Trang chủ » Chương 18 – Sự hình thành tính cách của trẻ

Chương 18 – Sự hình thành tính cách của trẻ

by Hậu Học Văn
212 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Thiếu cá tính hoặc khiếm khuyết trong cá tính rồi sẽ tự nhiên biến mất mà không cần đến sự thuyết giáo của người lớn. Mọi sự uy hiếp, dụ dỗ của người lớn đều chẳng đem lại điều gì, việc chúng ta phải làm là tạo ra cho trẻ một điều kiện sống bình thường.

Bây giờ chúng ta cùng thảo luận một chút về một vấn đề vô cùng quan trọng trong vài năm đầu đời của con người, đó chính là vấn đề liên quan đến tính cách và sự hình thành tính cách của trẻ.

Giáo dục trước kia vô cùng chú trọng đến việc bồi dưỡng tính cách, cho dù thời điểm đó chúng ta còn chưa biết tính cách là gì và cũng không biết cần tiến hành bồi dưỡng tính cách như thế nào. Nhưng các lí luận giáo dục cũ cho rằng, giáo dục trí lực và giáo dục thực tiễn là chưa đủ, mà còn cần phải bao gồm cả giáo dục tính cách (biểu thị bằng chữ cái “X”). Điều này chứng tỏ các nhà công tác giáo dục vô cùng coi trọng phần giáo dục nhân cách. Con người luôn tôn trọng những phẩm chất tốt đẹp như dũng cảm, kiên trì, có trách nhiệm và có quan hệ tốt đẹp với người khác. Vì vậy, giáo dục đạo đức có vị trí rất quan trọng.

Nhưng rất nhiều người vẫn tỏ ra mơ hồ về những quan điểm có liên quan đến giáo dục đạo đức, không hiểu rõ tính cách rốt cuộc là gì.

Từ rất xa xưa, các triết gia và chuyên gia tâm lí đã bắt đầu thảo luận về vấn đề này, nhưng vẫn không thể đưa ra một định nghĩa chuẩn xác. Từ thời Hi Lạp cổ đại đến nay, từ Theophrastus, Freud cho đến Jung đều đã cố gắng đi sâu tìm hiểu vấn đề này. Nhưng như Bruner đã nói: “Chúng ta mãi mãi ở trong giai đoạn mang tính thử nghiệm.”

Cho đến nay vẫn chưa có quan niệm nào được tất cả mọi người chấp nhận, nhưng mỗi người đều có thể cảm nhận tầm quan trọng của tính cách bằng trực giác của mình. Những nghiên cứu về tính cách gần đây chủ yếu tập trung vào các nhân tố như thân thể, trí lực, đạo đức và các phương diện như ý nguyện, nhân cách và di truyền. Kể từ khi Julius Bahnsen lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Tính cách học” (characterology) năm 1867, dường như một môn khoa học mới nghiên cứu tính cách con người đã bắt đầu được hình thành. Nhưng những nghiên cứu về tính cách học vẫn chưa phải là lí luận chính xác. Ngày nay rất nhiều sinh viên và nhà cải cách đã có những cống hiến tích cực cho lĩnh vực này, nhưng điều kì lạ là dù tiến hành dưới góc độ trừu tượng hay từ góc độ cá nhân đơn lẻ thì những người này cũng đều chọn đối tượng nghiên cứu là người trưởng thành. Thậm chí cả những người nghiên cứu dưới góc độ giáo dục (dù là từ góc độ kinh nghiệm hay tôn giáo) cũng coi nhẹ trẻ em, tuy nhiên họ cũng đề cập đến di truyền và tầm ảnh hưởng của thời kì thai nghén. Rất ít người bù đắp thiếu sót này.

