Trang chủ » Chương 14. Đôi tay và trí tuệ

Chương 14. Đôi tay và trí tuệ

by Hậu Học Văn
191 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Sự phát triển của vận động gồm có hai mặt. Một mặt vận động tuân thủ quy luật của sinh vật, mặt khác vận động có liên quan mật thiết với thế giới nội tâm của con người, và cả hai phương thức đều phụ thuộc vào việc sử dụng cơ bắp. Đối với việc nghiên cứu trẻ nhỏ, chúng ta phải tuân thủ cả hai lộ trình phát triển, một là sự phát triển của tay, hai là sự phát triển của khả năng giữ thăng bằng hay là khả năng đi lại.

Nghiên cứu sự phát triển khả năng vận động là công việc vô cùng thú vị, không chỉ bởi vì đó là một công việc phức tạp mà còn bởi mỗi giai đoạn của quá trình phát triển đó đều có thể được nhìn thấy rõ ràng.

Trong hình (9), tôi minh họa sự phát triển của vận động thông qua hai đường thẳng song song, phía dưới mỗi đường có khá nhiều các đường nhỏ hơn. Vạch đậm nhất đánh dấu thời gian 1 năm, vạch mờ hơn một chút biểu thị khoảng cách 6 tháng. Đường kẻ phía dưới biểu thị sự phát triển của tay, đường kẻ phía trên biểu thị sự phát triển khả năng giữ thăng bằng và đi đứng. Vì vậy, hai đường thẳng này mô tả lại sự phát triển của tứ chi theo hai nhóm.

Hình 9 – Sự phát triển của vận động

Sự phát triển tứ chi của động vật bậc thấp diễn ra cùng lúc, còn ở con người thì sự phát triển của tay và chân diễn ra lần lượt, đồng thời thỏa mãn những mục đích khác nhau. Cũng có nghĩa là chân và tay có những chức năng khác nhau. Sự phát triển khả năng đi đứng và giữ thăng bằng của con người rất có quy luật mà chúng ta cho rằng đó là một hiện tượng bình thường trong sự phát triển của con người. Chúng ta có thể đảm bảo rằng, mỗi đứa trẻ ra đời rồi sẽ biết đi, con người sẽ biết học cách đi đứng của nhau. Nhưng không ai dám nói chắc chắn rằng, đôi tay của con người trong tương lai sẽ biết làm những gì. Có ai dám chắc rằng một đứa trẻ trong tương lai sẽ có những kĩ năng đặc biệt nào? Tổ tiên của chúng ta đã có vô vàn các kĩ năng khác nhau. Căn cứ vào việc nghiên cứu chân và tay của con người, hai đường thẳng trong hình sẽ có những ý nghĩa khác nhau.

Chức năng của chân – không còn nghi ngờ gì nữa – có cơ sở sinh học nhất định. Thậm chí những chức năng này có liên quan đến sự phát triển bên trong bộ não. Ngoài ra, con người là loài duy nhất trong số các loài động vật có vú có khả năng đi lại chỉ bằng hai chân, còn các loài khác phải đi lại bằng bốn chân.

Khi đã nắm vững khả năng giữ thăng bằng, con người có thể đứng thẳng trên hai chân. Nhưng có được khả năng giữ thăng bằng này không phải là một việc dễ dàng, đó là kĩ năng đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài. Để đạt được mục đích đó, con người phải đặt hoàn toàn hai bàn chân xuống đất chứ không chỉ có ngón chân tiếp xúc với mặt đất như ở các loài động vật khác. Tất nhiên động vật bốn chân chỉ cần dùng móng tiếp xúc với mặt đất là đã có thể nâng đỡ trọng lượng của toàn bộ cơ thể. Chúng ta có thể nghiên cứu bàn chân của con người dưới ba góc độ: Sinh lí học, sinh vật học và giải phẫu học. Việc nghiên cứu này rất thú vị.

