Trang chủ » 16. TRẢ LỜI QUYẾT ĐỊNH CỦA THÁNH VỤ VIỆN

16. TRẢ LỜI QUYẾT ĐỊNH CỦA THÁNH VỤ VIỆN

by Trung Kiên Lê
81 views

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

HÀNH TRÌNH TƯ TƯỞNG CỦA TOLSTOI

PHẦN I: TÁC PHẨM

1. Về giáo dục quốc dân

2. Về giáo dục và đào tạo

3. Tự bạch

4. Tín ngưỡng của tôi

5. Lời bạt cho bản SONAT KREUTZER

6. Về cuộc sống

7. Yêu lao động, hay là thắng lợi của nhà nông

8. Vương quốc của thiên chúa ở trong ta

9. Tôn giáo và đạo đức

10. Vô vi

11. Nhân hội nghị về hòa bình

12. Hai cuộc chiến

13. Lời tựa cho bài viết của EDWARD CARPENTER

14. Chủ nghĩa ái quốc và chính phủ

15. Đừng giết người

16. Trả lời quyết định của thánh vụ viện

17. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu?

18. Về khoan dung tín ngưỡng

19. Lời tựa cho tiểu sử anh ngữ của GARRISON do V.G CHERTKOV và F. HOLLA biên soạn

20. Gửi nhân dân lao động

21. Gửi các nhà hoạt động chính tri

22. “Hãy tỉnh ngộ”

23. Chung cục một thời đại

24. Lời kêu gọi những người Nga

25. Về ý nghĩa của cách mạng Nga

26. Thư gửi một người Trung Quốc

27. Thư gửi một người Ấn Độ

28. Phúc đáp một phụ nữ Ba Lan

29. Gửi đại hội Slave ở Sofia

30. Tham luận chuẩn bị cho Đại hội hòa bình tại Stokholm

31. Bàn thêm về khoa học

32. Bàn về giáo dục

33. Bước ngoặt không thể tránh khỏi

34. Chỉ một giới luật

35. Về chủ nghĩa xã hội

36. [Bài nói đã ghi âm]

37. Chuyện trò với thiếu nhi về những vấn đề đạo đức

38. Hãy tin mình

39. Tự nhủ

40. Đường sống

PHẦN II: THƯ TỪ

1. Thư của Tolstoi

2. Tolstoi với I.S.Turgenev

3. Tolstoi với Vladimir Soloviev

4. Tolstoi với Romain Rolland 

5. Tolstoi với Bernard Shaw

6. Tolstoi với M. Gandhi

7. Tolstoi với Adin Ballou và Lewis G. Wilson 

8. Tolstoi với một viên chức Mỹ

9. Tolstoi với hai nữ sinh da màu Mỹ

NGÀY 20-22 THÁNG HAI VÀ NHỮNG THƯ NHẬN ĐƯỢC NHÂN CƠ HỘI NÀY

He who begins by loving Christianity better than Truth will proceed by loving his own Sect or church better than Christianity, and end in loving himself better than all.

Coleridge

Ban đầu tôi không muốn trả lời quyết định về tôi của thánh vụ viện, nhưng quyết định ấy đã kéo theo nó rất nhiều thư từ, mà trong đó những người tôi không quen biết – người thì mắng chửi tôi về việc tôi gạt bỏ cái mà tôi không gạt bỏ, những người khác thì dụ dỗ thôi tin vào cái mà tôi vẫn không ngừng tin, những người thứ ba thì bày tỏ sự đồng tư tưởng với tôi là cái mà vị tất tồn tại trong hiện thực, và sự cảm thông mà tôi vị tất có quyền được hưởng; và tôi quyết định đáp trả cả quyết định của thánh vụ viện, chỉ ra những gì không đúng ở đấy, và cả những bức thư gửi tôi của những tác giả tôi không quen biết.

Quyết định của thánh vụ viện nói chung có nhiều khuyết điểm. Nó không hợp pháp hoặc mập mờ một cách cố ý; nó võ đoán, thiếu căn cứ, thiếu chân thật và ngoài ra còn chứa đựng sự vu khống và xúi giục những tình cảm và hành vi xấu.