Những nghiên cứu của chúng tôi có liên quan đến thiếu sót nói trên. Công việc nghiên cứu được triển khai trên trẻ nhỏ, bởi vì chỉ có thông qua hành vi tự nhiên của trẻ, chúng ta mới có thể thu được phương pháp tư duy mới và giải quyết vấn đề này. Hành vi của trẻ nói với chúng tôi rằng: Chỉ có một loạt nỗ lực của bản thân trẻ mới thúc đẩy sự phát triển của tính cách. Những nỗ lực của trẻ không có quan hệ với các nhân tố bên ngoài mà chủ yếu được quyết định bởi tiềm năng sáng tạo và những trở ngại mà trẻ gặp phải trong cuộc sống thường nhật. Cảm hứng của chúng ta cũng hướng tới việc quan sát và lí giải phương diện xây dựng tâm lí con người. Công việc của chúng ta phải bắt đầu từ sự ra đời của trẻ, bắt đầu từ khi tính cách và cá tính của chúng vẫn chưa hình thành cho đến khi tính cách và cá tính đã được định hình. Không còn nghi ngờ gì, chính quy luật tự nhiên ăn sâu vào tiềm thức đã quyết định sự phát triển tâm lí, điều này phù hợp với tất cả mọi người. Sự khác biệt giữa người này với người khác phần lớn quyết định bởi sự khác biệt trong cuộc sống sau này của họ, bởi vì trên đường đời, con người sẽ gặp phải khá nhiều trở ngại, những trở ngại này sẽ tạo ra vô vàn các ảnh hưởng khác nhau đến tâm lí của mỗi cá nhân.

Tất nhiên, lí luận này có thể giải thích cho tính cách của trẻ trong từng giai đoạn, kể từ khi ra đời cho đến khi trưởng thành, nhưng hiện tại, chúng ta hãy tạm thời coi cuộc sống của trẻ là đối tượng nghiên cứu chính, sau đó dựa vào điều này để làm căn cứ cho việc tiến hành nghiên cứu các hình thức phát triển khác nhau của cá thể, những hình thức phát triển này dần dần hình thành trong quá trình con người thích ứng với xã hội.

Vì vậy chúng tôi thông qua nghiên cứu hành vi để nghiên cứu tính cách của con người. Giống như ở phần trên tôi đã nói, khoảng thời gian từ khi con người ra đời đến khi 18 tuổi có thể chia thành ba giai đoạn: 0–6 tuổi (độ tuổi chủ yếu mà cuốn sách này nghiên cứu), 6–12 tuổi và 12–18 tuổi. Mỗi giai đoạn có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn. Nếu lần lượt nghiên cứu từng giai đoạn này, chúng ta sẽ thấy, tâm lí điển hình của trẻ ở từng giai đoạn có sự khác biệt rất lớn, hơn nữa tâm lí giữa các cá thể khác nhau cũng có sự khác nhau.

Chúng ta biết rằng, giai đoạn thứ nhất là giai đoạn sáng tạo. Mặc dù một đứa trẻ vừa chào đời không có thứ gọi là tính cách, nhưng sự hình thành tính cách lại bắt đầu từ đó. 0–6 tuổi là khoảng thời gian quan trọng nhất của đời người, nó cũng rất quan trọng đối với sự phát triển tính cách. Chúng ta đều biết rằng, chúng ta không thể tạo ra bất cứ ảnh hưởng bên ngoài nào đối với đứa trẻ mình đang ôm trong lòng ,mà chính tự nhiên đã đặt ra nền tảng cho sự phát triển tính cách của trẻ. Những đứa trẻ này không có ý thức về xấu – tốt, không chịu ảnh hưởng bởi quan niệm đạo đức của người lớn. Thực tế là người lớn cũng không nói một đứa trẻ nào đó xấu xa hay không có đạo đức, mà chỉ dùng từ “bướng bỉnh” để nói về trẻ. Vì vậy cuốn sách này không sử dụng những từ như “tốt, xấu, đạo đức”. Trong giai đoạn 6–12 tuổi, trẻ bắt đầu có ý thức về sự tốt, xấu, trẻ không những có thể đánh giá hành động của bản thân là tốt hay xấu mà còn có thể đánh giá cả hành vi của những người khác. Có thể phân biệt tốt – xấu chính là đặc điểm chủ yếu của độ tuổi này. Trẻ ở độ tuổi này cũng bắt đầu có quan niệm đạo đức, loại quan niệm đạo đức này cuối cùng sẽ giúp trẻ hình thành quan niệm về xã hội. Trong giai đoạn thứ ba, từ 12–18 tuổi, trẻ bắt đầu biết yêu đất nước mình, biết rằng bản thân thuộc về một dân tộc nhất định và còn có lòng tự hào dân tộc.