Nếu như bàn tay thiếu đi sự chỉ đạo sinh vật giống như bàn chân, nếu sự vận động của tay là không thể quyết định trước, vậy thì điều gì đang quyết định sự phát triển của đôi tay? Do không có sự chỉ đạo sinh vật và tâm lí nên chắc chắn sự chỉ đạo đó là do đại não nắm giữ. Đôi tay có mối liên hệ trực tiếp với tâm lí của con người, không những có sự liên hệ với tâm lí của một cá thể nào đó, mà còn có liên hệ với phương thức sống khác nhau ở thời điểm và không gian hiện tại. Bàn tay gắn bó chặt chẽ với sự phát triển tâm lí của con người, xét từ góc độ lịch sử thì đôi tay có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của các nền văn minh. Đôi tay thể hiện tư tưởng của con người, các sản phẩm thủ công của con người đều đã được ghi dấu trong lịch sử. Mỗi nền văn minh vĩ đại đều sẽ sản sinh ra những tác phẩm điển hình. Có rất nhiều sản phẩm thủ công của Ấn Độ mà con người ngày nay khi mô phỏng lại cũng gặp rất nhiều khó khăn. Chúng ta cũng có thể phát hiện ra những tác phẩm tinh xảo như vậy ở Ai Cập. Đương nhiên cũng có thể tìm thấy một số di tích ở những nền văn minh thấp hơn, chỉ có điều là những tác phẩm đó vẫn còn ở trình độ thô sơ hơn mà thôi.

Sự phát triển kĩ năng của đôi tay đồng bộ với sự phát triển tâm lí. Tất nhiên, các tác phẩm càng tinh xảo thì trí tuệ đầu tư vào đó càng nhiều. Ở châu Âu thời trung cổ có một thời kì thức tỉnh tâm lí, rất nhiều sách vở và bản thảo viết tay thể hiện tư tưởng đương thời được chế tác rất đẹp, thậm chí những thứ thể hiện tinh thần rời xa thế tục cũng được làm rất tinh xảo. Chúng ta không khỏi thán phục trước những nhà thờ được tạo nên bởi bàn tay của các nghệ nhân thời bấy giờ. Ở bất cứ nơi nào có nhu cầu tâm linh thì đều có những giáo đường tuyệt đẹp như vậy.

Thánh Francis thành Assisi Francesco d’Assisi (có lẽ là tâm hồn tinh khiết nhất của nhân loại) từng nói: “Hãy nhìn những công trình kiến trúc vĩ đại đó, chúng không chỉ là giáo đường, mà còn là ngọn lửa của tâm hồn chúng tôi!”

Có một ngày, thánh Francis và những người đồng hành được mời xây dựng một nhà thờ. Vì bọn họ đều rất nghèo nên đã tận dụng các nguyên liệu sẵn có, đất đá, cuối cùng xây dựng nên một nhà thờ. Chỉ cần trong tâm hồn con người còn cồn tại tinh thần tự do, anh ta sẽ bộc lộ nó qua các tác phẩm của mình và điều đó được hỗ trợ bởi sức mạnh của đôi tay. Ở bất cứ nơi đâu có những tác phẩm thủ công của con người, chúng ta cũng có thể cảm nhận được tư tưởng của thời đại và tinh thần của những con người làm nên các tác phẩm đó.

Nếu không tìm được xương cốt còn lại của con người thời cổ đại, chúng ta làm sao có thể tái hiện lại hình dáng con người thời đó, làm sao tái hiện lại cuộc sống thời kì đó? Chỉ có một cách duy nhất là thông qua những tác phẩm nghệ thuật còn sót lại từ thời kì đó mà thôi. Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy một số di tích của nền văn minh bậc thấp từ thời tiền sử. Những tác phẩm đó hầu hết đều được làm từ những khối đá lớn. Chúng ta không khỏi thắc mắc rằng những con người thời đó làm thế nào mà hoàn thành được công việc ấy? Các tác phẩm nghệ thật tinh xảo ở những nơi khác cũng chứng minh những nền văn minh cao hơn.