Nó không hợp pháp hoặc mập mờ một cách cố ý, bởi vì nếu nó muốn là một quyết định khai trừ khỏi hội thánh thì nó không đáp ứng những quy định của hội thánh mà theo đó một sự khai trừ như thế phải tuân thủ, còn nếu đó là một tuyên bố về việc ai không tin vào hội thánh với những giáo điều của nó thì không thuộc về hội thánh ấy, thì điều đó là đuơng nhiên, và một tuyên bố như thế không thể có mục đích nào khác ngoài mục đích, về thực chất không là một quyết định khai trừ, nó lại sẽ được tưởng là như thế, và chính điều ấy đã xảy ra, bởi vì quyết định đã được mọi người tiếp nhận đúng như thế.

Nó võ đoán, bởi vì cáo buộc rằng một mình tôi không tin vào tất cả những điểm được liệt kê trong quyết định, trong khi ấy thì không chỉ nhiều người, mà hầu như tất cả những người có học ở Nga đều chia sẻ sự không tin như thế và đã và đang không ngừng biểu thị nó cả trong chuyện trò, cả trong sự đọc, cả trong những sách vở dày mỏng được ấn hành.

Nó thiếu căn cứ, bởi vì đưa ra làm cớ cho sự xuất hiện của mình sự lan truyền rộng rãi cái nguy thuyết dụ hoặc con người của tôi, trong khi đó thì tôi biết rõ rằng những người chia sẻ những quan điểm của tôi vị tất có được một trăm và những văn phẩm về tôn giáo của tôi, nhờ kiểm duyệt, được truyền bá ít ỏi đến mức đa phần những người đã đọc quyết định của thánh vụ viện đều hoàn toàn không có một khái niệm gì về những gì tôi đã viết về tôn giáo, như có thể thấy từ những thư tôi nhận được.

Nó rõ ràng nói dối khi khẳng định rằng từ phía giáo hội đã có những cố gắng không thành bảo ban tôi, trong khi ấy thì chưa bao giờ có một cái gì đó giông giống như thế.

Nó là cái mà ngôn ngữ pháp lý gọi là vu khống, bởi vì trong nó chứa đựng những điều khẳng định biết trước là bất công và thiên về làm hại tôi.

Cuối cùng nó là sự xúi giục những tình cảm và hành vi xấu bởi vì, như có thể chờ đợi, đã gây nên ở nhiều người chưa được học hành và không biết suy luận sự hằn học và căm ghét tôi, đến mức có những đe dọa giết chết trong một số bức thư tôi nhận được. “Ngươi đã bị nguyền rủa và sau khi chết sẽ chịu nhục hình muôn đời và sẽ ngoẻo như một con chó… ngươi là tên khốn nạn, là con quỷ già… hãy nhận lấy những lời nguyền” – một người viết. Người khác thì trách cứ chính phủ vì sao chưa giam tôi vào tu viện và cũng chửi rủa tràn lan trong thư.

Người thứ ba viết: “Nếu chính phủ không dọn ngươi đi thì chúng ông sẽ bắt ngươi phải câm”; thư cũng lại kết thúc bằng những lời rủa. “Để tiêu diệt một tên xỏ lá như ngươi – người thứ tư viết – ta có đủ phương tiện…” Tiếp theo là những chửi mắng bất nhã. Cũng những dấu hiệu của sự tức giận như thế tôi đã nhận thấy ở số người được gặp sau quyết định của thánh vụ viện. Vào đúng ngày 25 tháng Hai ấy, khi quyết định được công bố, đi qua quảng trường, tôi nghe thấy những lời nói vê tôi: “Đây là quỷ sứ trong hình ảnh con người”, và giả sử thành phần của đám đông là khác thì rất có thể tôi sẽ bị đánh đập, như người ta đã đánh đập, mấy năm trước đây, một người gần miếu Panteleimon ở Moskva.

