Trang chủ » Chương 23 – Sự gắn kết của xã hội

Chương 23 – Sự gắn kết của xã hội

by Hậu Học Văn
191 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Ý thức tập thể không thể được hình thành bằng cách tuyên truyền. Nó cũng không phụ thuộc vào bất cứ hình thức cạnh tranh nào, mà là kết quả của tự nhiên. Đó là thành quả trẻ thu được bằng sự nỗ lực của bản thân. Chỉ có thông qua hành vi của chính mình, trong quá trình phát triển tự nhiên thì trẻ mới có thể cho ta thấy những giai đoạn buộc phải trải qua của đời sống xã hội.

Tâm hồn có sức thẩm thấu có khả năng gắn kết cả xã hội cao hơn là hành vi có ý thức, phương thức xây dựng nên nó là thứ mà chúng ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Chúng ta có thể so sánh nó với quá trình trưởng thành của tế bào để tạo nên các cơ quan. Rõ ràng là xã hội cũng giống như quá trình trưởng thành của một đứa trẻ – phải trải qua giai đoạn phôi thai. Chúng ta cũng cảm thấy thú vị khi thấy rằng, trẻ dần dần ý thức được hành vi của mình đang thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Trẻ cũng dần dần cảm nhận được hành vi của mình là một phần của hành vi của cả tập thể. Trẻ không những cảm thấy vui vì điều này mà còn toàn tâm toàn ý tiến hành công việc của mình. Một khi đã đạt tới trình độ này, hành vi của trẻ không còn vô mục đích nữa, mà chúng đã biết đặt lợi ích của tập thể lên hàng đầu, kết hợp lợi ích của tập thể với lợi ích của bản thân.

Bước đầu tiên của ý thức bước vào xã hội có điểm tương đồng với “ý thức gia đình hoặc ý thức bộ lạc” của xã hội nguyên thủy mà chúng ta đã biết. Trong xã hội nguyên thủy, cá thể sinh tồn vì mục đích bảo vệ tập thể. Một số dấu tích của hiện tượng này xuất hiện ở con người trẻ khiến chúng ta cảm thấy kinh ngạc, bởi vì chúng phát triển hoàn toàn độc lập, không chịu sự tác động của bất cứ hành vi nào. Những dấu tích này cũng xuất hiện vô cùng đột ngột, giống như sự phát triển ở những phương diện khác, tựa như việc trẻ đến một độ tuổi nhất định thì sẽ đột nhiên mọc răng vậy. Dưới sự chi phối của nhu cầu tự nhiên và tiềm thức, dưới sự thôi thúc của ý thức xã hội, trẻ hình thành nên ý thức tổng thể. Tôi gọi hiện tượng này là “sự gắn kết xã hội”.

Hành vi tự nhiên của trẻ đã khiến chúng tôi hình thành quan niệm này. Hành vi của trẻ thường khiến chúng ta ngạc nhiên. Có thể lấy một ví dụ như thế này: Khi đại sứ Argentina nghe nói những đứa trẻ 4, 5 tuổi trong trường của chúng tôi đã hoàn toàn có thể tự đọc và viết được, hơn nữa không cần có sự quản lí của giáo viên mà chúng vẫn luôn tuân thủ kỉ luật, ông cảm thấy thật khó tin. Vì vậy ngài đại sứ đã quyết định không liên hệ trước mà đột ngột ghé thăm trường chúng tôi. Thật không may là hôm đó đúng là ngày lễ, nhà trường đóng cửa. Ngôi trường đó có tên là Ngôi nhà trẻ thơ, nằm trong khu phố của dân lao động, những đứa trẻ trong trường đều là con của các công nhân. Lúc ấy có một đứa bé đang chơi ở trong vườn trường và đã nghe thấy tiếng thở dài của ngài đại sứ. Đứa trẻ đoán ngài đại sứ chắc hẳn là một vị khách tới thăm quan trường, nên cậu bé đã nói: “Ngài đừng lo vì nhà trường đóng cửa, người gác cửa có chìa khóa, bạn học của cháu cũng đều ở con phố này.” Một lát sau, cổng trường mở ra, tất cả lũ trẻ đã có mặt. Đó chính là một ví dụ cho thấy hành vi có ý thức tập thể. Tất cả lũ trẻ không mong được báo đáp mà đều phát huy sức mạnh của mình trong tập thể. Giáo viên trong trường chỉ biết được việc này vào ngày hôm sau.