Vì vậy chúng ta có thể nói rằng đôi tay của con người chịu ảnh hưởng bởi trí tuệ của người đó; đời sống tinh thần, tình cảm và những di tích còn sót lại đã phản ánh tình trạng cuộc sống của con người đương thời. Tạm gác vấn đề tâm lí sang một bên, chúng ta vẫn có thể phát hiện rằng, sự thay đổi môi trường sinh tồn của con người là kết quả của đôi bàn tay. Những sản phẩm của con người dường như chịu sự dẫn dắt của trí tuệ, bởi nếu như con người chỉ dùng ngôn ngữ để thể hiện tư tưởng, nếu trí tuệ của con người chỉ thể hiện qua ngôn ngữ, thì tổ tiên của loài người đã không để lại cho chúng ta bất cứ di tích nào. Chúng ta phải cảm ơn đôi tay – người bạn của bộ não, bởi những dấu tích của nền văn minh của con người đều được lưu lại nhờ đôi bàn tay. Đôi tay chính là tài sản tốt nhất mà chúng ta được thừa hưởng.

Tay và tâm lí con người có mối liên hệ chặt chẽ. Thuật xem tay cổ xưa đã nhận định rằng trên bàn tay con người còn lưu lại lịch sử của chủng tộc, tay là một cơ quan tinh thần. Vì vậy, việc nghiên cứu sự phát triển tâm lí của trẻ phải kết hợp với việc nghiên cứu hoạt động của đôi tay trẻ, bởi vì tay chịu sự kiểm soát của bộ não. Tay và bộ não gắn liền với nhau, hoạt động của đôi tay là biểu trưng tốt nhất cho hoạt động của bộ não.

Chúng ta có thể nhận định rằng, nếu không có sự trợ giúp của đôi tay, trí lực của trẻ vẫn sẽ phát triển tới một trình độ nhất định, nhưng nếu có sự hỗ trợ của đôi tay thì trí tuệ của trẻ sẽ phát triển tới một trình độ cao hơn, tính cách của trẻ cũng mạnh mẽ hơn. Vì vậy, mặc dù hiện tại chúng ta chỉ muốn nói về vấn đề tâm lí thì trên thực tế, nếu trẻ không tìm được cơ hội phát huy khả năng vận động trong môi trường, nhân cách của trẻ sẽ chỉ dừng lại ở một trình độ rất thấp. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, nếu trẻ không thể sử dụng đôi tay, nhân cách cũng sẽ chững lại ở trình độ thấp, thể hiện ở việc trẻ không nghe lời, không nhiệt tình, lười biếng và trầm cảm. Những đứa trẻ có cơ hội vận động đôi tay sẽ phát triển nhanh hơn, tính cách cũng kiên cường hơn những đứa trẻ không biết sử dụng đôi tay.

Điều này khiến chúng ta nhớ lại lịch sử Ai Cập. Ở đất nước này còn lưu lại rất nhiều tác phẩm thủ công trên tất cả các lĩnh vực như nghệ thuật, kiến trúc, tôn giáo. Những hình khắc trên các lăng mộ cổ cho thấy phần thưởng có ý nghĩa nhất đối với người đương thời là gọi họ là “người có nhân cách”. Vì vậy sự phát triển tính cách đối với những người có trình độ tay nghề cao là rất quan trọng. Điều này lại một lần nữa chứng tỏ, hoạt động của đôi tay và sự phát triển của tính cách và văn minh là đồng bộ với nhau, đồng thời đôi tay có mối liên hệ với cá tính.

Chúng ta có thể giả thiết ngược lại với những điều đã nói ở trên. Tất cả mọi người đều chỉ có thể dùng đôi chân để đứng và duy trì thăng bằng. Cách họ nhảy và chạy có thể sẽ khác với chúng ta, nhưng họ vẫn chỉ dùng chân để đi lại.