Ở trên tôi đã nói rằng, mỗi giai đoạn đều có sự khác biệt rất lớn so với hai giai đoạn còn lại, nhưng mỗi thời kì trước sẽ đặt nền móng cho thời kì tiếp theo. Muốn giai đoạn thứ hai phát triển bình thường thì đòi hỏi giai đoạn thứ nhất phải phát triển tốt. Hình dạng bên ngoài và hành vi của sâu và bướm hoàn toàn khác nhau, nhưng vẻ đẹp của bướm lại bắt đầu từ hình thái của sâu chứ không bắt nguồn từ việc mô phỏng các loại bướm khác. Có hiện tại mới có thể tạo ra tương lai. Chúng ta thỏa mãn càng nhiều nhu cầu của cá thể trong một giai đoạn thì sự phát triển trong giai đoạn sau càng tốt hơn.

Con người tạo ra sự sống bằng cách mang thai rồi sinh con. Nếu cha mẹ không nghiện rượu hoặc không mắc bất cứ bệnh tật nào thì những đứa con sinh ra hầu hết là khỏe mạnh. Sự khỏe mạnh của đứa trẻ còn được quyết định bởi quá trình mang thai có chịu tác động nào không. Giai đoạn sau của thai kì cũng có thể chịu các tác động, nhưng sự tác động này chỉ có thể đến từ môi trường, hay chính là môi trường sống của người mẹ trong thời kì mang thai. Nếu môi trường sống của phôi thai lành mạnh, đứa trẻ ra đời cũng sẽ khỏe mạnh bình thường, bởi vì quá trình mang thai sẽ ảnh hưởng tới đứa trẻ sau này.

Ở các chương trước, chúng ta đã từng nói về “cú sốc khi chào đời”, cú sốc này có khả năng lớn sẽ khiến hình thành nguy cơ thoái hóa. Sự thoái hóa sẽ mang lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, nhưng ảnh hưởng của thói nghiện rượu và các bệnh di truyền (ví dụ như bệnh động kinh) còn khủng khiếp hơn nhiều.

Những năm đầu đời là khoảng thời gian vô cùng quan trọng và chúng ta đã nghiên cứu về chúng ở những phần trước. Những ảnh hưởng trong 2–3 năm đầu đời có thể sẽ làm thay đổi cả cuộc đời đứa trẻ. Trong khoảng thời gian này, nếu trẻ bị tổn thương, bị bạo hành hoặc gặp phải các trở ngại khác, cá tính của trẻ sẽ trở nên lệch lạc. Cũng có nghĩa là, nếu trong quá trình phát triển mà gặp phải trở ngại thì tính cách của trẻ sẽ không bình thường; còn nếu có thể phát triển tự do thì tính cách đứa trẻ sẽ bình thường. Nếu trong khoảng thời gian thụ thai, mang thai, chào đời, chúng ta có thể áp dụng các phương pháp khoa học thì đến năm 3 tuổi, đứa trẻ sẽ trở thành một người bình thường. Nhưng chúng ta không thể nào đạt được trạng thái lí tưởng này, loại trừ các nguyên nhân khác thì trở ngại là không thể tránh khỏi. Cùng là những đứa trẻ 3 tuổi thì mỗi đứa trẻ sẽ có những đặc điểm riêng. Sự khác biệt này không chỉ quyết định bởi những trải nghiệm khác nhau trước đó mà còn bởi độ tuổi. Hậu quả của những ảnh hưởng lên thai nhi nghiêm trọng hơn nhiều so với hậu quả của ảnh hưởng sau khi trẻ chào đời. Trong đó, ảnh hưởng bởi các chất độc hại trong thời kì mang thai sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng nhất.