Ý thức tập thể không thể được hình thành bằng cách truyền thụ. Nó cũng không phụ thuộc vào bất cứ hình thức cạnh tranh nào, mà là kết quả của tự nhiên. Đó là thành quả trẻ thu được bằng nỗ lực của bản thân. Coghill từng nói: “Hành vi thời kì đầu của trẻ là do tự nhiên quyết định, nhưng sự phát triển của loại hành vi này chỉ được diễn ra trong điều kiện trẻ không ngừng giao tiếp với môi trường xung quanh”. Rõ ràng quy luật tự nhiên quyết định việc xây dựng cá tính và đời sống xã hội, nhưng kiểu quy luật tự nhiên này chỉ có thể xuất hiện thông qua hành vi của trẻ trong một hoàn cảnh thích hợp. Chỉ có thông qua hành vi trong quá trình phát triển tự nhiên, trẻ mới có thể cho chúng ta thấy những giai đoạn phát triển cần thiết của đời sống xã hội. Kiểu chỉ đạo và gắn kết đời sống xã hội này có mối liên hệ mật thiết với khái niệm “thể tổng hợp xã hội” mà Washburne – nhà giáo dục học người Mỹ đã từng nhắc đến. Ông cho rằng đó là nhân tố quan trọng làm nên sự biến đổi xã hội, cần được coi là nền tảng của mọi loại giáo dục. “Thể tổng hợp xã hội” chỉ xuất hiện khi cá thể ý thức được bản thân thuộc về một tập thể nào đó. Khi “thể tổng hợp xã hội” xuất hiện, cá thể sẽ càng nghĩ về lợi ích tập thể nhiều hơn chứ không phải là vì lợi ích của bản thân.

Washburn đã lấy cuộc đua thuyền giữa hai trường đại học Oxford và Cambrigde làm ví dụ minh chứng cho lí luận này của mình. Ông nói: “Mỗi người trên thuyền đều cố chèo nhanh hết sức. Cho dù họ biết rằng nỗ lực này chẳng mang lại vinh dự hay một sự báo đáp đặc biệt nào cho bản thân. Nếu kiểu tâm lí này trở thành ý thức chung của toàn xã hội, mỗi phần tử trong tập thể đều cống hiến hết mình vì tập thể, nếu cá nhân nghĩ nhiều hơn cho lợi ích tập thể chứ không phải là lợi ích của bản thân thì nhất định diện mạo của nhân loại sẽ thay đổi hoàn toàn. Nhà trường cần phải bồi dưỡng sự gắn kết này, bởi vì xã hội chúng ta đang rất thiếu sự gắn kết, mà nếu thiếu mất điều đó thì cuối cùng sẽ hủy hoại cả nền văn minh mà chúng ta đã sáng tạo nên.”

Chỉ có một nhóm người trong xã hội chúng ta không thiếu kiểu gắn kết này, đó chính là trẻ em. Sự gắn kết này của trẻ sản sinh dưới sự dẫn dắt của một sức mạnh thần bí. Chúng ta phải trân trọng điều này, bởi vì cho dù là nhân cách con người hay tình cảm xã hội thì cũng đều không phải là kết quả của sự dạy dỗ của giáo viên, mà là thành quả của bản thân mỗi con người.

Chúng ta không được nhầm lẫn giữa kiểu gắn kết xã hội tự nhiên này với tổ chức xã hội của người lớn. Sự gắn kết xã hội tự nhiên này là giai đoạn phát triển cuối cùng của trẻ, là sự sáng tạo thần kì nhất của phôi thai xã hội.