Sự phát triển của vận động gồm có hai mặt. Một mặt vận động tuân thủ quy luật của sinh vật, mặt khác vận động có liên quan mật thiết với thế giới nội tâm của con người, và cả hai phương thức đều phụ thuộc vào việc sử dụng cơ bắp. Đối với việc nghiên cứu trẻ nhỏ, chúng ta phải tuân thủ cả hai lộ trình phát triển, một là sự phát triển của tay, hai là sự phát triển của khả năng giữ thăng bằng (hay là khả năng đi lại). Từ hình (9), chúng ta có thể nhìn thấy, khi trẻ lên 1 tuổi rưỡi thì mối liên hệ giữa hai phương diện này mới bắt đầu xuất hiện. Khi tròn 1 tuổi rưỡi, trẻ bắt đầu mong muốn dùng tay cầm được một số vật nặng, và cần có đôi chân nâng đỡ. Đôi chân – công cụ hoạt động của con người – có thể đưa anh ta đi bất cứ nơi đâu anh ta muốn, nhưng sau khi tới đích thì công việc còn lại do đôi tay đảm trách. Con người có thể đi rất xa, bất cứ nơi đâu trên thế giới đều có dấu chân của con người. Đi là một việc con người phải làm từ khi sinh ra cho tới lúc qua đời. Nhưng sau khi chết đi, con người để lại được gì? Điều gì có thể chứng minh cho sự tồn tại của một con người trên thế giới này? Đó chính là những sản phẩm do đôi tay làm ra.

Qua những nghiên cứu về ngôn ngữ, chúng tôi phát hiện ra rằng, sự phát triển ngôn ngữ của con người có liên hệ với thính lực, còn hành vi thì có liên quan đến thị giác, bởi vì chúng ta phải dùng mắt quan sát thì mới biết được phải đi đến đâu. Khi đôi tay làm việc, chúng ta cũng phải dùng mắt để quan sát công việc. Thính giác và thị giác có quan hệ mật thiết với sự phát triển tâm lí của trẻ. Trong quá trình phát triển tâm lí, đầu tiên trẻ phải thông qua quan sát thế giới xung quanh rồi mới có thể phát huy tiềm năng của bản thân. Tất nhiên, trước khi học đi, trẻ cũng phải tìm hiểu thế giới xung quanh mình. Vì vậy trước khi vận động, trẻ buộc phải tiến hành quan sát. Sự hiểu biết về thế giới có thể dẫn dắt hành vi của trẻ. Những kiến thức về thế giới xung quanh và sự vận động đều phụ thuộc vào trình độ phát triển tâm lí, đó chính là lí do vì sao một đứa trẻ sơ sinh lại nằm bất động ở một chỗ. Sau khi có thể đi lại, trẻ sẽ chịu sự chỉ đạo của bộ não.

Cầm hoặc nắm là động tác vận động đầu tiên mà trẻ học được. Trước khi động tác cầm nắm xuất hiện, trẻ đã biết hướng sự chú ý vào đôi bàn tay. Năng lực lí giải vô thức giờ đây đã chuyển thành có ý thức. Qua quan sát, chúng tôi phát hiện thấy thứ đầu tiên thu hút sự chú ý của trẻ là đôi tay chứ không phải đôi chân. Sau đó động tác cầm nắm có bước phát triển mới, không còn là động tác mang tính bản năng nữa mà đã trở nên có ý thức. Khi trẻ được 10 tháng tuổi, việc quan sát môi trường xung quanh khiến nội tâm trẻ nảy sinh hứng thú cao độ, từ đó kéo theo ham muốn mãnh liệt. Động tác của trẻ lúc này không còn là động tác nắm đơn thuần nữa mà qua động tác cầm nắm đã cho thấy đầy đủ năng lực của đôi tay trẻ. Khi đã hiểu rõ về môi trường xung quanh, trẻ bắt đầu hành động. Trẻ bắt đầu không ngừng đóng, mở ngăn kéo hay các loại hộp, lôi quần áo trong tủ ra, bỏ nút chai ra khỏi chai, bày các thứ trong giỏ ra sàn nhà, sau đó lại cất đi. Thông qua những hoạt động này, khả năng kiểm soát đôi tay của trẻ ngày càng trở nên mạnh hơn.

