Trang chủ » 33. BƯỚC NGOẶT KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI 

33. BƯỚC NGOẶT KHÔNG THỂ TRÁNH KHỎI 

by Trung Kiên Lê
89 views

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

HÀNH TRÌNH TƯ TƯỞNG CỦA TOLSTOI

PHẦN I: TÁC PHẨM

1. Về giáo dục quốc dân

2. Về giáo dục và đào tạo

3. Tự bạch

4. Tín ngưỡng của tôi

5. Lời bạt cho bản SONAT KREUTZER

6. Về cuộc sống

7. Yêu lao động, hay là thắng lợi của nhà nông

8. Vương quốc của thiên chúa ở trong ta

9. Tôn giáo và đạo đức

10. Vô vi

11. Nhân hội nghị về hòa bình

12. Hai cuộc chiến

13. Lời tựa cho bài viết của EDWARD CARPENTER

14. Chủ nghĩa ái quốc và chính phủ

15. Đừng giết người

16. Trả lời quyết định của thánh vụ viện

17. Tôn giáo là gì và bản chất của nó ở đâu?

18. Về khoan dung tín ngưỡng

19. Lời tựa cho tiểu sử anh ngữ của GARRISON do V.G CHERTKOV và F. HOLLA biên soạn

20. Gửi nhân dân lao động

21. Gửi các nhà hoạt động chính tri

22. “Hãy tỉnh ngộ”

23. Chung cục một thời đại

24. Lời kêu gọi những người Nga

25. Về ý nghĩa của cách mạng Nga

26. Thư gửi một người Trung Quốc

27. Thư gửi một người Ấn Độ

28. Phúc đáp một phụ nữ Ba Lan

29. Gửi đại hội Slave ở Sofia

30. Tham luận chuẩn bị cho Đại hội hòa bình tại Stokholm

31. Bàn thêm về khoa học

32. Bàn về giáo dục

33. Bước ngoặt không thể tránh khỏi

34. Chỉ một giới luật

35. Về chủ nghĩa xã hội

36. [Bài nói đã ghi âm]

37. Chuyện trò với thiếu nhi về những vấn đề đạo đức

38. Hãy tin mình

39. Tự nhủ

40. Đường sống

PHẦN II: THƯ TỪ

1. Thư của Tolstoi

2. Tolstoi với I.S.Turgenev

3. Tolstoi với Vladimir Soloviev

4. Tolstoi với Romain Rolland 

5. Tolstoi với Bernard Shaw

6. Tolstoi với M. Gandhi

7. Tolstoi với Adin Ballou và Lewis G. Wilson 

8. Tolstoi với một viên chức Mỹ

9. Tolstoi với hai nữ sinh da màu Mỹ

Vương quốc của Thiên Chúa ở trong ta và đến được bằng nỗ lực.

Điếc đặc nhất là những ai không muốn nghe thấy.

Ngạn ngữ Pháp

Lời nói đầu

Tôi biết nhiều người, nhiều người đấy, nhất là trong số những người gọi là có học vấn, chỉ cần ngó vào bài viết này của tôi và hiểu được nó nói về cái gì là lập tức nhún vai, cười khẩy và không đọc tiếp nữa. vẫn chuyện “bất kháng” cũ, sao ông ấy không thấy nhàm chán, họ sẽ nói.

Tôi biết sẽ là thế, thứ nhất, với những người được gọi là các học giả, mà tri thức của họ không ăn khớp với những gì tôi nói, thứ hai, vốỉ những người đang mải mê với hoạt động chính quyền hoặc cách mạng, mà trước họ bài viết này đặt ra một song đề: thừa nhận là phi lý hoặc cái mà họ đã và đang làm trong nhiều năm và vì nó mà đã hy sinh nhiều đến thế, hoặc cái mà tôi nói. Cũng sẽ là thế cả với những người gọi là có học mà trong những vấn đề quan trọng nhất của đời sống quen không nghĩ bằng cái đầu của mình mà chỉ tiếp thụ những ý kiến của cái đa số bao quanh họ biện hộ cho tình thế của tất cả họ.

