Trang chủ » Chương 3 – Những giai đoạn phát triển của trẻ

Chương 3 – Những giai đoạn phát triển của trẻ

by Hậu Học Văn
241 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Bộ não của người trưởng thành không thể thực hiện được những điều mà bộ não của một đứa trẻ có thể làm. Quá trình từ chưa biết đến thành thạo một ngôn ngữ đòi hỏi một năng lực tinh thần đặc biệt. Trẻ em có được năng lực đó, trí tuệ của trẻ hoàn toàn không giống với người trưởng thành.

Một số chuyên gia đã tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống về quá trình kể từ khi một đứa trẻ ra đời cho đến khi tốt nghiệp đại học, họ cho rằng có thể chia quá trình này thành những giai đoạn khác nhau. Sau Havelock Ellis và W. Stern, nhiều nhà khoa học khác cũng đồng ý với quan điểm này, trong đó có Charlotte Buhler và những người ủng hộ bà. Mặt khác, điều này cũng được khẳng định trong những nghiên cứu của trường phái Freud. Nhận định này hoàn toàn trái ngược với một số quan điểm thịnh hành trước đó. Những quan điểm đó cho rằng, một con người khi vừa mới chào đời chẳng có giá trị gì, và giá trị con người dần dần được nâng cao theo thời gian. Theo lí luận này thì một đứa trẻ sơ sinh có vai trò rất nhỏ trong toàn bộ quá trình phát triển, giá trị của trẻ dần dần được nâng cao, nhưng thường có hình thức tương tự nhau. Các chuyên gia tâm lí đã bác bỏ quan niệm cổ hủ này.

 Ngày nay, người ta cho rằng, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của con người sẽ tồn tại những loại hình tâm lí khác nhau. Ranh giới giữa những giai đoạn này rất rõ ràng. Điều thú vị là chúng có mối liên hệ mật thiết với những giai đoạn phát triển của cơ thể con người. Xét từ khía cạnh tâm lí học, sự thay đổi giữa những giai đoạn khác nhau là rất rõ ràng. Quả không ngoa khi nói rằng: “Trưởng thành là một quá trình không ngừng tái sinh”, khi một giai đoạn cá tính tâm lí kết thúc là một giai đoạn khác lại bắt đầu. Giai đoạn khởi đầu của chuỗi giai đoạn này chính là khoảng thời gian từ khi trẻ mới được sinh ra cho đến khi 6 tuổi. Dù rằng có những điểm hoàn toàn khác với những giai đoạn sau đó, nhưng trong suốt cả quá trình này, tâm lí vẫn đồng nhất. Giai đoạn này có thể được chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn: Từ 0–3 tuổi và từ 3–6 tuổi.

Trong giai đoạn từ 0–3 tuổi, người lớn không có cách nào để hiểu được tâm lí của trẻ, hay có nghĩa là, chúng ta không thể tạo ra bất cứ một ảnh hưởng trực tiếp nào đến trẻ. Trên thực tế cũng không có trường học nào tiếp nhận trẻ ở độ tuổi này. Trong giai đoạn từ 3–6 tuổi, trí tuệ của trẻ không có nhiều thay đổi lớn, nhưng trẻ bắt đầu dễ chịu ảnh hưởng từ người lớn. Trước 6 tuổi, nhân cách của trẻ có những thay đổi rất lớn. Chúng ta chỉ có thể nhận ra sự thay đổi này thông qua so sánh một đứa trẻ sơ sinh và một đứa trẻ 6 tuổi. Tạm thời bỏ qua việc lí giải những thay đổi đáng kinh ngạc này đã xảy ra như thế nào, có một sự thực không thể chối bỏ là, trẻ 6 tuổi đã có đủ trí tuệ để có thể tới trường.