Sau khi bước qua tuổi lên 6 không lâu thì trẻ bắt đầu bước vào một giai đoạn phát triển khác. Một hình thức tồn tại khác tự nhiên xuất hiện, hình thức này hoàn toàn dựa trên cơ sở có ý thức. Trẻ bắt đầu có ham muốn tìm hiểu những quy luật và truyền thống mà hành vi của con người tuân theo. Trẻ hi vọng có một người sẽ lãnh đạo tập thể mà trong đó có trẻ đang sống. Rõ ràng là phục tùng người lãnh đạo, tuân thủ quy luật chính là sợi dây gắn kết tổ chức xã hội. Chúng ta biết rằng, kiểu ý thức phục tùng này đã được hình thành trong giai đoạn phôi thai trước đó.

Chuyên gia tâm lí học người Anh – McDougall từng tiến hành mô tả về tập thể xã hội của trẻ 6, 7 tuổi. Những đứa trẻ này phục tùng đứa trẻ lớn hơn mình, dường như chịu sự điều khiển của một loại bản năng quần cư. Những đứa trẻ bị người ta vứt bỏ và quên lãng này thường tự tập hợp thành một nhóm, cùng phản đối lại quyền lực và những quy tắc mà người lớn đặt ra. Loại nhu cầu tự nhiên này dần dần biến thành tâm lí chống đối (nổi loạn). Hoạt động hướng đạo đã cho thấy nhu cầu phát triển xã hội này, phản ánh bản tính của những người trẻ tuổi.

Nhưng khái niệm “bản năng quần cư” của McDougall vẫn có điểm khác biệt so với sự gắn kết bắt nguồn từ xã hội trẻ thơ. Hình thái phát triển xã hội trong tất cả các giai đoạn kể từ sau giai đoạn sơ sinh đến khi trưởng thành đều được hoàn thiện một cách có ý thức, cần sự lãnh đạo của một người bằng những quy tắc nhất định, người này hoặc là thủ lĩnh, hoặt là người được tôn trọng.

Sống trong một quần thể là một hiện tượng tự nhiên, là một nhu cầu bản năng của con người. Nó trưởng thành giống như một cơ thể, bộc lộ tính liên tục của những tính cách khác nhau. Có thể so sánh nó với việc người nông dân Ấn Độ dệt vải bằng tay.

Đầu tiên, chúng ta phải chú ý tới những quả bông xung quanh hạt giống. Trong đời sống xã hội, trước hết chúng ta phải xem xét đứa trẻ và hoàn cảnh gia đình của nó. Chúng ta còn phải làm sạch bông, tách bông ra khỏi những hạt bụi đen trên vỏ. Bọn trẻ ở trường Gandhi thường làm công việc này. Nó cũng giống với việc chúng ta tập hợp những đứa trẻ từ những gia đình khác nhau lại với nhau, sửa chữa những khiếm khuyết của chúng, giúp chúng tăng khả năng tập trung, phát triển thành một cá thể bình thường.

Công việc sau đó là xe sợi. Nó giống với việc con người sống và làm việc trong một tập thể, đồng thời dần dần hình thành cá tính của bản thân. Đây là cơ sở của những phương diện khác. Nếu sợi vải được xe khéo, xe chắc thì tấm vải cũng sẽ đẹp và chắc. Chất lượng của sản phẩm dệt được quyết định bởi chất lượng của bông, những sợi bông chất lượng kém thì tấm vải dệt ra cũng chẳng có giá trị gì.

Sau đó chúng ta căng song song những sợi vải lên khung cửi, chúng không tiếp xúc với nhau và được kẹp lại ở hai đầu. Đó mới là những sợi vải, chưa thể gọi là tấm vải. Đương nhiên là nếu không có sợi vải thì không thể dệt nên tấm vải. Nếu sợi vải đứt hoặc vị trí và phương hướng dệt không chính xác thì cái thoi cũng sẽ không thể chạy qua chạy lại được. Cái thoi này chính là sự gắn kết xã hội. Công tác chuẩn bị của xã hội loài người dựa trên nền tảng là hành vi của trẻ dưới sự dẫn dắt của quy luật tự nhiên và những khuôn khổ nhất định. Cuối cùng chúng sẽ hợp tác với nhau, phục vụ vì mục tiêu chung của xã hội.

