ hỗ trợ sự phát triển của trẻ, chúng ta hãy cảm thấy hào hứng trước mỗi bước tiến mới của trẻ. Chính vì hiểu rằng không thể mang lại sự giúp đỡ thực chất nào cho trẻ, nên chúng ta càng nên hoan hỉ trước mỗi tiến bộ của trẻ. Thế nhưng, trong giáo dục còn tồn tại một vấn đề, đó là sự phát triển của trẻ có thể đi ngược lại hoặc chậm chạp do thiếu kinh nghiệm từ môi trường.

Điều kiện tiên quyết của giáo dục là tạo ra môi trường cho trẻ, để trẻ có thể phát triển đầy đủ những năng lực đã được tạo hóa ban tặng. Điều này không chỉ là thỏa mãn trẻ hay khiến trẻ vui, mà còn có nghĩa là chúng ta buộc phải điều chỉnh quan niệm của bản thân, phối hợp với tạo hóa hoặc tuân thủ quy luật của tạo hóa. Những quy luật của tạo hóa đòi hỏi con người phải phát triển dựa vào kinh nghiệm từ môi trường sống.

Sau khi vượt qua được bước này, trẻ sẽ thu được kinh nghiệm ở tầng cao hơn. Khi quan sát trẻ, chúng ta sẽ phát hiện, trẻ luôn muốn mở rộng phạm vi độc lập của mình. Trẻ muốn làm theo ý muốn của bản thân, muốn nắm giữ mọi thứ, thích tự mặc quần áo, tự cởi quần áo, đóđều không phải là những việc chúng ta yêu cầu trẻ phải làm. Nguyện vọng của trẻ mãnh liệt đến mức phản ứng thường gặp của chúng ta sẽ là ngăn cản trẻ. Nhưng cần biết rằng, thứ chúng ta đang ngăn cản không phải là hành động của trẻ mà chính là quy luật của tự nhiên, hành vi của trẻ do tạo hóa quyết định, trẻ chỉ đang tuân theo đó mà thôi.

Trẻ dần dần thoát khỏi cảnh dựa dẫm vào người khác, cuối cùng trẻ còn đòi hỏi được độc lập về tinh thần. Trẻ muốn thu được kinh nghiệm bằng cách tự mình nghiền ngẫm chứ không phải là phụ thuộc vào ai đó. Trẻ bắt đầu tìm hiểu nguyên cớ của mọi việc, cá tính của trẻ được hình thành chính từ đây. Đó không phải là vấn đề mang tính lí luận mà là thực tế đang diễn ra trước mắt chúng ta. Chúng ta phải trao cho trẻ tự do hoàn toàn, xã hội phải cho trẻ được độc lập hay cho trẻ được phát huy bản thân một cách bình thường. Đây không phải là lời nói của chủ nghĩa lí tưởng, mà là thực tế đúc rút từ việc quan sát sự sống và tự nhiên. Chỉ có thông qua tự do và tiếp thu kinh nghiệm thì mới có thể hiện thực hóa sự phát triển của con người.

Đương nhiên chúng ta không thể áp đặt khái niệm tự do và độc lập của người lớn cho trẻ nhỏ. Người lớn không thể đưa ra định nghĩa chính xác về độc lập và tự do là vì trong quan niệm của họ, khái niệm tự do thật sự đáng lo ngại. Người lớn không hiểu bản chất của tự nhiên. Ý nghĩa của tự do, độc lập và bản thân sự sống chỉ được phản ánh chính xác trên con người trẻ. Tự nhiên trao cho con người sự tự do và độc lập phù hợp với độ tuổi và nhu cầu của mỗi cá thể. Tạo hóa biến tự do thành nguyên tắc của sự sống: Tự do hay là chết.

Tôi cho rằng, phương thức của tự nhiên đã giúp đỡ và tạo nền tảng cho việc chúng ta lí giải đời sống xã hội. Dường như một đứa trẻ trong giai đoạn phát triển sẽ trải ra toàn bộ trước mắt chúng ta, mà ta thì lại chỉ có thể nhìn thấy được một phần nhỏ trong đó. Trẻ mở ra trước mắt ta một thực tế có thể giúp ta tiến gần hơn đến chân lí. Sau khi sự thật về tự nhiên được khám phá, những nghi hoặc lập tức tiêu tan. Vì vậy, sự tự do mà trẻ có được trong quá trình phát triển sẽ giúp mở rộng không gian tư duy của chúng ta.