 Giai đoạn tiếp theo là từ 6–12 tuổi. Giai đoạn này không có sự thay đổi lớn nào. Trẻ tỏ ra yên bình và vui vẻ. Xét từ góc độ tinh thần, trẻ đang ở giai đoạn phát triển lành mạnh và cực kì ổn định. “Sự ổn định này thể hiện ở cả phương diện tinh thần lẫn thể chất.” Ross đã nhận định như vậy khi nhắc tới giai đoạn này, “Tính ổn định này là một đặc trưng rất rõ nét của giai đoạn qua tuổi nhi đồng. Nếu một người hành tinh khác chẳng biết gì về chúng ta đặt chân tới trái đất, và nếu họ chưa từng gặp một người trưởng thành thực thụ, rất có khả năng họ sẽ lầm tưởng một đứa trẻ mười mấy tuổi chính là một con người trưởng thành.”

Từ phương diện sinh lí, có những biến đổi rõ rệt giữa hai giai đoạn này. Đó là những điều mà ta có thể dễ dàng nhận ra. Việc trẻ thay răng chính là một ví dụ điển hình.

Giai đoạn thứ ba là từ 12–18 tuổi. Con người trong giai đoạn này sẽ có những thay đổi tương đối lớn. Cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn: Từ 12–15 tuổi và từ 15–18 tuổi. Thể chất con người có những biến đổi và gần như trưởng thành trong giai đoạn này. Đến năm 18 tuổi, quá trình dậy thì của con người về cơ bản đã hoàn tất, sau 18 tuổi, cơ thể người không còn sự thay đổi to lớn nào khác, thứ duy nhất tăng lên chính là tuổi tác mà thôi.

Điều khiến chúng ta ngạc nhiên là, các quan chức ngành giáo dục đã ý thức được những giai đoạn tâm lí này, nhưng dường như nhận thức của họ chỉ dừng lại ở mức là những trực giác mơ hồ. Giai đoạn từ 0–6 tuổi đã được thừa nhận một cách rõ ràng, bởi lẽ lứa tuổi này không nằm trong phạm vi phải tiếp nhận giáo dục. Mọi người đều biết rằng, thời điểm 6 tuổi có một sự thay đổi lớn, đó chính là trẻ đã có thể đi học. Điều này cho thấy, chúng ta công nhận rằng một đứa trẻ 6 tuổi có thể hiểu rất nhiều điều. Trên thực tế, nếu trẻ không có năng lực tự chủ, không biết đi, không thể hiểu lời giáo viên nói thì trẻ sẽ không thể nào tham gia cuộc sống tập thể. Vì vậy, có thể nói rằng, sự thay đổi này đã được thừa nhận qua thực tế. Tuy nhiên, các nhà lí luận giáo dục lại tỏ ra chậm chạp trong việc nhận thức vấn đề này. Trẻ có thể đến trường, có năng lực tự chủ, có thể nghe hiểu lời người khác nói, cho thấy rằng giai đoạn từ 0–6 tuổi có những bước tiến lớn, bởi khi mới chào đời, trẻ chưa hề biết làm những việc đó.

Giai đoạn thứ hai, vô tình hay hữu ý cũng được thừa nhận, bởi ở đại đa số các quốc gia, trẻ 12 tuổi sẽ rời trường tiểu học hoặc bắt đầu cấp trung học. Tại sao nói từ 6–12 tuổi là giai đoạn thích hợp để truyền thụ những khái niệm văn hóa cơ bản cho trẻ? Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi mà hầu hết các quốc gia đều có nhận định và hành động như vậy. Việc thiết kế kết cấu giáo dục như vậy chỉ có thể được hình thành trên những cơ sở tâm lí chung của trẻ. Việc thiết kế này là kết luận có được thông qua đúc rút kinh nghiệm. Thực tế, kinh nghiệm đã nói với chúng ta rằng, trí tuệ của trẻ ở độ tuổi này phù hợp với yêu cầu của giáo dục nhà trường. Trẻ có thể nghe hiểu lời giảng của giáo viên cũng như có thể kiên nhẫn nghe giảng và học tập. Trong suốt giai đoạn này, trẻ có thể kiên trì học tập và cũng rất khỏe mạnh. Đó cũng chính là lí do vì sao lứa tuổi này được nhận định là giai đoạn thích hợp nhất để tiếp nhận văn hóa.