Sau đó công việc dệt vải mới thật sự bắt đầu. Con thoi không ngừng chuyển động giữa những sợi vải, cố định chúng với nhau. Giai đoạn này có thể so sánh với xã hội vận hành có tổ chức dưới sự khống chế của pháp luật và nhà nước. Tấm vải dệt xong, kể từ khi được gỡ từ khung cửi xuống thì sẽ không còn bất cứ thay đổi nào nữa, kết cấu của nó đã được cố định. Tấm vải lúc này đã hoàn toàn độc lập với khung cửi, có thể được con người sử dụng nhiều lần. Con người nếu chỉ chú trọng mục tiêu cá nhân mà không quan tâm đến người khác thì sẽ không thể hình thành nên xã hội. Hình thức cuối cùng của xã hội coi tổ chức chính là nền tảng.

Đương nhiên hai phương diện này cũng đan cài lẫn nhau. Xã hội không chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào tổ chức mà còn phụ thuộc vào sức gắn kết. Giữa hai phương diện này thì tổ chức là nền tảng, phục vụ cho xã hội. Một hệ thống pháp luật và một nhà nước tốt nếu như không thể khiến cá nhân nỗ lực vì mục tiêu của cộng đồng thì cũng không thể khiến con người trong cộng đồng đoàn kết và hòa hợp với nhau. Sức mạnh, sự nhanh nhạy của cộng đồng đều được quyết định bởi trình độ phát triển, mức độ ổn định về tâm lí và cá tính của con người.

Trật tự xã hội của người Hi Lạp được hình thành trên cơ sở nhân tính. Alexander đại đế có thể chinh phục được cả Ba Tư. Các tín đồ đạo Hồi (muslim) cũng vô cùng đoàn kết, nhưng sự đoàn kết này không phải là do tác dụng của pháp luật và mối quan hệ giữa con người với con người. Các tín đồ đạo Hồi thường định kì hành hương đến Mecca. Những tín đồ này vốn không quan biết nhau, việc hành hương này cũng không vì bất cứ mục đích cá nhân nào. Không có ai yêu cầu hay ra lệnh cho họ phải đi, mục đích của sự hi sinh lớn lao này chỉ là hành hương mà thôi. Hành vi hành hương chính là minh chứng tốt nhất cho sức gắn kết xã hội.

Thời trung cổ, ở châu Âu chiến tranh diễn ra liên miên, không có vị lãnh tụ nào có thể thực sự thống nhất các quốc gia châu Âu. Tại sao vậy? Điều bí mật nằm ở chỗ người dân ở mỗi đế quốc hay quốc gia đều có một tín ngưỡng tôn giáo sâu sắc, loại tín ngưỡng này khiến dân chúng mỗi quốc gia được gắn kết chặt chẽ. Các quốc vương và giai cấp thống trị thời đó đã tìm mọi cách khác nhau để cai trị bằng Cơ đốc giáo, dựa vào sức mạnh của Cơ đốc giáo.

Nhưng chỉ có sức gắn kết thôi thì chưa đủ để xây dựng nên một xã hội có thể thực sự đứng vững nhiều thế kỉ, không đủ để thức tỉnh một cuộc sống văn minh. Xin lấy một ví dụ hiện đại: Sức gắn kết này đã khiến người Do Thái gắn bó với nhau suốt hàng ngàn năm, nhưng cho đến gần đây họ mới muốn xây dựng quốc gia. Những người Do Thái này giống như những sợi vải sẽ dệt nên tấm vải. Chúng ta cũng có thể tìm thấy một ví dụ khác trong lịch sử cận đại. Mussolini và Hitler đầu tiên nhận thức rõ rằng, muốn duy trì một trật tự xã hội mới thì phải tiến hành giáo dục con người từ thời kì trẻ thơ. Họ đã tiến hành huấn luyện trẻ nhỏ và thanh niên suốt nhiều năm, truyền bá tư tưởng của mình cho những đứa trẻ và thanh niên đó. Cho dù người ta nhìn nhận về đạo đức của hai con người này như thế nào đi nữa thì cũng vẫn phải thừa nhận phương pháp mà họ áp dụng là phù hợp logic và có tính khoa học. Những người đứng đầu chính phủ này nhận thức được tầm quan trọng của sức gắn kết xã hội và tiến hành nắm bắt bắt đầu từ trẻ nhỏ.