Vậy mục đích thực sự của quá trình không ngừng đạt đến độc lập này là gì? Mục đích đó đến từ đâu? Nó đến từ cá tính có thể duy trì sự phát triển không ngừng của bản thân. Nhưng nó xảy ra ở mọi nơi trong thế giới tự nhiên, mỗi sinh vật đều tự do phát huy vai trò của mình, vì vậy chúng ta ý thức được trẻ đang tuân theo quy luật của tự nhiên. Trẻ đã đạt được mức độ độc lập nhất định, sự độc lập này là nguyên tắc cốt yếu đảm bảo sự sinh tồn của mỗi sinh vật. Làm thế nào để đạt được mức độ độc lập đó? Chính là nhờ có một loạt hoạt động. Làm thế nào để có được tự do? Nhờ sự nỗ lực không ngừng. Sự sống không thể nào ngừng lại, không tiến lên phía trước. Độc lập không phải là một trạng thái tĩnh mà là quá trình không ngừng chinh phục. Để có được tự do, khỏe mạnh và hoàn mĩ, chỉ có thể thông qua con đường nỗ lực không ngừng nghỉ mà thôi.

 Bản năng đầu tiên của trẻ chính là không đòi hỏi sự giúp đỡ của người khác mà tự mình thực hiện. Trong quá trình tiến tới tự do, yêu cầu có ý thức đầu tiên là bảo vệ bản thân, khiến bản thân không bị ngáng trở bởi người khác, đồng thời hi vọng bằng nỗ lực để đạt được yêu cầu của mình.

Nếu cuộc sống lí tưởng nhất là ngồi yên một chỗ chẳng phải làm gì như nhiều người vẫn nghĩ thì cuộc sống trước khi chào đời của trẻ thực sự lí tưởng. Trẻ chỉ việc ở trong tử cung của mẹ, mọi việc đã có người mẹ lo. Hãy thử suy ngẫm về quá trình học nói và giao tiếp đầy gian nan. Nếu không làm gì cả thật sự là cuộc sống tốt đẹp nhất, vậy thì tại sao trẻ vẫn học nói, học ăn, tại sao còn muốn học đi đứng, suy nghĩ, tại sao còn cảm thấy vui vẻ hào hứng khi học được một điều gì đó từ bên ngoài?

 Những minh chứng trẻ đưa ra không chỉ dừng lại ở đó. Trẻ còn cho ta thấy rằng, phương pháp giáo dục của giới tự nhiên và của xã hội hoàn toàn khác nhau. Trẻ tìm kiếm sự độc lập về tư tưởng và thể xác thông qua hành vi của mình. Trẻ không quan tâm đến những phương diện khác mà chỉ muốn tự học hỏi tri thức, tiếp thu kinh nghiệm từ thế giới bên ngoài, đạt được mục đích bằng nỗ lực của mình. Chúng ta cần hiểu rằng, khi cho trẻ tự do và độc lập, chúng ta đang mang lại tự do cho một người lao động đang không ngừng nỗ lực, không lao động thìngười đó không thể tồn tại. Quy luật này cũng đúng với các sinh vật khác, ngăn cản sự phát triển quy luật này cũng đồng nghĩa với sự thụt lùi.

Mọi sinh vật trên thế giới này đều vận động, sự sống chính là hình thức biểu hiện cao nhất của sự vận động này. Sự sống chỉ có thể đạt đến độ hoàn mĩ thông qua hoạt động. Sức sống của xã hội được truyền từ đời này qua đời khác. Con người thường muốn giảm bớt công việc, muốn người khác làm thay công việc của mình, những mong muốn đi ngược lại quy luật tự nhiên này hình thành từ thời kì ấu thơ. Hiện tượng thoái hóa này xảy ra là vì trong những ngày đầu tiên sau khi chào đời, không có ai giúp đỡ trẻ tiến hành thích ứng với môi trường, khiến trẻ mất đi hứng thú với môi trường sống. Những đứa trẻ này thích được người khác giúp đỡ, thích được dựa dẫm, không thích kết bạn, chỉ thích ngủ. Trẻ có xu hướng quay lưng với thế giới, các nhà khoa học gọi hiện tượng này là “xu hướng quay về tử cung”. Những đứa trẻ sinh trưởng và phát triển bình thường đều sẽ dần trở nên độc lập, trốn tránh sự độc lập chính là hiện tượng “thoái hóa”.

Việc giáo dục những đứa trẻ bất bình thường này lại đặt ra trước mắt chúng ta một vấn đề khác. Chúng ta cần tiến hành chữa trị cho những đứa trẻ đã rời xa khỏi quỹ đạo phát triển bình thường này như thế nào? Những đứa trẻ này không yêu thế giới xung quanh chúng, vì chúng cho rằng ở đó đầy rẫy khó khăn. Trong mắt trẻ, những khó khăn này không thể giải quyết được. Những đứa trẻ này đã trở thành đối tượng nghiên cứu chính trong tâm lí trẻ em. Có thể gọi đó là bệnh lí học tinh thần trẻ em, những phòng chẩn trị cho trẻ em thi nhau nở rộ. Người ta đã thử áp dụng một vài phương pháp mới như phương pháp trị liệu bằng trò chơi, nhằm trợ giúp những đứa trẻ này.