Nhưng tôi biết rằng tất cả những ai suy nghĩ độc lập và cả đa phần những người lao động còn chưa bị làm hư bởi cái mớ bòng bong của những tri thức trống rỗng và sai trái mà trong thời đại chúng ta được gọi là khoa học, sẽ ở bên tôi. Tôi biết điều ấy bởi vì trong thời đại chúng ta cả đối với những người suy nghĩ độc lập, cũng như đối với tuyệt đại đa số người lao động, ngày càng trở nên hiển nhiên hơn cả tính dại dột lẫn tính vô luân của những đau khổ không cần thiết mà chính họ gây ra cho họ. Thòi nay cả những người này lẫn những người kia rốt cuộc đã không thể không thừa nhận cái chân lý đơn giản bây giờ đã đập vào mắt mọi người, ấy là để cải thiện cuộc sống chỉ cần một điều: không làm nữa những gì gây ra khổ đau.

I

Con người có thể tránh khỏi những tai họa Trời giáng xuống, nhưng không thoát được những tai họa mà mình gây ra cho mình.

Ngạn ngữ phương Đông

Người đời kêu ca về những đau khổ mà không biết rằng họ tự gây nên cho mình những đau khổ ấy.

Khi con người không nhìn thấy mối liên quan giữa những đau khố phải chịu đựng và cuộc sống của mình thì nó có thể làm một trong hai điều: hoặc tiếp tục chịu đựng những đau khổ ấy như là một sự hành hạ không có ý nghĩa nào cả, hoặc thừa nhận rằng những đau khố của ta là những chi dẫn về tội lỗi của ta.

Với cách nhìn thứ nhất những khổ đau không có được một giải thích nào và không khơi gợi một hoạt động gì ngoài sự tuyệt vọng và uất hận thường xuyên gia tăng và không phương sách giải quyết. Với cách nhìn thứ hai những khổ đau khơi gợi cái hoạt động tạo nên sự vận động của cuộc sống chân chính – sự nhận thức tội lỗi, sự giải phóng khỏi những lầm lạc và sự tuân thủ quy luật của tình yêu.

Có biết bao phương tiện để trở nên hạnh phúc, biết bao tiện nghi mà tổ tiên của chúng không có. Thế nhưng chúng ta có hạnh phúc không? Nếu một số ít hạnh phúc hơn, thì đa số càng bất hạnh hơn. Tăng phương tiện sống cho một số ít người giàu có, người ta bắt đa số phải bất hạnh và xem mình là bất hạnh. Làm sao có thể có cái hạnh phúc mà lại đạt được bằng phương hại hạnh phúc của những người khác?

Rousseau

Tưởng chừng những điều kiện ngoại tại, mà nhân loại thời nay đang ở trong đó, lẽ ra đã phải đưa lợi ích của nó lên đến bậc cao nhất. Đất đai canh tác được có nhiều và dễ canh tác đến mức lẽ ra tất cả mọi người trên đất ấy có thể hưởng mọi hạnh phúc của cuộc sống. Những phương tiện truyền thông và giao thông (ấn loát, bưu chính, điện tín, đường sắt, những động cơ hơi nước và điện, máy bay, v.v…) tức là những phương tiện trợ giúp nhiều hơn cả cho hạnh phúc của loài người, những phương tiện hợp quần con ngươi, được phát triển đến độ hoàn hảo cao.

Những phương tiện đấu tranh với thiên nhiên, làm lễ lao động đã được nghĩ ra nhiều đến nỗi tưởng chừng tất cả mọi người có thể sử dụng chúng để thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu của mình mà không phải làm việc với cường độ và số giờ cướp đi của họ thời gian rảnh rỗi và tàn phá sức khỏe của họ. Có tất cả mọi thứ để cho hạnh phúc của loài người gia tăng, thế mà thay vì cái đó những con người thời đại ngày nay đang đau khổ, đang bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần như chưa bao giờ trong những thời đại trước đây họ phải đau khổ và bị hành hạ như thế và những đau khổ và hành hạ ấy mỗi năm một gia tăng.

Người ta sẽ nói: khổ đau là thuộc tính của đời sống con người nói chung. Đúng, khổ đau là thuộc tính đấy, nhưng không phải những khổ đau đang làm khổ loài người của thế giới chúng ta. Là thuộc tính của đời sống con người những khổ đau ngoại tại, mọi thứ bệnh tật, lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, hạn hán, cũng là thuộc tính những khổ đau ngẫu nhiên, nhất thời, do chiến tranh hay do sự tàn ác của một số người cầm quyền, nhưng không phải những khổ đau mà hiện nay không ngừng làm khổ tất cả mọi người.