Nếu muốn điều trị những khuyết tật đã hình thành trong giai đoạn 0–3 tuổi, chúng ta nên tập trung vào giai đoạn 3–6 tuổi, bởi trong thời kì này, tạo hóa vẫn đang bận rộn với việc tạo ra và hoàn thiện các loại năng lực khác nhau cho trẻ.

Trường học của chúng tôi đã có những đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu độ tuổi này. Dựa vào kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể mang lại một số sự trợ giúp có ý nghĩa cho trẻ. Hay nói cách khác, chúng tôi có phương pháp giáo dục riêng. Nếu những khiếm khuyết hình thành trong giai đoạn 0–3 tuổi không được chữa trị (do lơ là hoặc phương pháp chữa trị sai lầm) thì chúng sẽ tiếp tục tồn tại và ảnh hưởng càng ngày càng lớn hơn. Cứ thế cho đến khi 6 tuổi, những khiếm khuyết từ giai đoạn trước 3 tuổi như lệch lạc nhân cách vẫn sẽ tồn tại trong đứa trẻ. Sau 6 tuổi, những khiếm khuyết này sẽ ảnh hưởng đến giai đoạn phát triển thứ hai, ảnh hưởng đến nhận thức đúng – sai của trẻ.

Tất cả những khiếm khuyết này đều sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lí và thể chất của trẻ. Những ảnh hưởng xấu của giai đoạn trước lên tiềm năng của trẻ sẽ thể hiện ở việc trẻ gặp khó khăn khi học tập. Những đứa trẻ 6 tuổi – có thể đã mắc những khiếm khuyết trong giai đoạn trước – lúc này sẽ bộc lộ một số điểm bất thường. Ví dụ, trẻ sẽ không bộc lộ đặc điểm là có quan niệm về đạo đức của lứa tuổi 6–12 tuổi. Trình độ trí lực của trẻ có thể thấp hơn bình thường. Vì vậy những đứa trẻ này có thể sẽ không có nhân cách riêng, cũng không thể học tập. Ở giai đoạn cuối cùng, những khiếm khuyết này còn kéo theo nhiều khiếm khuyết khác. Cuối cùng, con người này có thể sẽ trở thành “phế nhân”.

Ở trường học của chúng tôi và nhiều trường khác hiện nay, chúng ta đã tạo ra hồ sơ lưu trữ về thể chất và tâm lí của từng đứa trẻ. Những hồ sơ này có thể mang lại một số gợi ý cho giáo viên, bởi nếu biết được những ảnh hưởng đối với trẻ trong từng giai đoạn, chúng ta có thể ước tính mức độ nghiêm trọng của vấn đề tâm lí ở trẻ, đồng thời áp dụng những đối sách thích hợp. Trong các hồ sơ này, chúng tôi ghi lại thông tin về các bệnh di truyền từ cha mẹ của trẻ, độ tuổi sinh con của cha mẹ, tình trạng của người mẹ trong giai đoạn mang thai, ví dụ như việc trong khi mang thai, người mẹ có gặp tình huống bất ngờ nào hay có bị ngã không… Chúng tôi còn ghi lại quá trình sinh nở có bình thường không, đứa trẻ khi ra đời có khỏe mạnh không, trẻ sau sinh có thiếu sức sống không… Hồ sơ còn ghi lại một số vấn đề về cuộc sống gia đình của trẻ, ví dụ như kì vọng của cha mẹ đặt lên trẻ có quá cao hay quá nghiêm khắc không? Trẻ có gặp nỗi sợ hãi quá lớn nào không? Nếu tính cách trẻ lập dị hoặc thất thường, chúng ta có thể tìm kiếm nguyên nhân thông qua những hồ sơ này. Những đứa trẻ 3 tuổi ở trường chúng tôi thường đều gặp phải hiện tượng bất thường nào đó, nhưng những hiện tượng này đều có thể khắc phục. Bây giờ chúng ta hãy cùng tổng kết lại một số loại lệch lạc tính cách ở trẻ.