 Môi trường học tập của trẻ không nên có quá nhiều trở ngại mà càng ít càng tốt, tốt nhất là dẹp bỏ được mọi trở ngại. Môi trường sống của trẻ nên có nhiều thứ hấp dẫn, đặc biệt là môi trường sống của những đứa trẻ bất bình thường nói trên. Làm như vậy để khiến trẻ cảm thấy vượt qua khó khăn là chuyện rất dễ dàng. Nên tạo cho trẻ nhiều hoạt động thú vị, bởi vì những hoạt động ấy sẽ giúp trẻ phát triển tốt hơn. Trong môi trường sống của trẻ cần có nhiều điều hấp dẫn, khiến trẻ tích cực tiếp thu kinh nghiệm. Chúng ta nên tuân theo những nguyên tắc cơ bản của sự sống và tự nhiên, những nguyên tắc này có thể khiến những đứa trẻ đang quay lưng lại với thế giới có thể trở nên yêu lao động, tràn đầy lòng nhiệt tình, từ sợ hãi (nỗi sợ hãi khiến trẻ không muốn giao tiếp với những người xung quanh mình) trở nên vui vẻ, khiến trẻ tận hưởng hết niềm vui trong cuộc sống.

 Từ lười biếng đến tràn đầy nhiệt huyết là cả một quá trình trị liệu, giống như con đường biến một đứa trẻ bình thường từ lười biếng trở nên tràn đầy sức sống. Phương pháp giáo dục mới tuân theo quy luật tự nhiên chính là cơ sở của phương pháp này. Để tránh diễn thuyết dài dòng, tôi chỉ xin giải thích một chút về khái niệm “thành thục” trước khi bước vào vấn đề chính. Bởi tôi quan niệm tiến hành giải thích chính xác và ngắn gọn về vấn đề này là việc làm quan trọng giúp sự hiểu biết được sâu hơn. “Thành thục” là từ được dùng trong di truyền học và phôi thai học, để biểu thị quá trình phát triển của tế bào sinh dục từ trước khi thụ tinh cho đến khi thụ tinh.

 Nhưng hiện nay trong tâm lí học trẻ em, từ “thành thục” có nhiều ý nghĩa hơn. Nó biểu thị một cơ chế phát triển hài hòa. Cơ chế này đảm bảo sự hoạt động cân bằng giữa các cơ quan, đảm bảo phát triển đúng hướng. Arnold Gesell đã phát triển lí luận này, tuy nhiên ông cũng chưa đưa ra được một định nghĩa chính xác. Nhưng nếu tôi lĩnh hội đúng tư tưởng của ông, thì ông cho rằng sự phát triển của cá nhân phải tuân theo nguyên tắc nhất định, những nguyên tắc này được giữ vững bởi những đặc tính và khuynh hướng bẩm sinh của trẻ sẽ mách bảo trẻ cần học tập như thế nào, học cái gì và vào thời điểm nào. Hay nói cách khác, Gesell cho rằng, một số chức năng ở trẻ em không chịu sự tác động của các mệnh lệnh.

Xem xét từ góc độ sự phát triển của cơ thể thì điều này là chính xác. Trên thực tế, giống như đã đề cập ở trên, trước khi các cơ quan phối hợp giúp cho hành vi đi của trẻ trở nên thành thục, chúng ta sẽ không thể dạy trẻ đi. Cũng tương tự như vậy, trước khi phát triển đến một mức độnhất định, trẻ sẽ chưa thể học nói (cũng giống như sau khi trẻ đã biết nói, không ai có thể ngăn trẻ nói).

Những người từng đọc các bài viết của tôi đều biết rằng, tôi luôn bảo vệ quan điểm rằng trẻ em phát triển tuân theo quy luật của tự nhiên. Tôi thực sự coi những quy luật đó là nền tảng của giáo dục. Lí luận của Gesell đúng trên góc độ sinh lí, nhưng lại không thích hợp với sự phát triển tinh thần của trẻ. Nhất nguyên luận của ông cho rằng: “Bộ não của trẻ cũng giống như cơ thể, là kết quả của một quá trình phát triển nhất định.” Nhưng điều này không chính xác. Nếu đưa một đứa trẻ đến nơi không có người sinh sống, không cho trẻ tiếp xúc với con người, chỉ cung cấp cho trẻ thức ăn và nước uống thì sự phát triển về thể chất của trẻ vẫn sẽ diễn ra bình thường, nhưng sự phát triển tâm lí sẽ không thể bình thường.