Thành thử nghị quyết của thánh vụ viện nói chung rất không tốt; còn việc cuối quyết định nói rằng những nhân vật đã ký nó cầu nguyện cho tôi trở nên như họ thì cũng không làm cho nó trở thành tốt hơn.

Đấy là nói chung, còn trong chi tiết thì nghị quyết này không công chính ở chỗ sau đây. Trong quyết định có nói: “Một nhà văn được thế giới biết đến, sinh ra là người Nga, tín đồ đạo chính thống theo lễ baptême (rửa tội) và theo nền giáo dục được hưởng, bá tước Tolstoi, bị cám dỗ bởi trí khôn kiêu ngạo của mình, đã táo tợn khởi loạn chống lại Chúa và đức Kítô và sở hữu thiêng liêng của Người, trước mọi người đã công khai từ bỏ người mẹ đã nuôi dưỡng và giáo dục ông ta – giáo hội chính thống.”

Cái điều nói rằng tôi đã từ bỏ giáo hội tự xưng là chính thống là hoàn toàn đúng. Nhưng tôi đã từ bỏ nó không phải vì đã khởi loạn chống lại Chúa, mà ngược lại bởi vì bằng mọi tâm lực, mong muốn phụng sự Ngài.

Trước khi đoạn tuyệt với giáo hội và đoạn tuyệt với sự đồng tâm nhất trí với nhân dân, mà tôi quý giá đến thế sự đồng tâm nhất trí ấy, tôi đã bỏ ra mấy năm để khảo sát học thuyết của giáo hội cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn: về mặt lý thuyết tôi đã đọc lại tất cả những gì có thể đọc về học thuyết của giáo hội, đã nghiên cứu và phân tích phê phán nền thần học giáo điều; về mặt thực tiễn, trong vòng hơn một năm tôi đã tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy định của giáo hội, thực hành các tuần chay và tham gia tất cả các buổi lễ ở nhà thờ. Và tôi đã nhận ra rằng học thuyết của giáo hội về mặt lý thuyết là cái hư trá, nham hiểm và có hại, còn về mặt thực tiễn thì là tập hợp của những mê tín dị đoan và những phù phép thô thiển nhất, che khuất hoàn toàn ý nghĩa của học thuyết Kitô giáo.***

*** Chỉ cần đọc qua ít sách Kinh Lễ và quan sát những nghi lễ mà giới tăng lữ chính thống vẫn không ngừng thực hành và coi là những thánh lễ Kitô giáo để nhận thấy rằng tất cả những nghi lễ ấy không phải là cái gì khác mà chỉ là những phù phép khác nhau được áp dụng vào đủ mọi trường hợp trong đời sống. Để cho đứa trẻ nếu chết thì được lên thiên đường cần phải kip xức dầu và tắm cho nó, vừa làm vừa nói một số lời nhất định. Để cho sản phụ ra khỏi trạng thái không thanh sạch, cần phải đọc những lời thần chú xác định. Để được thành đạt trong công việc, để được sống yên ổn trong nhà mới, để lúa mì nảy nở dồi dào, để hạn hán chấm dứt, để cuộc du hành được an toàn, để khỏi bệnh, để cải thiện tình cảnh của người quá cố ở thế giới bên kia – để đạt được tất cả những thứ ấy và hàng ngàn những thứ khác, có những lời chú xác định mà người linh mục đọc ở nơi xác định và với thù lao xác định.

Và tôi quả thật đã từ bỏ nhà thờ, không thực hành những nghi lễ của nó nữa và trong chúc thư gửi những người thân thuộc đã yêu cầu họ, khi tôi qua đời, không cho các tăng lữ của nhà thờ đến với tôi và mau chóng dọn xác chết của tôi đi mà tuyệt không đọc thần chú và không cầu nguyện, như người ta dọn đi mọi vật gây tởm và không cần thiết, để khỏi quấy rầy những người sống.