Nhưng trật tự xã hội có tính liên tục là một hiện tượng tự nhiên, nó phải hình thành một cách tự phát dưới sức mạnh của tự nhiên. Không ai có thể làm thay việc của Thượng đế, bất cứ ai muốn đi ngược lại quy luật của tự nhiên cũng đều sẽ trở thành tội đồ của lịch sử, người lớn không nên kiểm soát năng lực sáng tạo cá tính của trẻ. Ngay cả sức gắn kết của người lớn cũng cần có sự chỉ đạo của một tư tưởng nào đó. Điều này có nghĩa là lí tưởng đó cao hơn cơ chế tổ chức. Ở đây có hai xã hội có quan hệ lẫn nhau: Một loại xã hội dựa vào sự sáng tạo trong tiềm thức, một loại xã hội khác bắt nguồn từ hành vi có ý thức. Hay nói cách khác, một loại bắt đầu từ thời kì trẻ thơ, còn một loại khác thì phải hình thành thông qua sự nỗ lực của người trưởng thành, bởi vì chỉ có trẻ nhỏ mới có tâm hồn có sức thẩm thấu, mới có thể học tập những đặc trưng của dân tộc của mình. Đặc tính thời kì “phôi thai tinh thần” của trẻ nhỏ không phải là kết quả của trí lực, cũng không phải là kết quả của công sức con người, mà là một đặc trưng tâm lí duy trì trong xã hội loài người. Trong quá trình xây dựng cá tính bản thân, trẻ sẽ tiếp thu và học hỏi đặc trưng tâm lí này, cuối cùng trở thành một người nói một thứ ngôn ngữ nhất định, thờ phụng một tôn giáo nhất định, phục tùng một truyền thống xã hội nhất định. Những gì có tính ổn định và tính cơ sở trong trật tự xã hội chính là phần có tính liên tục. Đương nhiên trật tự xã hội cũng không ngừng biến đổi. Nếu chúng ta để trẻ được tự do phát triển, dần dần trưởng thành, chúng ta sẽ phát hiện bí mật của sức mạnh cá nhân và sức mạnh của xã hội.

Ngược lại, con người lại tiến hành phán đoán và quy phạm cuộc sống của chính mình bằng những phương thức tổ chức, ý thức. Họ yêu cầu tăng cường và đảm bảo sự tồn tại của tổ chức như thể họ chính là người sáng tạo vậy. Họ không suy xét gì về cơ sở không thể thiếu của tổ chức đó mà chỉ cầu xin sự kiểm soát của người khác. Mục đích cao nhất của họ là tìm được một người lãnh đạo.

Rất nhiều người mong chờ sự xuất hiện của thiên tài có khả năng lãnh đạo như Chúa cứu thế. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, có người đã đề nghị thành lập một trung tâm huấn luyện lãnh đạo, bởi vì các lãnh đạo đương thời chẳng có ai có năng lực xử lí công việc một cách chuẩn xác. Thực tế là họ mong muốn thông qua phương thức kiểm tra tâm lí để phát hiện thiên tài, họ còn muốn tìm kiếm người có tài lãnh đạo trong trường học và tiến hành bồi dưỡng những người này. Nhưng ai sẽ là người có đủ tư cách để bồi dưỡng những nhân tài này đây?

Thực tế là chúng ta không thiếu người lãnh đạo, ít nhất mấu chốt của vấn đề cũng không nằm ở đó. Các mặt liên quan đến vấn đề này nhiều hơn so với tưởng tượng của chúng ta rất nhiều. Nguyên nhân là số đông chúng ta hoàn toàn không có sự chuẩn bị cho đời sống trong xã hội văn minh. Vì vậy chúng ta phải bắt đầu giải quyết vấn đề này từ việc giáo dục quần chúng, xây dựng cá tính cho họ và khai thác, phát triển tiềm năng của họ. Những người đứng đầu chính phủ hay là thiên tài đều không thể nào gánh vác trọng trách này. Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết bằng cách khai thác tiềm năng của cộng đồng.