Hiện giờ hết thảy mọi người đều đau khổ: cả những người thống trị bằng sức mạnh trực tiếp hay bằng sự giàu có, cả những người với niềm căm thù không ngớt chịu đựng sự lệ thuộc của mình vào những người thống trị và những người giàu có; và hết thảy đều đau khổ đã không do những nguyên nhân bên ngoài, không do những cuộc động đất và lù lụt, không do những Nero, Ivan IV, Thành Cát Tư Hãn, v.v… mà đau khổ do nhau, đau khổ vì tất cả bị chia rẽ thành hai phe đối địch căm thù lẫn nhau: những người này đau khổ bởi sự ghen ghét và căm thù những kẻ thống trị họ, những người khác thì bởi sợ hãi và cũng khinh thị và ác cảm đối với những ai mà họ thống trị, cả những người này lẫn những người kia đều đau khổ vì vị trí không bền vững của mình, vì cuộc đấu tranh ngấm ngầm không ngừng một phút giây, thỉnh thoảng bùng nổ và thành những hành động tàn ác khủng khiếp giữa hai phe căm thù lẫn nhau.

Người đời đau khổ dữ dội đặc biệt chủ yếu bởi cả những người này lẫn những người kia trong thâm tâm đều biết rằng nguyên nhân của những khổ đau ở bên trong họ, rằng lẽ ra họ có thể tự giải thoát mình khỏi những đau khổ tự mình gây ra cho mình, nhưng cả bên này lẫn bên kia đều cho rằng họ không thể làm điều đó, rằng không phải họ, mà những kẻ thù của họ có tội và lại càng hung hãn hơn tấn công nhau và càng làm xấu đi hơn tình cảnh của nhau.

Thành thử cái nguyên nhân của tình cảnh tai ương, mà nhân loại đang ở trong đó, là hoàn toàn đặc biệt, là ngoại biệt, chỉ có trong thời đại ngày nay.

II

Người đời đã quen duy trì trật tự bên ngoài của cuộc sống bằng bạo lực đến nỗi một cuộc sống không có bạo lực bị họ coi là bất khả thể. Nhưng trong khi ấy thì nếu con người có thể bằng bạo lực thiết lập một cuộc sống công chính, thì chính những ai bằng vũ lực thiết lập một cuộc sống như thể phải biết sự công chính là ở đâu và chính họ phải là những người công chính. Nếu một số người có thể biết sự công chính là ở đâu và chính họ có thể là những người công chính thì tại sao tất cả mọi người lại không thể biết và không thể trở thành công chính?

Trong số các hiền triết Trung Hoa có một người tên là Mặc Tử, ông ấy đã khuyến nghị những người cai trị giáo dục cho dân lòng kính trọng không đối với sức mạnh, sự dũng cảm, sự giàu có, quyền lực, mà đối với lòng nhân ái. Ông từng nói: “Người ta giáo dục người đời trọng vọng sức mạnh, giàu sang, vinh quang, và người đời trọng vọng những thứ ấy. Vậy hãy giáo dục họ yêu quý tình yêu và họ sẽ yêu quý tình yêu.” Mạnh Tử, môn đệ của Khổng Tử đã không tán thành và bác bỏ ông, và học thuyết của Mặc Tử đã không ưu thắng. Cũng học thuyết ấy đã được Kitô rao giảng 1.900 năm trước đây và học thuyết ấy mặc dù tưởng chừng được tôn giáo của giáo hội tiếp nhận, nhưng đã bị chính tôn giáo của giáo hội ấy che giấu khỏi nhân quần.

Từ khi chúng ta biết có đời sống hợp quần của những con người, chúng ta biết rằng những con người luôn luôn liên kết với nhau, ngoài những quan hệ gia đình, gia tộc, trao đổi, thương mại, còn bằng việc nhiều người phục tùng một hay một vài người cầm quyền. Sự phục tùng như thế của những người này đối với những người khác, của đa số đối với thiểu số, là phổ biến giữa tât cả mọi dân tộc và tôn tại đã lâu đời đến nỗi tất cả mọi người, cả những người cầm quyền lẫn những người dưới quyền, đều cho cách tổ chức đời sống như thế là tất yếu, tự nhiên và duy nhất hữu khả cho đời sống chung của giống người. Những người cầm quyền cho rằng họ được Thượng Đế chọn trước để cai trị các dân tộc cho nên phải sử dụng tốt nhất quyền lực của mình để cho những người bị cai trị được sống yên ổn, trong hòa bình và hạnh phúc.