Còn những luận điệu nói rằng tôi “đã dùng hoạt động văn học và tài năng được ban cho từ Thiên Chúa để truyền bá trong dân chúng những học thuyết thù địch với đức Kitô và hội thánh”,… rằng tôi “trong những sáng tác và thư từ của mình được phát tán tràn lan khắp thế gian, đặc biệt trong biên cương của tổ quốc thân yêu của chúng ta, bởi chính tôi và những học trò của tôi, với niềm hăng say của một kẻ cuồng tín hô hào bãi bỏ mọi giáo điều của hội thánh chính thống và chính bản chất của đạo Kitô” – thì cái đó không đúng. Tôi không chăm lo bao giờ cho sự quảng bá học thuyết của mình.

Thực tình mà nói, trong những sáng tác của mình tôi đã tự diễn đạt cho mình cái nhận thức của mình về học thuyết của Kitô và không giấu giếm những sáng tác ấy khỏi những ai muốn làm quen với chúng, nhưng tôi không tự in chúng bao giờ; còn nói tôi hiểu học thuyết của Kitô thế nào thì tôi chỉ nói khi người ta hỏi tôi. Với những người như thế thì tôi nói cái gì tôi nghĩ và đưa cho họ đọc những sách của tôi, nếu có.

Sau đó, trong quyết định còn nói rằng tôi “bác bỏ Thiên Chúa hiển vinh, trong tam vị nhất thể sáng tạo và thường hằng hoạt động trong vũ trụ, phủ nhận Chúa Giêsu Kitô, thần nhân đã chuộc tội và cứu rỗi nhân thế, vì chúng ta, những con người và sự cứu thoát chúng ta, đã chịu khổ nạn và đã phục sinh từ cõi chết, phủ nhận sự thụ thai chúa Kitô một cách thanh sạch theo nhân tính và sự trinh trắng trước và sau giáng sinh của Đức Mẹ chí thánh.

” Tôi bác bỏ cái tam vị nhất thể không thể hiểu được và câu chuyện hoang đường không còn có ý nghĩa gì trong thời đại ngày nay về sự sa ngã của con người đầu tiên, bác bỏ sự tích báng bổ thánh thần về một Thiên Chúa đã sinh ra từ một trinh nữ và đã chuộc tội cho loài người – tất cả cái đó đều hoàn toàn đúng. Nhưng Thiên Chúa (Thượng Đế) – tinh thần, Thiên Chúa – tình yêu, Thiên Chúa độc nhất vô nhị – khởi nguyên của tất cả thì tôi không những không bác bỏ, mà còn không thừa nhận một cái gì chân tồn ngoài Thiên Chúa, và nhìn thấy toàn bộ ý nghĩa cuộc sống chỉ ở sự thực hiện ý chí của Ngài được thể hiện trong học thuyết Kitô giáo.

Cũng được nói rằng tôi “không công nhận sự sống và sự báo đáp trong thế giới bên kia”. Nếu hiểu sự sống trong thế giới bên kia theo nghĩa cuộc giáng thế thứ hai, theo nghĩa địa ngục với những khổ đau vĩnh viễn và lũ quỷ dữ và thiên đường cực lạc thường hằng thì hoàn toàn đúng là tôi không công nhận một sự sống ở thế giới bên kia như thế; nhưng sự sống vĩnh hằng và sự báo phạt ở đây và mọi nơi, ngay bây giờ và mãi mãi thì tôi thừa nhận đến mức giờ đây, sống đến tuổi khi con người đã đứng trên mép huyệt, tôi nhiều khi phải  cố gắng để không mong muốn cái chết thể xác, tức là sự sinh ra cho cuộc sống mới, và tôi tin rằng mỗi một hành vi tốt gia tăng cái chân phúc của cuộc sống vĩnh hằng nơi tôi, còn mỗi một hành vi xấu thì thiểu giảm nó.