Chúng ta đều muốn thảo luận cùng lúc về tất cả các khiếm khuyết của trẻ, đồng thời dùng các phương pháp khác nhau để chữa trị, nhưng do có quá nhiều loại khiếm khuyết, nên chúng ta buộc phải chia chúng thành hai loại: Một loại là khiếm khuyết ở những đứa trẻ khỏe mạnh (những đứa trẻ có thể khắc phục trở ngại); loại thứ hai là khiếm khuyết ở những đứa trẻ yếu đuối (những đứa trẻ khuất phục trước điều kiện bất lợi).

Những đứa trẻ thuộc loại 1 thường có tính cách thất thường, đồng thời có xu hướng bạo lực và cáu giận. Đặc điểm điển hình của những đứa trẻ này là không nghe theo mệnh lệnh, hay chính là thứ mà chúng ta gọi là “bản năng phá hoại”. Chúng có tính chiếm hữu cao, tỏ ra rất ích kỉ và hay ghen tị, biểu hiện bằng việc cướp đoạt đồ dùng của những đứa trẻ khác. Hành vi của trẻ không có tính mục đích, điều này rất phổ biến, trẻ không thể tập trung chú ý, không thể phối hợp hoạt động của hai tay, những đồ vật trong tay trẻ dễ rơi vỡ. Tâm lí của trẻ rối loạn, đầy ảo tưởng. Những đứa trẻ này thường không bao giờ yên tĩnh, thường xuyên la hét. Trẻ thích làm phiền và trêu chọc người khác, không thân thiện với những đứa trẻ yếu ớt hơn cũng như với những con vật nhỏ. Trẻ cũng thường rất tham ăn.

Loại trẻ yếu ớt thì thường tỏ ra bị động, những khiếm khuyết của trẻ thường rất tiêu cực. Lười biếng là đặc điểm chủ yếu của những đứa trẻ này. Chúng thích tìm kiếm sự giúp đỡ của người khác bằng cách khóc lóc, thích được người lớn phục vụ. Trẻ hi vọng người khác làm mình vui, dễ chán nản, tỏ ra sợ hãi trước nhiều việc, hay dựa dẫm vào người lớn, ngoài ra còn hay nói dối (đây là một hình thái bảo vệ cái tôi một cách bị động), hay ăn cắp (một hình thái bù đắp cho tâm lí khác)…

Những đứa trẻ này thường gặp một số vấn đề về thể chất do tâm lí mang lại. Ví dụ như trẻ lười ăn, rõ ràng không cảm thấy ngon miệng hoặc không có cảm giác ăn no, cuối cùng sẽ dẫn tới các vấn đề về tiêu hóa. Chúng cũng thường gặp ác mộng, sợ bóng tối, ngủ không ngon, có đứa trẻ thậm chí còn bị thiếu máu (một số triệu chứng thiếu máu và các vấn đề về gan thực chất do tâm lí gây ra). Phương diện thần kinh của trẻ cũng thường có vấn đề. Những bệnh do tâm lí gây ra này sẽ không thể chữa khỏi bằng thuốc.

Một số điều kiện sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường và lành mạnh của nhân cách, cuối cùng dẫn đến bệnh tật và khiếm khuyết. Những bệnh tật và khiếm khuyết này cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển bình thường của hành vi và tính cách.