Sau 12 tuổi, một hình thức giáo dục nhà trường khác được hình thành, điều này đồng nghĩa với việc các nhà giáo dục đã nhận thức được rằng, cá thể đã bước vào một giai đoạn phát triển trí tuệ khác. Giai đoạn này vẫn có thể được chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn. Cấp trung học được chia thành trung học cơ sở và trung học phổ thông chính là minh chứng cho điều này. Trung học cơ sở thường kéo dài ba năm và cấp trung học phổ thông là bốn năm. Việc phân chia thời gian học vốn không quan trọng. Điều chúng ta quan tâm là trên thực tế sáu năm giáo dục trung học được chia thành hai giai đoạn. Nói tóm lại, giai đoạn này không còn yên ả và đơn giản như giai đoạn trước. Sở dĩ các chuyên gia tâm lí chú trọng giáo dục thanh thiếu niên là vì giai đoạn này tâm lí con người nảy sinh những thay đổi rất lớn, gần giống như giai đoạn từ 0–6 tuổi. Tính cách của thanh thiếu niên giai đoạn này cực kì bất ổn và có xu hướng nổi loạn. Sự phát triển thể chất cũng không còn ổn định như trước. Nhưng nhà trường lại không quan tâm đến điều này. Cho dù trẻ có muốn hay không thì nhà trường vẫn đã ấn định cho trẻ thời gian biểu, việc của trẻ là tuân theo. Trẻ không thể không dành thời gian dài ngồi nghe giảng và chuyên tâm học tập.

Đại học là bậc học cao nhất trong giáo dục nhà trường. Giáo dục đại học về thực chất không có gì khác biệt so với những cấp học đã nói ở trên, tất nhiên là trừ phương diện lượng giáo trình. Trong trường đại học, vẫn là giảng viên giảng bài, sinh viên lắng nghe. Suốt thời ngồi trên ghế giảng đường, rất nhiều sinh viên không cạo râu, họ để đủ kiểu râu khác nhau. Việc họ tụ tập cùng nhau trong giảng đường nom thật kì quái. Những con người đã trưởng thành này bị đối xử chẳng khác nào trẻ nhỏ: Bị bắt ngồi nghe giảng, đáp ứng yêu cầu của giảng viên, được sự cho phép của cha mẹ mới được hút thuốc hoặc đi tàu điện, ngoài ra còn bị trách mắng vì thành tích kì thi không tốt. Đó là những người mà trí tuệ của họ sẽ là nền tảng để xây dựng sự nghiệp, trong tương lai sẽ là những bác sĩ, kĩ sư, kiến trúc sư…

Vậy thì, chúng ta chắc chắn sẽ thắc mắc, phải mất bao lâu họ mới có được học vị? Liệu họ có thể tự kiếm tiền để nuôi sống bản thân hay không? Họ có thể đảm nhận những trọng trách nghề nghiệp hay không? Có ai dám giao việc thiết kế công trình cho một kiến trúc sư trẻ tuổi như vậy? Một luật sư trẻ sẽ kiện tụng ra sao? Chúng ta nên giải thích hiện tượng mất lòng tin vào giới trẻ này như thế nào? Đó là vì những người trẻ tuổi này đã phải mất quá nhiều năm ngồi nghe giảng, trong khi chỉ nghe giảng thì không thể tạo nên một nhân tài thực thụ. Chỉ có thực hành và kinh nghiệm mới có thể khiến những con người trẻ tuổi này trở nên thực sự trưởng thành. Đó là lí do vì sao bác sĩ cần có mấy năm thực tập, luật sư cần có chuyên gia hướng dẫn, kiến trúc sư cần nhiều năm công tác thực tế mới có thể bắt tay vào thiết kế. Hơn thế nữa, để có thể đảm nhận các công tác này, những sinh viên vừa tốt nghiệp không thể không tìm kiếm sự giúp đỡ và tiến cử, ngoài vô số những chướng ngại không thể lường trước.