Cũng được nói rằng tôi bác bỏ mọi bí lễ. Cái đó hoàn toàn đúng. Tôi xem tất cả các bí lễ là những phù phép thấp kém, thô thiển, không tương thích với khái niệm về Thiên Chúa và với học thuyết của đạo Kitô, và ngoài ra còn là sự vi phạm những chỉ dẫn trực tiếp của kinh Phúc Âm. Trong lễ rửa tội cho các hài nhi tôi trông thấy một sự bóp méo rõ ràng toàn bộ cái ý nghĩa mà lễ rửa tội có thể có đối với những người lớn tự giác tiếp nhận đạo Kitô, trong sự thực hành bí lễ hôn nhân cho những người được biết trước là đã giao kết và trong sự cho phép ly hôn cũng như sự linh thiêng hóa những cuộc hôn nhân của những người đã ly hôn tôi trông thấy một sự vi phạm trực tiếp cả ý nghĩa lẫn lời văn của học thuyết Tin Mừng (Phúc Âm). Trong sự thường kỳ tha tội sau khi nghe xưng tội tôi trông thấy một trò lừa tai hại chỉ khuyến khích sự vô đạo đức và dỡ bỏ đi mọi lo sợ phạm tội.

Trong lễ xức dầu cũng như mọi lễ đăng quang, thụ chức tôi nhận ra những phép phù thủy thô bạo và cũng trông thấy những phép thuật như thế trong tục sùng bái các tranh thánh và thánh tích, cũng như trong tất cả những lễ thức, những lời nguyện, lời thần chú đầy rẫy trong sách lễ kinh. Trong lễ ban thánh thể tôi trông thấy một sự thần thánh hoá xác thịt và xuyên tạc học thuyết Kitô giáo. Trong thể chế linh mục, ngoài sự chuẩn bị lộ liễu cho một trò bịp, tôi còn thấy một sự vi phạm trực diện những lời của Kitô đã trực tiếp cấm gọi bất cứ một ai là thầy, là cha, là sư phụ (Matt.XXIII, 8-10).

Cuối cùng, như là bậc cuối cùng và trầm trọng nhất của sự mắc tội nơi tôi, được nói rằng tôi, “phỉ báng những đối tượng thiêng liêng nhất của tín ngưỡng, đã không rùng mình chế nhạo bí lễ thiêng liêng hơn cả – lễ ban thánh thể”[86]. Hoàn toàn đúng là tôi đã không rùng mình mô tả một cách đơn giản và khách quan những gì mà viên linh mục làm để chuẩn bị cái gọi là bí lễ ấy; nhưng cho rằng cái gọi là bí lễ ấy là một cái gì đó linh thiêng và mô tả nó một cách đơn giản, như nó được làm là việc phạm thánh – thì cái đó hoàn toàn không đúng.

Sự phạm thánh không ở những việc như gọi cái hàng rào là hàng rào chứ không phải là bình phong tranh thánh (iconostase), gọi cái chén là chén chứ không phải là bình thánh (potir),… nhưng sự phạm thánh kinh khủng nhất, liên tiếp và đáng phẫn nộ – đó là một số người, tận dụng mọi phương tiện lừa dối và thôi miên, cố làm cho những trẻ em và người lớn thật thà tin rằng nếu cắt bánh mì thành những mẩu nhỏ theo một cách nhất định và vừa cắt vừa hô những lời nhất định rồi thả vào rượu, thì Thiên Chúa sẽ nhập vào những mẩu nhỏ ấy; và vì ai mà mẩu nhỏ được gắp ra ấy đang sống thì người ấy sẽ được mạnh khỏe, ai mà mầu nhỏ được gắp ra ấy đã chết thì người ấy sẽ được sống tốt hơn ở thế giới bên kia; còn ai được ăn mẩu nhỏ ấy, thì Thiên Chúa sẽ nhập vào người ấy.

Lẽ nào tất cả cái đó không đáng kinh hãi!

Cho dù ai có hiểu như thế nào nhân cách của Kitô, thì học thuyết của Người rõ ràng vẫn tiêu diệt cái ác của thế gian và một cách giản dị, dễ dàng mang lại hạnh phúc cho mọi người, nếu loài người không xuyên tạc nó; nhưng toàn bộ học thuyết ấy đã bị che giấu, bị tái chế thành những phù phép thô bạo của sự tắm nước, sự xức dầu, của những động tác thân thể, những câu thần chú, những động tác nuốt bánh…, cuối cùng chẳng còn lại cái gì từ chính học thuyết ấy.