Người lớn thường không thích những đứa trẻ này, đặc biệt là những đứa trẻ thuộc loại khiếm khuyết khỏe mạnh khiến cha mẹ đau đầu. Cha mẹ thường muốn thoát khỏi trẻ, giao trọn trẻ cho bảo mẫu hoặc đưa đến trường. Chúng trở thành những “đứa trẻ mô côi có cha mẹ”. Tuy cơ thể trẻ khỏe mạnh nhưng tâm lí lại bất thường, rõ ràng điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của trẻ. Cha mẹ nào cũng cố gắng tìm ra phương pháp thích hợp để thay đổi những đứa trẻ như vậy, có người tìm lời khuyên từ những người khác, một số khác thì tự giải quyết vấn đề. Có thể những bậc cha mẹ này sẽ đưa ra yêu cầu nghiêm khắc hơn và cho rằng đó là cách giải quyết vấn đề. Họ sẽ nghĩ ra đủ cách thức như đánh, mắng, thậm chí cấm ăn cơm, nhưng những điều này chỉ khiến trẻ càng không nghe lời hoặc gặp phải càng nhiều rắc rối hơn. Vì vậy cha mẹ lại nghĩ ra cách giáo dục trẻ bằng cách khuyên răn, với những câu hỏi đại loại như: “Sao con luôn khiến mẹ buồn như thế?”

Cuối cùng cha mẹ thật sự không còn cách nào và đành buông xuôi.

Còn những đứa trẻ khiếm khuyết thuộc loại bị động hay tiêu cực lại không khiến người ta phải quan tâm đến thế. Hành vi của trẻ không phải là vấn đề đối với người lớn. Người mẹ còn cho rằng đó là đứa trẻ ngoan, rất nghe lời, bởi những đứa trẻ này không bao giờ làm việc gì sai. Việc trẻ dựa dẫm vào mẹ còn được mẹ cho là việc tốt. Người mẹ sẽ nói rằng con rất yêu mình, nếu không có mẹ thì con nhất định không chịu đi ngủ. Nhưng sau này, người mẹ đó sẽ phát hiện ra rằng khả năng vận động và nói năng của trẻ vô cùng chậm chạp, đi đứng xiêu vẹo. Lúc này, mẹ lại nói: “Con tôi rất khỏe mạnh, bé chỉ hơi nhạy cảm mà thôi, việc gì cũng làm bé sợ. Thậm chí bé cũng chẳng thích ăn uống. Thế giới tinh thần của bé rất phong phú, trước khi ăn tôi phải kể chuyện cho bé nghe. Rất có thể sau này con tôi sẽ trở thành nhà thơ!” Nhưng cuối cùng người mẹ sẽ cảm nhận được rằng, con mình thật sự có bệnh và cần được khám chữa. Các chuyên gia về nhi khoa kết luận rằng đứa trẻ này đã mắc một số bệnh về tâm lí.

Nếu hiểu rõ về hoạt động có tính sáng tạo của trẻ, những vấn đề này đều sẽ được giải quyết. Hiện tại chúng ta đã biết rằng, một số khiếm khuyết về tính cách của trẻ là do phương pháp sai lầm của người lớn gây ra. Nếu lúc này chúng ta lơ là, không quan tâm tới trẻ, bộ não của trẻ sẽ trống rỗng, bởi trẻ không có cơ hội để lấp đầy nó. Bộ não “đói khát” này là căn nguyên của rất nhiều vấn đề. Một nguyên nhân khác nữa là do hoạt động của trẻ thiếu tính sáng tạo. Những đứa trẻ như vậy sẽ ít khi tìm được điều kiện phát triển đầy đủ. Trẻ thường bị giữ một mình, ngoài việc ngủ thì ít khi làm việc khác. Hoặc là người lớn làm hộ trẻ mọi việc, hoặc là chẳng cho trẻ làm bất cứ việc gì. Cách làm này sẽ dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Ngoài cảm hứng với những đồ vật trong tay, trẻ chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Dù bản thân trẻ muốn làm rất nhiều việc, nhưng lại chẳng thể làm được gì. Khi đã có được thứ mà mình khao khát như một con côn trùng hoặc một bông hoa, trẻ cũng không biết phải làm gì với chúng, cuối cùng sẽ làm hỏng chúng.