Đáng tiếc là tình trạng này đang tồn tại ở tất cả các quốc gia. Tại New York đã từng xảy ra một cuộc biểu tình của những sinh viên thất nghiệp. Hàng trăm người không thể tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp đã giơ cao dòng chữ: “Không ai thuê chúng tôi. Tương lai chúng tôi sẽ ra sao?” Không ai có thể trả lời câu hỏi này. Giáo dục xa rời thực tiễn, hơn nữa không thể thay đổi truyền thống thâm căn cố đế này. Công việc của giáo dục chỉ là nhận thức rằng mỗi cá thể trong những giai đoạn khác nhau thì có những hình thức phát triển khác nhau.

Vào thời tôi còn trẻ, chẳng có ai quan tâm đến những đứa trẻ từ 2–6 tuổi. Ngày nay đã có rất nhiều lớp học chiêu sinh trẻ từ 3–6 tuổi. Nhưng cũng giống như trước, đại học vẫn được coi là mục tiêu cao nhất trong hệ thống nhà trường. Bởi những người có thể theo học đại học hẳn phải là những kẻ hơn người. Mặc dù các chuyên gia tâm lí đã bắt đầu nghiên cứu về bản thân con người từ lâu, nhưng có một xu hướng hoàn toàn trái ngược đang ngày càng trở nên rõ nét. Giống như tôi, rất nhiều người cũng cho rằng, giai đoạn quan trọng nhất của đời người không phải là thời đại học, mà chính là giai đoạn từ 0–6 tuổi. Bởi vì trí tuệ của con người được hình thành từ giai đoạn này. Không chỉ có trí tuệ mà cả sự định hình năng lực tinh thần của con người cũng được hoàn tất trong giai đoạn này. Quan điểm trên đã để lại cho những người đang tìm hiểu tiềm năng con người một ấn tượng sâu sắc, rất nhiều người bắt đầu nghiên cứu về trẻ từ giai đoạn sơ sinh cho đến 1 tuổi. Bởi giai đoạn này quyết định đặc trưng nhân cách của một đứa trẻ sau này.

Sự quan tâm của giới nghiên cứu đối với vấn đề này có thể sánh ngang với sự lo lắng của con người thời xưa trước cái chết. Sau khi chết, con người sẽ ra sao? Chẳng còn gì khiến người ta quan tâm hơn thế. Nhưng ngày nay đã có một lĩnh vực mới nơi con người có thể sử dụng trí tưởng tượng vô hạn của mình. Vì chúng ta đã bắt đầu phát hiện ra những năng lực chưa từng được biết tới ở những đứa trẻ sơ sinh.

Tại sao con người lại phải trải qua thời kì sơ sinh chậm chạp và khiến người ta vất vả đến vậy? Không có bất cứ động vật nào giống chúng ta. Điều gì diễn ra trong quá trình trưởng thành này? Không còn nghi ngờ gì nữa, có một thế lực sáng tạo đang phát huy tác dụng của nó. Một đứa trẻ vừa ra đời vốn chẳng biết gì, ấy vậy mà chỉ một năm sau đó, trẻ đã biết mọi thứ. Trẻ vừa mới chào đời, không có tri thức, không có kí ức, không có bất cứ điều gì thuộc về chủ quan, trẻ chỉ không ngừng lớn lên theo thời gian. Một con mèo vừa ra đời đã biết kêu “meo meo”, chim mới nở và bê mới sinh đã biết phát ra âm thanh giống như cá thể trưởng thành. Nhưng con người thì không như vậy, một đứa trẻ sơ sinh chỉ có thể dùng tiếng khóc để bộc lộ cảm xúc của mình. Vì vậy mà con người không có cách nào để giải quyết vấn đề về sự phát triển và trưởng thành, mà chỉ có thể tiến hành nghiên cứu thực tế về sự phát triển đó mà thôi. Đó là một quá trình bắt đầu từ không đến có, một quá trình thật kì diệu. Đối với đầu óc của chúng ta, hiểu được quá trình kì diệu này quả thực khó khăn.