Và nếu một lúc nào đó một ai đó có gan nhắc nhở nhân quần rằng học thuyết của Kitô không ở trong những phương thuật ấy, không ở trong những lễ cầu đảo, những lễ nhà thờ, những ngọn nến, những tranh thờ, mà ở chỗ làm sao cho loài người thương yêu nhau, không lấy ác trà ác, không xét xử, không giết hại nhau, thì lập tức nổi lên ào ào những tiếng rên xiết phẫn nộ của những người thu lợi từ những trò bịp ấy và những người ấy với sự táo tợn không thể hiểu tuyên bố oang oang trong các nhà thờ, khẳng định trong các sách báo, kể cả sách giáo lý, rằng Kitô không bao giờ cấm thề thốt (tuyên thệ), không bao giờ cấm giết người (hành quyết, chiến tranh), rằng học thuyết về sự không chống cự cái ác đã được những kẻ thù của Kitô hư cấu ra với sự xảo quyệt của ác quỷ (Xem diễn từ của Amrosi, giám mục Kharkov.).

Điều kinh khủng nhất là những kẻ thu lợi từ việc ấy lừa dối không chỉ người lớn, mặc dù họ không có quyền gì làm như thế, mà cả trẻ em – chính những trẻ em, mà về chúng Kitô đã nói: Khốn nạn cho những ai lừa dối chúng. Điều kinh khủng nữa là vì những lợi ích cỏn con của mình người ta cam tâm làm một điều ác đáng sợ đến thế – che giấu đi cái chân lý đã được Kitô khai mở cho họ và hứa hẹn cho họ một phúc lợi mà với nó cái lợi họ đang thu nhận không sánh được dù chỉ ở mức một phần nghìn.

Họ hành động như một tên cướp giết cả một gia đình 5-6 người để mang đi một chiếc áo choàng cũ và 40 xu tiền. Người ta sẵn sàng chở hắn tất cả quần áo và tiền bạc, chỉ cốt hắn không giết họ. Nhưng hắn không thể hành động một cách khác. Cũng như thế với những kè bịp bợm trong tôn giáo. Có thể thuận tình nuôi dưỡng họ tốt hơn đến 10 lần, trong xa xỉ lớn nhất, chỉ cốt họ không làm hại nhân thế bằng những trò bịp của mình. Nhưng họ không thể hành động một cách khác. Và chính cái đó đáng ghê sợ. Và vì thể tố cáo những trò bịp của họ là việc không chỉ có thể, mà cần phải làm. Nễu có cái gì đó thiêng liêng thì tuyệt không phải là cái mà họ gọi là những bí lễ, mà chính là cái nghĩa vụ tố giác những trò bịp tôn giáo của họ, khi trông thấy chúng.

Nếu một người Chuvash bôi kem sữa lên thần tượng của mình hoặc lấy roi quất nó thì tôi có thể dửng dưng đi qua, bởi vì cái anh ta làm vì điều mê tín của mình, nó xa lạ với tôi và không đụng chạm đến những gì thiêng liêng đối với tôi. Nhưng khi mà người ta – dù họ có đông đến đâu, dù sự mê tín dị đoan của họ có lâu đời đến đâu và sức mạnh của họ có to lớn đến đâu – nhân danh Thiên Chúa mà toàn bộ sinh linh tôi hướng tới và nhân danh học thuyết của Kitô đã cho tôi sự sống và có thể cho tất cả mọi người sự sống – rao giảng những phù phép thô bạo nhất, thì tôi không thể bình thản nhìn trông.