Vấn đề cấp bách nhất, quan trọng nhất mà xã hội hiện đại đang phải đối mặt là tiềm năng của cộng đồng chưa được khai thác hết. Trong biểu đồ ở phần trước, chúng ta đã nói qua hai lực đối lập: Một loại hướng về trung tâm, một loại hướng ra ngoại biên (hình 11). Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục chính là đảm bảo duy trì sự phát triển bình thường, đồng thời dần dần tiến tới gần với vòng tròn biểu thị sự hoàn mĩ. Ngược lại, tất cả những gì chúng ta làm được hiện nay là kéo những người không bình thường, những người có vấn đề về tâm lí, những người cần chúng ta giúp đỡ, ngăn họ không hướng về vòng tròn ngoài cùng, nếu không, họ sẽ trở thành “kẻ ngoại đạo” trong xã hội này. Phương pháp hiện nay của chúng ta đã vi phạm quy luật phát triển bình thường của con người, thậm chí có thể phá hủy chính bản thân chúng ta. Một nửa dân số mù chữ không phải là mối đe dọa với xã hội, mối nguy hại thật sự chính là những hành vi coi thường tính sáng tạo của con người, chà đạp tiềm năng mà Thượng đế đã ban tặng cho trẻ nhỏ, trong khi chính những điều đó lại là khởi nguồn có thể đưa loài người tiến lên một thang giá trị đạo đức và giá trị tinh thần cao hơn. Khi đối mặt với cái chết, con người thường gào khóc không thôi, mong chờ được thoát khỏi cái chết, nhưng điều thật sự cần quan tâm không phải là cái chết mà là giá trị và mục tiêu của con người. Nỗi đau thực sự của con người không phải là nỗi sợ hãi cái chết mà là sự thiếu cá tính và lãng phí tiềm năng con người.

Sự thiếu hiểu biết chính là kẻ thù lớn nhất của loài người. Chúng ta biết cách tìm ngọc trai bên trong thân con trai, biết cách tìm vàng trong lòng núi, biết cách khai thác than dưới lòng đất, nhưng lại không biết gì về thế giới tinh thần của con người, không biết gì về sức sáng tạo tiềm tàng trong nội tâm mỗi đứa trẻ. Chúng ta cần biết rằng, mục đích đến với thế giới này của trẻ em chính là để làm thay đổi thế giới, khuấy động thế giới.

Nếu các trường học đều tổ chức theo phương thức của chúng tôi, chắc chắn họ sẽ tạo ra kì tích. Ngược lại, các giáo viên đều cho rằng trẻ nhỏ không chủ động học tập. Họ đều phải hoặc là cưỡng ép, hoặc khích lệ, hoặc trừng phạt, hoặc dùng vật chất làm “mồi nhử” để yêu cầu trẻ chăm chỉ học tập. Các giáo viên này dùng phương pháp cạnh tranh để kích thích hứng thú học tập, nhưng tất cả những phương pháp đó đều không mang lại kết quả tốt. Cách đối xử điển hình nhất của người lớn với trẻ nhỏ chính là không ngừng tìm kiếm nhược điểm của trẻ, sau đó phê bình nghiêm khắc. Nhưng những lời phê bình đó chẳng có chút tác dụng nào. Nếu công tác giáo dục coi những phương pháp đó là nền tảng thì chỉ có thể kéo đời sống xã hội xuống một trình độ thấp hơn. Các trường học hiện nay không cho phép học sinh được so bài tập với nhau, giúp nhau làm bài cũng là việc không được phép. Tiếp nhận sự giúp đỡ của người khác và giúp đỡ người khác đều bị cho là sai trái, thứ đoàn kết mà chúng ta đã nói hoàn toàn không có mặt trong nhà trường. Thứ tiêu chuẩn gọi là “bình thường” cũng là do con người đặt ra. Chúng ta thường nghe thấy những câu đại loại như: “Không được chơi”, “Đừng nói chuyện”, “Không được làm bài giúp bạn”, “Khi cô chưa gọi tới em thì em không được nói”. Những câu nói đó đầy tính mệnh lệnh và phủ định.