 Để hoàn tất bước tiến này, trẻ nhỏ cần có một bộ óc hoàn toàn khác với người trưởng thành chúng ta. Bộ óc của trẻ có sức mạnh hoàn toàn khác với của người trưởng thành, nó mang tính sáng tạo lớn lao. Trẻ không những hoàn tất việc tạo ra ngôn ngữ, đồng thời còn hoàn thiện những cơ quan phát âm của chúng. Thể chất của trẻ luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng để đáp ứng sự phát triển của những yếu tố như trí lực. Tất cả những công tác vĩ đại này đều không được hoàn thành trong tình trạng có ý thức. Người trưởng thành như chúng ta biết mình muốn gì, còn trẻ thì không. Trẻ phải đồng thời sáng tạo ra tri thức và cả nguyện vọng tiếp thu tri thức.

Nếu chúng ta gọi hành vi của người trưởng thành là có ý thức thì hành vi của trẻ chính là vô thức, nhưng sự vô thức đó hoàn toàn không giống với những gì chúng ta hằng tưởng tượng. Đó là một bộ óc vô thức nhưng lại sở hữu những trí tuệ phi thường. Chúng tôi phát hiện ra rằng, điều này đúng với tất cả các loài sinh vật, bao gồm cả côn trùng, tất cả đều được tạo hóa phú cho trí tuệ vô thức đó. Trẻ nhỏ có được trí tuệ vô thức và đó chính là thứ đã giúp trẻ đạt được những bước tiến lớn.

Quá trình trưởng thành bắt đầu từ việc trẻ tiếp thu những tri thức từ môi trường xung quanh. Trẻ đã làm việc đó như thế nào? Trẻ tiếp nhận tri thức thông qua những đặc điểm mà chúng ta đã biết về chúng. Những sự vật xung quanh đánh thức sự tò mò và lòng nhiệt tình ở trẻ, khiến trẻ nảy sinh tính mẫn cảm đặc trưng với sự vật, từ đó sự tương tác giữa trẻ và sự vật bắt đầu. Trẻ không tiếp thu tri thức bằng tư tưởng chủ quan, mà bằng khả năng thiên phú của chúng.

 Ngôn ngữ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho điều này. Điều gì xảy ra khi một đứa trẻ học nói? Chúng tôi trả lời rằng, trong mỗi đứa trẻ đã sẵn có khả năng nghe hiểu người khác. Cho dù đồng ý với nhận định này, có thể các bạn vẫn sẽ thắc mắc, tại sao giữa vô vàn âm thanh xung quanh, trẻ chỉ tiếp nhận và học tập tiếng nói của con người mà thôi? Nếu trẻ chỉ tiếp nhận và học tập tiếng nói của con người, thì chắc hẳn ngôn ngữ của con người phải mang lại cho trẻ ấn tượng sâu sắc hơn tất thảy. Ấn tượng này phải rất mạnh mẽ và tạo ra một sự đồng cảm lớn lao, từ đó khiến đầu óc trẻ nảy sinh lòng nhiệt tình đến nỗi trẻ tự mình phát ra thứ ngôn ngữ đó.