Và nếu tôi gọi bằng tên thật những gì họ làm thì tôi chỉ làm cái phải làm và không thể không làm, chừng nào tôi còn tin vào Thiên Chúa và học thuyết Kitô giáo. Còn nếu họ, thay vì ghê sợ sự phạm thánh của mình, lại gọi sự tố giác những trò bịp của họ là phạm thánh, thì cái đó chỉ chứng tỏ sức mạnh của những trò bịp của họ và sẽ chỉ khiến những người tín vào Thiên Chúa và vào học thuyết của Kitô phải cố gắng hơn nữa, cố gắng hết sức phá bỏ những trò bịp che giấu khỏi loài người một Thiên Chúa chân chính.

Về Kitô – người đã đuổi ra khỏi thánh đường cừu, bò cùng những kẻ buôn bán – lẽ ra người ta cũng phải nói rằng Người đã phạm thánh. Giá mà bây giờ Người giáng thế và trông thấy tất cả những gì được làm nhân danh Người trong nhà thờ thì, còn phẫn nộ hơn và chính đáng hơn, Người sẽ quẳng đi tất tần tật những áo lễ, giáo mác, cây thập tự đáng khiếp, những chén, nến, tranh thánh và tất cả những gì mà người ta dùng để làm những phù phép che khuất khỏi loài người Thiên Chúa với học thuyết của Ngài.

Đấy là những gì đúng và không đúng về tôi trong quyết định của thánh vụ viện. Tôi quả thật không tin vào những gì mà họ nói rằng họ tin. Nhưng tôi lại tin vào nhiều điều mà họ muốn làm cho mọi người tưởng là tôi không tin.

Tôi tin vào những điều sau đây: tôi tin vào Thiên Chúa mà tôi hiểu như là tinh thần, như là tình yêu, như là khởi nguyên của tất cả. Tôi tin rằng Thiên Chúa có trong tôi và tôi có trong Ngài. Tôi tin rằng ý chí của Thiên Chúa được thể hiện sáng rõ nhất, dễ hiểu nhất trong học thuyết của con người mang tên Kitô mà coi ông như là Thiên Chúa và cầu nguyện ông theo tôi là việc phạm thánh lớn nhất. Tôi tin rằng hạnh phúc chân chính của con người là ở sự thực hiện ý chí của Chúa, mà ý chí của Ngài là làm sao cho loài người yêu thương nhau và từ đó con người ứng xử với người khác như muốn được người khác ứng xử với mình; như trong kinh Phúc Âm đã nói, toàn bộ lề luật và sấm truyền là ở đó.

Tôi tin rằng ý nghĩa cuộc sống của từng người riêng lẻ vì thế chỉ ở sự gia tăng tình yêu trong mình; rằng sự gia tăng tình yêu ấy dẫn từng con người riêng lẻ trong cõi đời tới hạnh phúc ngày một lớn hơn và lớn hơn nữa và sau khi chết tình yêu trong con người càng to lớn bao nhiêu thì hạnh phúc của nó càng nhiều bấy nhiêu, đồng thời cũng tình yêu ấy, hơn mọi cái khác, giúp sức cho sự thiết lập trên thế gian này vương quốc của Thiên Chúa, tức là một thể chế đời sống mà với nó sự bất hòa, sự lừa dối và bạo hành sẽ được thay thế bằng sự đồng thuận tình nguyện, bằng chân lý và tình yêu huynh đệ giữa người với người. Tôi tin rằng để thành công trong tình yêu có một phương tiện: cầu nguyện – không phải sự cầu nguyện công cộng ở các thánh đường, cái đó Kitô đã cấm thẳng (Matt. VI, 5-13), mà là sự cầu nguyện một mình, mà mẫu mực cũng Kitô đã cho chúng ta, – cốt lõi lời cầu ấy là khôi phục và củng cố trong ý thức nội tâm ý nghĩa của cuộc sống của ta và của sự phụ thuộc của ta chỉ vào ý chí của Chúa.