Vậy trong lúc đó, đôi chân có gì thay đổi không? Lúc này ở đôi chân vẫn chưa xuất hiện sự kiểm soát trí lực và kiểm soát ý thức. Ở góc độ giải phẫu học, tiểu não lúc này đang phát triển nhanh chóng, nhưng tiểu não lại là cơ quan kiểm soát sự cân bằng cơ bắp.

Cơ thể mỗi đứa trẻ dường như có một chiếc đồng hồ báo thức sẽ đánh thức khả năng giữ thăng bằng. Ở đây môi trường không có bất cứ tác dụng gì, mà tất cả mệnh lệnh, tín hiệu đều đến từ bộ não. Sau rất nhiều nỗ lực và kiên trì, cuối cùng trẻ đã có thể ngồi dậy và chập chững học đi. Các chuyên gia tâm lí nói rằng, để có thể đứng dậy, con người cần trải qua bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là ngồi dậy. Giai đoạn thứ hai là lật người, sau đó là bò. Nếu trong giai đoạn này, bạn cho trẻ bám lấy hai ngón tay của mình, trẻ sẽ dùng chân bước đi nhưng chỉ có ngón chân là tiếp xúc với mặt đất. Sau đó trẻ có thể tự mình đứng dậy, đồng thời cả bàn chân tiếp đất và có tư thế đứng thẳng bình thường, đương nhiên là trẻ vẫn cần bám vào những thứ khác, ví dụ như áo của mẹ. Không lâu sau đó, trẻ bước vào giai đoạn thứ tư, không cần sự giúp đỡ của người khác nữa mà có thể tự mình bước đi. Tất cả những điều này có thể được coi là kết quả của quá trình thành thục bên trong con người trẻ. Sau đó, trẻ có thể sẽ nói: “Con đã tự đi được rồi, con đã được tự do!”

Lúc này trẻ đã đạt đến một mức độ độc lập mới, bởi vì ý nghĩa của độc lập chính là bản thân có thể tự làm mọi việc. Khái niệm độc lập trong triết học là: “Con người bằng nỗ lực đạt được sự độc lập”. Có thể làm được một việc gì đó mà không cần nhờ đến sự trợ giúp của người khác chính là độc lập. Nếu như vậy thì trẻ sẽ nhanh chóng phát triển. Nếu không sự phát triển của trẻ sẽ bị chậm lại. Nếu nhớ rõ quan điểm này, các bạn sẽ biết cần phải đối xử với trẻ như thế nào. Quan điểm này sẽ là một chỉ dẫn hữu ích cho chúng ta trong cách đối đãi với trẻ. Dù cho che chở và giúp đỡ trẻ là bản năng của cha mẹ, nhưng những lí luận nói trên nói với chúng ta rằng, không cần phải mang lại cho trẻ quá nhiều sự trợ giúp cũng như những trợ giúp không cần thiết. Nếu trẻ muốn tự mình bước đi, chúng ta cần để trẻ được làm như vậy, bởi vì tất cả năng lực phát triển chỉ có thể phát huy thông qua thực hành. Sau khi đã chuẩn bị tất cả các loại năng lực thì vẫn cần sự trợ giúp của thực hành. Nếu như trẻ đã lên 3 tuổi mà chúng ta vẫn ôm trẻ trong lòng (tình trạng này thường xuyên xảy ra), sự phát triển của trẻ sẽ bị hạn chế. Nếu trẻ đã thực sự trở nên độc lập thì sự giúp đỡ của người lớn thậm chí chỉ trở thành chướng ngại đối với trẻ.

Rõ ràng chúng ta không nên giữ trẻ khư khư cả ngày mà hãy cho trẻ được tự bước đi. Nếu đôi tay của trẻ muốn làm gì đó, chúng ta hãy cho trẻ làm, cho trẻ có cơ hội rèn luyện trí lực. Chỉ những hành vi của bản thân trẻ mới dẫn trẻ bước vào con đường độc lập.