Có thể so sánh như thế này, những âm thanh tuyệt mĩ trong một buổi hòa nhạc có thể làm thay đổi biểu cảm của khán giả, tay và đầu của họ có thể bất giác chuyển động theo sự thay đổi của âm nhạc. Trong bộ óc vô thức của trẻ cũng có thể nảy sinh thứ phản ứng giống như hiện tượng phản ứng tâm lí của con người trước âm nhạc vậy. Thậm chí phản ứng của trẻ trước ngôn ngữ còn mạnh mẽ hơn thế. Ta dường như không cảm nhận được sự chuyển động của lưỡi, của má và sự rung lên của các cơ quan phát âm, tất cả đều đang âm thầm chuẩn bị cho việc trẻ học phát âm. Điều này đã tạo ra ảnh hưởng rất lớn trong bộ óc vô thức của trẻ. Trẻ học nói như thế nào? Làm thế nào mà ngôn ngữ trở thành một phần cố định trong nhân cách tâm lí của trẻ? Thứ ngôn ngữ mà con người học được trong thời kì sơ sinh được gọi là tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ so với những thứ ngôn ngữ khác mà con người học được sau này có sự khác biệt rất rõ ràng, tựa như răng giả và răng thật thì không thể giống nhau vậy.

 Làm thế nào mà những âm thanh ban đầu là vô nghĩa lại có thể trở thành thứ chuyển tải ý nghĩa và tư tưởng? Trẻ đã không chỉ học từ đơn và nghĩa của từ đơn, mà trên thực tế đã học được câu và kết cấu của câu. Khi hiểu được ngôn ngữ, chúng ta buộc phải hiểu được kết cấu của câu. Ví dụ, khi ta nói: “Cái cốc ở trên bàn”, trật tự của từ đơn ở mức độ nào đó đã quyết định ý nghĩa của câu. Còn nếu nói: “Bàn trên ở cái cốc.” thì câu sẽ không có ý nghĩa. Chúng ta hiểu ý nghĩa của câu qua trật tự của từ, đó chính là cách trẻ lí giải câu.

Vậy thì tất cả những điều đó diễn ra như thế nào? Có thể nói rằng: “Trẻ đã ghi nhớ.” Nhưng để ghi nhớ thì phải có trí nhớ, mà một đứa trẻ lại chưa có được điều này. Ngược lại, trẻ phải xây dựng trí nhớ. Trước khi hiểu rằng trật tự từ tạo ra ngữ nghĩa, con người phải học được cách suy luận. Đó chính là năng lực mà trẻ còn thiếu.

 Bộ não của người lớn không thể làm được điều mà bộ não của một đứa trẻ có thể làm, việc từ không biết đến thành thạo một ngôn ngữ đòi hỏi một năng lực tâm lí đặc biệt. Trẻ nhỏ có được năng lực tâm lí này, trí tuệ của trẻ hoàn toàn không giống người lớn.

 Có thể nói, con người tiếp thu tri thức thông qua đại não, còn trẻ em lại tiếp thu tri thức bằng năng lực tâm lí. Trẻ dần dần học được tiếng mẹ đẻ thông qua quá trình sống, một thứ phản ứng văn hóa tinh thần đang diễn ra trong con người trẻ. Ngược lại, quá trình học tập của người lớn chỉ là quá trình tiếp nhận mà thôi. Tri thức đi vào bộ não của chúng ta và chúng ta lưu giữ chúng, giữa chúng ta và tri thức đó không xây dựng mối liên hệ trực tiếp, cũng như một chiếc bình hoa không trực tiếp liên quan đến nước đựng ở trong nó vậy. Còn trẻ thì trải qua một quá trình thay đổi, tri thức không chỉ đi vào bộ não mà còn thúc đẩy sự hình thành bộ não và trở thành một phần bên trong đó. Thông qua môi trường xung quanh, trẻ bắt đầu xây dựng thế giới tinh thần của mình. Chúng ta gọi hình thức tâm lí này là “sự thẩm thấu của tâm hồn”.