Đối mặt với tình trạng này, chúng ta cần phải làm gì? Một số giáo viên cũng nghĩ đến việc tạo ra không khí lành mạnh trong lớp học, nhưng họ không hề biết rằng bản thân trẻ hoàn toàn có khả năng làm được nhiệm vụ đó. Họ thường nói: “Các em không được ghen tị với những bạn học giỏi hơn”, “Không được trả thù những người đã làm hại mình.” Những câu nói này vẫn mang ý nghĩa phủ định nhất định. Cách làm thường thấy của giáo viên hàm chứa ý nghĩa rằng con người đều xấu, chúng ta phải nỗ lực thay đổi họ, nhưng những việc bản thân trẻ có thể làm được sẽ khiến những nhà công tác giáo dục phải kinh ngạc. Trẻ tôn sùng người mạnh hơn mình, sự tôn sùng này không thể sinh ra nhờ những tác động bên ngoài. Nếu trẻ thực sự có thiên tính tốt đẹp này, chúng ta cần cổ vũ và khai thác. Vấn đề “báo thù” mà giáo viên đã nói cũng vậy. Trẻ thường kết bạn với những đứa trẻ được coi là “kẻ thù”, đây không phải là việc mà người khác yêu cầu trẻ làm. Trẻ thường bộc lộ tình yêu thương và lòng trắc ẩn với những người phạm sai lầm, tình yêu và lòng trắc ẩn này không phải do người khác ép trẻ làm vậy. Trẻ sẽ giúp đỡ những đứa trẻ trí lực không phát triển bằng mình, đó cũng không phải làm việc làm do bị cưỡng ép. Đúng như chúng ta đã nói ở trên, những tình cảm hết sức tự nhiên này cần được khuyến khích. Nhưng cách làm hiện tại của người lớn lại hoàn toàn khác, trình độ giáo dục tại một số trường vẫn ở mức độ rất thấp, vẫn nằm ở vòng tròn thứ ba (hình 11), những học sinh trong trường đang dần tiến tới vòng ngoại biên, dần dần trở thành tầng lớp bỏ đi của xã hội. Trước hết, các giáo viên cho rằng, học sinh không thể nào tự học được, cần phải tiến hành giáo dục chúng. Thứ hai, họ cho rằng việc nói những câu ngữ khí mệnh lệnh sẽ giúp ích cho trẻ, ví dụ như “Không được làm cái này, không được làm cái kia” mà theo cách nói của chúng ta chính là “không được tiến về phía vòng tròn ngoài cùng”. Nhưng kì thực, mỗi đứa trẻ bình thường đều có khuynh hướng theo đuổi sự hoàn mĩ, chúng cơ bản không cảm thấy những việc xấu có bất cứ sức hấp dẫn nào.

Một hành vi không tốt khác của người lớn chính là thường xuyên làm gián đoạn công việc bình thường của trẻ trong cuộc sống. Người lớn thường nói với trẻ rằng: “Thời gian làm cùng một việc không nên quá dài, các con sẽ cảm thấy mệt.” Nhưng trẻ vốn có tâm lí muốn phát huy hết sức, trong khi giáo dục nhà trường hiện tại không thể giúp trẻ phát huy đầy đủ bản năng sáng tạo của mình. Trẻ còn có cảm giác thích được hoạt động chân tay, có cảm giác thích nỗ lực làm việc. Chúng tìm thấy niềm vui khi được làm việc, tìm thấy cái tôi trong quá trình an ủi người khác và giúp đỡ những kẻ yếu hơn.