Chúng ta cũng có thể tìm ra trong thời kì đầu tiên nguyên nhân những nỗi sợ hãi vô cớ của trẻ.

Sở dĩ trường học mà chúng tôi lập nên có thể thành công chính là vì những đứa trẻ ở đó, những khiếm khuyết ban đầu ở chúng đều đã biến mất. Trẻ biết rằng mình đang sống trong một môi trường có thể tự do phát huy, trẻ có thể tự do sử dụng tiềm năng của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển tâm lí. Xung quanh trẻ có bao nhiêu thứ thú vị mà chúng có thể tự do sử dụng, mỗi đồ vật đều khiến chúng có thể tập trung chú ý. Một khi đã đạt tới trình độ đó, trẻ có thể tập trung vào làm một việc thú vị, những khiếm khuyết từ đó tiêu tan. Những đứa trẻ vô kỉ luật trước đó trở thành có kỉ luật, những đứa trẻ trước đó bị động đã trở nên chủ động, những đứa trẻ trước đó bướng bỉnh thì giờ trở nên ngoan ngoãn. Hiện tượng này nói với chúng ta rằng, những khiếm khuyết này được tạo ra trong quá trình sống của trẻ chứ không phải là bẩm sinh. Giữa những đứa trẻ cũng không có sự khác biệt quá lớn. Tất cả những hiện tượng bất thường trên đều bắt nguồn từ một nguyên nhân, đó chính là đời sống tinh thần của trẻ không được chăm sóc đầy đủ.

Chúng ta có thể đưa ra cho các bà mẹ những lời khuyên nào? Đó là những đứa con của họ cần được sống trong môi trường thú vị. Người mẹ không cần giúp trẻ những việc không cần thiết, khi trẻ bắt tay vào làm việc gì đó, chúng ta không nên làm nó bị gián đoạn. Sự hiền hòa hay nghiêm khắc hay thuốc men chẳng thể giúp ích gì cho những đứa trẻ đói khát về tinh thần. Khi một đứa trẻ bị đói, chúng ta mắng trẻ là đồ ngốc, đánh cho trẻ một trận hoặc yêu cầu trẻ vui lên, đó đều là những việc không phù hợp, thứ trẻ cần là thức ăn, những thứ khác chẳng có tác dụng gì. Với tâm lí cũng vậy. Nghiêm khắc hay khoan dung chẳng giúp giải quyết được vấn đề. Con người là loài động vật có trí tuệ, cần được cung cấp dinh dưỡng vật chất, và lại càng cần có “dinh dưỡng” cho tinh thần. Con người khác với động vật ở chỗ phải tự xây dựng mô thức hành vi cho mình. Nếu trẻ có thể tự quyết định việc của mình, hoàn thiện tâm lí thì sẽ chẳng xảy ra vấn đề nào cả. Những vấn đề trẻ gặp phải sẽ biến mất, trẻ cũng sẽ không gặp ác mộng nữa, hệ tiêu hóa hoạt động bình thường trở lại, nguyên nhân là vì tâm lí của trẻ đã trở nên bình thường.

Vì vậy chúng ta không thể giải quyết những vấn đề này bằng giáo dục đạo đức. Đó là vấn đề liên quan đến hình thành tính cách. Sự thiếu cá tính hoặc khiếm khuyết trong cá tính rồi sẽ tự nhiên biến mất mà không cần đến sự thuyết giáo của người lớn. Mọi sự uy hiếp, dụ dỗ của người lớn đều chẳng đem lại điều gì, việc chúng ta phải làm là tạo ra cho trẻ một điều kiện sống bình thường.

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x