Cho dù những xác tín ấy của tôi có xúc phạm, có làm phiền lòng hay cám dỗ ai đó, có cản trở một ai đó và một cái gì đó hay không được ai đó ưa thích, thì tôi vẫn không thể thay đổi được chúng như không thể đổi thay thân thể mình. Tự tôi một mình phải sống, một mình phải chết (sắp đến lúc rồi), cho nên tôi không thể nào tin một cách khác đi so với cách tin hiện giờ, khi tôi chuẩn bị trở về với Thiên Chúa mà từ đấy tôi đã phát sinh. Tôi không nói rằng tín ngưỡng của tôi và chi có nó là chân lý không thể hồ nghi cho mọi thời, nhưng tôi không thấy một tín ngưỡng nào khác giản dị hơn, sáng rõ hơn và phù hợp hơn với mọi yêu cầu của tâm trí nơi tôi; nếu tôi được biết một tín ngưỡng như thế, thì tôi sẽ tiếp nhận nó ngay lập tức, bởi vì Thiên Chúa không cần cái gì ngoài chân lý. Nhưng trở về với những gì mà tôi đã thoát khỏi bằng những đau khổ như thế thì tôi tuyệt không thể, như con chim đã biết bay không thể chui vào vỏ trứng mà nó đã ra khỏi.

“Ai bắt đầu bằng việc yêu đạo Kitô hơn chân lý, người ấy rất nhanh sẽ yêu giáo hội mình hay giáo phái của mình hơn đạo Kitô và sẽ kết thúc bằng việc sẽ yêu mình (sự yên tĩnh của mình) hơn tất cả mọi thứ trên đời” – Coleridge đã nói.

Tôi đã đi bằng con đường ngược lại. Tôi bắt đầu từ việc yêu đạo chính thống của mình hơn sự yên ổn của mình, sau đó yêu đạo Kitô hơn giáo hội của mình, giờ đây thì tôi yêu chân lý hơn tất cả

mọi thứ trên đời. Và cho đến giờ đối với tôi chân lý trùng khít với đạo Kitô như tôi hiểu nó. Tôi tuyên tín đạo Kitô ấy; và trong chừng mực mà tôi sống theo đạo ấy, tôi sống yên ổn và sung sướng và cũng yên ổn và sung sướng đến gần với cái chết.

Moskva 

Ngày 4 tháng Tư 1901

Trả lời Quyết định của Thánh vụ viện (“Otvet na opredelenie sinoda…”) Ngày 24 tháng Hai 1901 Thánh vụ viện (Hội đồng thánh giáo) Nga, cơ quan nhà nước tối cao quản lý các tôn giáo, công bố quyết định lên án hoạt động chống lại đạo Kitô chính thống của Tolstoi. Đây không phải là quyết định khai trừ khỏi giáo hội (những quyết định như thế được tiến hành theo thể thức khác) nhưng công luận Nga và thế giới, từ lâu chứng kiến quan hệ đối kháng giữa Tolstoi và giáo hội và nhà nước Nga, đã tiếp nhận nó là như thế và đã có những phản ứng rất khác nhau, từ nhiệt liệt bênh vực Tolstoi đến vào hùa với nhà cầm quyền đòi hừng trị thẳng tay “kẻ phản đạo”. Sau một thời gian do dự, vào cuối tháng Ba 1901 ông đã viết bài trả lời này, đầu tháng Tư gửi sang Anh cho Chertkov, sau khi xuất hiện trên tờ Ngôn luận tự do của Chertkov, nó đã được đăng lại trên hàng trăm tờ báo ở mọi châu lục.

[86]   … chế nhạo bí lễ thiêng liêng hơn cả – lễ ban thánh thể… – Tolstoi đã mô tả tỉ mỉ, với những lời bình lên án, lễ ban thánh thể trong tiểu thuyết Phục sinh (chương XXXIX – XL, phần Hai). Cũng cần phải nói rằng sau này Tolstoi đã tỏ ra hối hận về thái độ cố chấp của mình, xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của những người khác. Xem thư của ông gửi tòa soạn các báo, tr. 1027 -1028 sách này.

❁ ❁ ❁ 
Tác giả: Lev Tolstoi
Nguồn: DTV eBook.

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x