Tôi xin lấy ví dụ so sánh Kinh Cựu ước và Kinh Tân ước để cho thấy sự khác biệt giữa trường học bình thường và trường học kiểu cũ. Mười điều răn trong Kinh Cựu ước được diễn đạt như sau: “Không được sát sinh”, “Không được ăn cắp”… Sở dĩ Kinh cựu ước sử dụng ngôn ngữ có ngữ khí phủ định như vậy là vì con người lúc đó còn ở trong giai đoạn mông muội, tư duy còn khá hỗn loạn. Trong Kinh tân ước, Chúa (giống như trẻ em) sử dụng ngôn ngữ mang ngữ khí khẳng định, ví dụ như “Yêu thương kẻ địch” để răn dạy những người mà đã có ý thức tự giác cao. Chúa nói rằng: “Ta cần phải thôi thúc những người có tội đó hối cải”.

Nhưng dùng những tín điều đó để giáo dục con người thì chưa đủ. Nếu chúng ta chỉ nói “yêu thương kẻ thù” ở giáo đường chứ không phải ở chiến trường, thì câu nói này sẽ chẳng có bất cứ tác dụng gì. Chúng ta sử dụng những câu như “Không được sát sinh” là vì chúng ta đặt sự chú ý của mình lên hi vọng ngăn chặn cái ác, dường như chính nghĩa đã trở nên vô dụng.

Nếu như những tín điều này chỉ là nguyện vọng tốt đẹp của chúng ta, vậy thì “yêu thương kẻ thù của con” sẽ mãi mãi chỉ là lời nói sáo rỗng.

Vì sao ư? Bởi vì những điều tốt đẹp đó chưa ăn sâu vào tâm hồn chúng ta. Có thể chúng đã từng xuất hiện trong tâm hồn ta, nhưng hiện tại chúng đã chết và đã bị chôn vùi rồi. Nếu toàn bộ nền giáo dục của chúng ta đều ủng hộ sự đối địch, cạnh tranh và dã tâm, vậy thì sau khi con người trưởng thành, làm sao chúng ta có thể dùng cách thuyết giáo để khiến con người thay đổi? Sự thay đổi này không thể xảy ra, bởi vì con người về cơ bản chưa từng được giáo dục về phương diện này.

Bản năng sáng tạo quan trọng hơn việc thuyết giáo, và điều này đã được thực tế chứng minh. Trẻ nhỏ làm việc dựa vào quy luật tự nhiên chứ không phải là dựa vào những lời thuyết giáo của thầy cô. Tâm hồn chỉ có thể có được những điều tốt đẹp thông qua hành động giúp đỡ lẫn nhau và sự hòa hợp về tinh thần. Hành vi của trẻ cho chúng ta thấy xã hội được tạo ra nhờ sự gắn kết, sức gắn kết này là căn bản của mọi tổ chức xã hội. Chính vì thế mà tôi mới nhận định rằng, người lớn không thể trực tiếp dạy dỗ trẻ 3–6 tuổi. Chúng ta chỉ có thể nghiêm túc quan sát, tìm hiểu tình trạng phát triển từng ngày của trẻ. Tạo hóa đã ban tặng cho trẻ khả năng phát triển bản thân thông qua lao động. Tạo hóa đã tặng cho trẻ một loại sức mạnh chỉ đạo nội tại, nhưng để phát triển toàn diện thì cần nỗ lực không ngừng để thu được đủ kinh nghiệm, nếu không thì bất cứ sự thuyết giáo nào cũng là vô ích. Sự trưởng thành có được là nhờ hành vi, thay vì hiểu biết về sự vật nào đó. Giáo dục trẻ em, đặc biệt là giáo dục trẻ trong giai đoạn 3–6 tuổi là việc vô cùng quan trọng, bởi vì 3–6 tuổi chính là độ tuổi bắt đầu hình thành tính cách và quan niệm xã hội (từ sơ sinh đến 3 tuổi là giai đoạn hình thành tâm lí, trước khi chào đời là giai đoạn hình thành cơ thể). Sự phát triển của trẻ 3–6 tuổi không được quyết định bởi những lời thuyết giáo bên ngoài mà phụ thuộc vào quy luật tự nhiên. Đó chính là khởi nguồn hành vi của con người, hành vi chỉ phát triển tốt trong môi trường tự do có trật tự mà thôi.

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x