Kết quả các quan sát cho thấy còn có một nhân tố khác có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển tứ chi của trẻ 1 tuổi rưỡi, đó chính là nhân tố sức mạnh. Sau khi có được một kĩ năng nhất định, trẻ cảm thấy mình đã đủ khỏe mạnh rồi. Mục đích chính của trẻ lúc này là tiến hành luyện tập, thực hành, phát huy năng lực của mình một cách tối đa, điều này quả thật rất khác so với người lớn chúng ta!

Tạo hóa dường như nói với trẻ rằng: “Con đã đủ nhanh nhẹn, đủ kĩ năng, bây giờ con còn cần phải trở nên khỏe mạnh, nếu không thì sự nhanh nhẹn và kĩ năng cũng chẳng có nghĩa lí gì”.

Sau khi sự khéo léo của đôi tay và khả năng đứng vững của đôi chân được kết hợp lại, trẻ không chỉ bước đi mà còn đi được một quãng đường rất dài, trong khi trong tay cầm những vật tương đối nặng. Trên thực tế, mục đích đi của phần lớn con người là nhằm lấy một đồ vật nào đó. Bàn tay đã học được cách cầm nắm của trẻ giờ đây bắt đầu phải học cách giữ được vật nặng, đồng thời di chuyển những vật đó. Có trẻ sẽ biết cách dùng cánh tay ôm lấy bình nước, cố gắng giữ thăng bằng và chầm chậm bước đi. Đó cũng là một quá trình khắc phục ảnh hưởng của trọng lực. Trẻ nhỏ thường thích leo trèo, thích vịn vào một vật gì đó để leo cao hơn. Mục đích cầm nắm một vật của trẻ bây giờ không còn là để sở hữu vật đó nữa, mà là dựa vào vật đó để leo lên cao hơn. Đó chính là quá trình rèn luyện sức khỏe. Toàn bộ thời kì này của trẻ đều nhằm phục vụ cho mục đích rèn luyện cơ thể. Điều này phù hợp với logic của tự nhiên, một người muốn trưởng thành phải có một cơ thể đủ khỏe mạnh.

Sau đó trẻ đã biết đi, đồng thời tự tin vào sức mạnh của bản thân. Lúc này trẻ bắt đầu chú ý tới động tác của mọi người xung quanh mình và cố gắng bắt chước theo. Trẻ bắt chước người khác không phải vì người khác dạy trẻ làm, mà bởi nhu cầu mãnh liệt nội tại của trẻ. Vì vậy, chúng ta có thể tổng kết nên mấy quy luật dưới đây của tự nhiên:

  1. Để cho trẻ đứng thẳng;
  2. Trẻ có thể tự bước đi và trở nên mạnh mẽ.
  3. Cho trẻ tham gia vào môi trường sống xung quanh.

Chúng ta có thể thấy, để trưởng thành, trẻ phải trải qua khá nhiều giai đoạn chuẩn bị. Đầu tiên là chuẩn bị bản thân và các cơ quan trong cơ thể. Sau đó, trẻ dần dần trở nên khỏe mạnh, liền sau đó tiến hành quan sát người khác, cuối cùng là có thể tự mình làm việc gì đó. Đó đều là yêu cầu của tự nhiên, tạo hóa còn yêu cầu trẻ phải tiến hành luyện tập, ví dụ như leo lên ghế, leo lên cầu thang… Chỉ sau khi tất cả những công đoạn này đã được hoàn tất thì trẻ mới có thể bước vào một thời kì mới, sản sinh nhu cầu tâm lí muốn tự mình làm mọi thứ – “Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng rồi. Tôi muốn tự do.”

Bây giờ trẻ đã có thể đi được và có nhu cầu đi lại. Nhưng các chuyên gia tâm lí không dành đủ sự quan tâm cho điều này. Bình thường nếu không bế ẵm trẻ thì chúng ta cũng sẽ đặt trẻ vào xe tập đi. Chúng ta tưởng rằng lũ trẻ vẫn chưa thể đi được và cần phải giúp đỡ chúng. Trong thời điểm mấu chốt trước khi trẻ bước vào thế giới người lớn, việc chúng ta làm như vậy sẽ mang lại cho trẻ cảm giác tự ti.

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x