Đối với chúng ta, năng lực tâm lí ở trẻ là thứ thật khó để hình dung, nhưng sức mạnh của nó là thứ mà ta không thể phủ nhận. Nếu chúng ta có được năng lực đó giống như trẻ, có thể trong lúc vui chơi thỏa thích vẫn học được một ngôn ngữ mới thì tốt biết mấy! Nếu chúng ta có thể tiếp thu tri thức một cách nhẹ nhàng như việc ăn uống và hít thở thì tốt biết mấy! Ban đầu, ta chẳng cảm nhận thấy bất cứ thay đổi nào, rồi bỗng nhiên những gì ta đã học xuất hiện trong đầu óc ta tựa như một ngôi sao, để rồi ta ý thức được sự tồn tại của một tri thức mới bên trong mình.

 Thử tưởng tượng rằng có một hành tinh mà ở đó không có trường học và giáo viên, không ai biết việc học hành là gì, con người chẳng làm gì cả, cả ngày chỉ vui chơi và ăn uống mà vẫn học được rất nhiều điều. Đến đây, các bạn hẳn đang cho rằng điều tôi nói chỉ là tưởng tượng viển vông, nhưng tất cả là sự thật. Đó chính là cách mà trẻ học tập, trẻ dần dần học được từng thứ một cách nhẹ nhàng trong vô thức, từ vô thức đến có ý thức mà không chịu bất cứ gánh nặng nào.

Việc tiếp thu tri thức của con người xem ra rất vĩ đại. Đó là quá trình vừa tiếp thu tri thức vừa hình thành nên não bộ. Nhưng chúng ta cũng phải trả giá vì việc đó, cho đến khi việc học tập của con người trở thành một việc có ý thức thì mỗi thứ mà chúng ta học được đều phải trả một cái giá rất lớn.

Vận động là một nội dung học tập quan trọng khác của trẻ. Khi vừa mới chào đời, trẻ chỉ có thể nằm yên nhìn ngày tháng trôi. Nhưng chẳng bao lâu sau, trẻ đã biết đi, biết cử động, biết làm. Trẻ vô tư vui đùa cả ngày và rồi dần dần học được các loại động tác. Khi đã học được ngôn ngữ, trẻ bắt đầu học cách vận động. Không những thế, trẻ còn học được rất nhiều thứ khác với một tốc độ đáng kinh ngạc. Trẻ học mọi thứ xung quanh mình, tập quán, truyền thống, tôn giáo, tất cả đều tạo được dấu ấn sâu sắc trong đầu trẻ.

Việc học cách vận động của trẻ không diễn ra tùy tiện mà tuân theo một quy luật cố định. Mỗi động tác được học vào một thời điểm nhất định. Kể từ khi học vận động, não bộ của trẻ bắt đầu tìm hiểu môi trường xung quanh. Trước đó, trẻ đã có sự phát triển vô thức. Kể từ khi học động tác đầu tiên, vô thức đã trở thành có ý thức. Nếu quan sát một đứa trẻ 3 tuổi, bạn sẽ phát hiện ra rằng trẻ luôn chơi một thứ gì đó. Điều đó có nghĩa là trẻ đang biến những thứ vô thức ban đầu thành có ý thức. Thông qua những kinh nghiệm bên ngoài mà trẻ coi như là một trò chơi, trẻ bắt đầu nghiên cứu những thứ mà ban đầu trẻ đã học một cách vô thức. Trẻ bắt đầu trở nên có ý thức, tự hoàn thiện bản thân bằng hành động của mình. Trẻ tự hoàn thành quá trình này bằng kinh nghiệm. Ban đầu trẻ coi một điều gì đó là trò chơi, rồi sau đó là công việc. Và đôi tay chính là công cụ mang lại trí tuệ cho con người. Sau những kinh nghiệm, tính cách sẽ quyết định con người trẻ, và đương nhiên đồng thời cũng trở thành thứ hạn chế trẻ. Bởi lẽ so với thế giới vô thức và tiềm thức thì thế giới tri thức là vô cùng hạn chế.