Đúng như tôi từng nói, chúng ta không thể nhào nặn nên một thiên tài. Chúng ta chỉ có thể khiến một đứa trẻ có thể phát huy đầy đủ tiềm năng của nó. Nếu đã nhắc đến quá trình “thành thục về thể chất”, thì chúng ta cũng cần chuẩn bị tiếp nhận quá trình “thành thục về tinh thần”. Như tôi đã nói ở các chương trước, cả hai quá trình này đồng thời diễn ra trong giai đoạn phôi thai.

 Chúng ta không có cách nào nhận thức hoàn chỉnh về toàn bộ quá trình phát triển của các cơ quan. Sự phát triển của các cơ quan cũng không phải là một quá trình tuần tự, lần lượt. Các cơ quan xuất hiện trong vùng lân cận của điểm hoạt động. Thời gian xuất hiện các điểm hoạt động này rất ngắn, sau khi các cơ quan hình thành, chúng sẽ biến mất. Ngoài các điểm này hoặc trung tâm hoạt động, trong quá trình các cơ quan phát triển còn có khá nhiều thời kì mẫn cảm. Những thời kì mẫn cảm này có tác dụng rất lớn trong việc chỉ đạo hành vi của động vật cho tới khi chúng có thể sinh tồn trên thế giới này. Điều này đã được nhà sinh vật học người Hà Lan – De Fraise chứng minh. Chúng ta phát hiện nó rất hài hòa với sự phát triển tâm lí của trẻ. Điều này chứng minh rằng, quy luật phát triển của sự sống phù hợp với bản chất của con người.

 Quá trình “thành thục” không chỉ là sự tổng hòa tác dụng của gen, bởi vì ngoài ảnh hưởng của gen còn có yếu tố môi trường. Môi trường có vai trò rất quan trọng trong quá trình thành thục.

 Tâm lí chỉ có thể trở nên thành thục thông qua kinh nghiệm từ môi trường. Kinh nghiệm môi trường trong mỗi giai đoạn của quá trình phát triển đều sẽ thay đổi hình thái, bởi vì loại hình “hành động có mục đích” cũng thay đổi, kinh nghiệm môi trường không ngừng xuất hiện lặp đi lặp lại trước mắt cá thể. Cũng bởi sự lặp lại đó, một chức năng mới sẽ đột ngột xuất hiện. Một mô hình chức năng riêng được thiết lập dựa trên những phương thức mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy. Những hoạt động lặp đi lặp lại này và chức năng mà chúng tạo ra xem ra không những không có mối liên hệ trực tiếp, mà chúng còn biến mất đồng thời với sự xuất hiện của những chức năng này. Đồng thời, trẻ nhỏ bắt đầu hướng sự chú ý tới những hoạt động khác nhằm chuẩn bị cho sự sản sinh của một loạt chức năng khác. Nếu trẻ không thể tiếp thu kinh nghiệm từ môi trường theo đúng quy luật tự nhiên thì tính nhạy cảm với môi trường của trẻ cũng dần dần biến mất. Điều này sẽ mang lại ảnh hưởng tiêu cực cho quá trình phát triển, cũng như ảnh hưởng đến sự thành thục của trẻ.

 Gần đây, các giáo trình tâm lí học đã đưa ra một định nghĩa rộng về sự thành thục: “Thành thục bao gồm sự thay đổi kết cấu chủ yếu do di truyền mang lại, cũng chính là nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ trứng đã thụ tinh, nhưng sự thay đổi này ở một mức độ nhất định là do tác dụng tương hỗ giữa cá thể và môi trường”.

Theo những gì chúng ta phát hiện được, có thể giải thích như sau: Trong kết cấu bộ não sẵn có sức thẩm thấu của con người, khi con người vừa chào đời, đã có một loại sức mạnh (hành động có mục đích). Tác dụng và sự khác biệt của nó đã được chúng ta bàn đến trong chương nói về “tinh vân”.

 Dưới sự chỉ đạo của thứ gọi là “giai đoạn mẫn cảm”, trong thời kì sơ sinh, kết cấu này sẽ bắt đầu có sự thay đổi(1). Sự trưởng thành và phát triển tâm lí chịu sự kiểm soát của nhữngphương diện sau: Bộ não có sức thẩm thấu, tinh vân và giai đoạn nhạy cảm. Đó đều là những yếu tố di truyền, là đặc trưng của loài người. Nhưng tất cả những yếu tố này chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua việc tiếp thu kinh nghiệm từ môi trường bằng những hoạt động tự do.

❁ Tiếp Chương 9

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bình chọn nhiều nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] của Tạo hóa ❁ Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống ❁Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ […]

1
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x