 Sau khi được sinh ra, trẻ bắt đầu hành trình đầy thần bí này, dần dần xây dựng nên ý thức cá nhân và thích ứng với đất nước và thời đại. Trẻ dần xây dựng tư tưởng của mình, cho đến khi nó trở thành một phần của trí nhớ, đồng thời trang bị cho bản thân năng lực lí giải và suy nghĩ. Cuối cùng, khi được 6 tuổi, trong mắt của những người làm công tác giáo dục, trẻ bỗng có năng lực lí giải và có đủ kiên nhẫn để nghe giảng, nếu không thì đã không thể nào dạy dỗ chúng.

 Thứ cuốn sách này muốn bàn luận chính là giai đoạn đầu tiên này. Những nghiên cứu về những năm đầu đời của trẻ đã mở rộng tầm mắt cho chúng ta, không ai là không kinh ngạc trước những sự thật này. Với tư cách là những người trưởng thành, công việc của chúng ta không phải là giáo dục, mà là hỗ trợ sự phát triển trí tuệ của trẻ. Nếu bằng sự chuẩn bị sẵn sàng, sự tôn trọng đúng mức dành cho trí tuệ của trẻ, sự thấu hiểu những nhu cầu của trẻ, chúng ta có thể kéo dài giai đoạn trí tuệ có sức thẩm thấu này thì tốt biết bao! Nếu có thể giúp con người tiếp thu tri thức một cách nhẹ nhàng nhất, thì đó sẽ là công hiến to lớn nhất cho nhân loại. Nếu con người có thể tiếp thu tri thức trong vô thức thì đó sẽ là việc thần kì nhất! Tất nhiên, chẳng phải mọi thứ trong thế giới tự nhiên đều kì diệu sao.

Việc phát hiện ra rằng trẻ nhỏ có thể tiếp thu tri thức một cách tự nhiên đã mở ra một cuộc cách mạng trong giáo dục. Chúng ta dễ dàng hiểu được vì sao giai đoạn hình thành tính cách của trẻ – cũng chính là giai đoạn phát triển đầu tiên của con người – lại vô cùng quan trọng. Đó là giai đoạn mà trẻ cần được trợ giúp nhất. Chúng ta cần loại bỏ bất cứ điều gì ngăn trở sức sáng tạo của trẻ, để sức sáng tạo đó được phát huy một cách tối đa. Chúng ta cần giúp đỡ trẻ,không phải vì trẻ yếu ớt không thể làm gì, mà vì sức sáng tạo thiên bẩm của trẻ vô cùng mong manh và cần được yêu thương và bảo vệ một cách thích hợp. Chúng ta giúp trẻ phát huy những năng lực tiềm tàng này không phải vì giúp đỡ bản thân trẻ, cũng không phải là hỗ trợ những điểm yếu của trẻ. Khi biết rằng những năng lực này thuộc về vô thức, sự vô thức này thông qua việc đúc rút kinh nghiệm từ môi trường xung quanh sẽ trở thành có ý thức, chúng ta phát hiện ra rằng tâm lí của trẻ nhỏ hoàn toàn không giống với người lớn. Chúng ta không thể đạt được mục đích bằng cách dùng ngôn ngữ để chỉ đạo hay trực tiếp tham gia vào quá trình đó, vì thế toàn bộ những quan niệm giáo dục có liên quan đã bị thay đổi. Giáo dục trở thành phương thức trợ giúp sự phát triển tâm lí của trẻ chứ không còn là quá trình tuyên truyền thuyết giảng bằng ngôn ngữ và quan điểm.

Đó chính là phương hướng phát triển của giáo dục – mang lại sự trợ giúp cho quá trình phát triển tâm lí, hỗ trợ nhằm nâng cao tiềm năng của trẻ.

Tiếp Chương 4

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bình chọn nhiều nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của Tạo hóa ❁ Chương 6. […]

1
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x