Tư tưởng nay được thể hiện nhiều lần trong tất cả các học thuyết minh triết, cũng như trong các giáo thuyết của bộ phận cổ nhất và đông đúc nhất của nhân loại: trong các sách thánh của Trung Hoa va Ấn Độ: Kinh Thư và các luật của Manu. Còn những người bị cai trị thì xem tổ chức đời sống như thế là đã được tiền định từ Thượng Đế, là tất yếu và vì thế ngoan ngoãn phục tùng chính quyền và ủng hộ nó vì khả năng được tự do trong giao thiệp với những thần dân cũng dưới quyền như họ. Là như thế cái kiểu tổ chức đời sống dựa trên cơ sở bạo lực, mà với nó loài người đã sống nhiều thế kỷ. Tình hình từng là như thế ở Ân Độ và Trung Quốc; và cũng từng là như thế cả ở Hy Lạp và La Mã và châu Âu trung cổ; và vẫn tiếp tục là như thế cả hiện nay, dù cái này có trái ngược đến đâu với ý thức của nhân loại trong thời đại chúng ta, đối với đa số loài người.

Cả ở châu Âu lẫn phương Đông, cả những người bị thống trị lẫn những người thống trị đã sống nhiều thế kỷ và giờ đây vẫn tiếp tục sống mà đa số không cho là có thể có một phương cách nào khác để hợp quần loài người, ngoài bạo lực. Nhưng trong khi ấy thì ở tất cả các học thuyết tôn giáo của thế giới cổ đại: cả đạo Bàlamôn, cả đạo Phật, cả Đạo giáo và Khổng giáo, và cả trong các học thuyết của các nhà hiền triết Hy Lạp và La Mã, bên cạnh sự chuẩn y quyền lực dựa trên bạo lực của những người thống trị, luôn luôn được diễn đạt trên nhiều bình diện một học thuyết khác, nó nói rằng tình thương yêu nhau giữa các con người mới là phương tiện tốt nhất để hợp quần loài người bởi vì nó mang đến cho mọi người hạnh phúc lớn nhất.

Tư tưởng này được thể hiện một cách khác nhau và với độ sáng rõ khác nhau: trong nhiều học thuyết của phương Đông, nhưng 1.900 năm trước đây nó đã được diễn đạt với một sự sáng rõ và xác định đáng kinh ngạc trong đạo Kitô. Đạo Kitô đã chỉ ra cho loài người rằng tình yêu thương không chỉ là phương tiện hợp quần tốt nhất mang lại hạnh phúc cho những con người mà tình yêu còn là một quy luật tối cao của đời sống con người, và vì thế quy luật tình yêu không thể tương dung với kiểu tổ chức đời sống dựa trên cơ sở bạo lực trước đây.

Ý nghĩa chính của đạo Kitô và điểm khu biệt nó với tất cả các học thuyết đi trước nó, cũng truyền giảng tình yêu, là ở chỗ, tôn giáo ấy, tuyên cáo quy luật tình yêu là quy luật cao nhất của đời sống, tức là một luật không cho phép ngoại lệ và phải được luôn luôn thực hiện, đồng thời chi ra những sự đi lệch quy luật ấy mà, cùng với sự thừa nhận tính ân phúc của tình yêu, từng xảy ra trong thể chế đời sống cũ dựa trên quyền lực được duy trì bằng bạo lực của những người thống trị.

Trong thể chế đời sống cũ bạo lực, bao hàm cà việc giết người, trong khi bảo vệ mình và những người thân hoặc tổ quốc của mình, trong khi áp đặt hình phạt cho các tội nhân, là một đỉều kiện thiết yếu của đời sống xã hội. Nhưng đạo Kitô, coi tình yêu là luật tối cao của đời sống, thừa nhận tất cả mọi người đều bình đẳng, dạy tha thứ mọi sự xúc phạm, bạc đãi, bạo hành và lấy thiện trả ác, không trong trường hợp nào có thể cho phép, sự bạo lực của người này đối với người kia – cái bạo lực mà trong biểu hiện cuối cùng của nó thậm chí đòi hỏi sự giết người. Cho nên đạo Kitô trong ý nghĩa chân chính của nó, coi tình yêu là luật cơ bản của đời sống (con người), phủ định một cách trực tiếp và xác định chính cái nguyên tắc bạo lực làm cơ sở cho thể chế đời sống trước đây.

Ý nghĩa chính của đạo Kitô đã và vẫn là như thế. Nhưng những người đã tiếp nhận đạo Kitô, do đã sống nhiều thế kỷ trong thể chế nhà nước phức tạp dựa trên bạo lực, cho nên khi tiếp nhận tôn giáo này thì một phần vì không hiểu tất cả ý nghĩa của nó, một phần hiểu đấy, nhưng lại cố gắng che giấu đi khỏi chính mình và mọi người, thành thử đã chỉ tiếp thu từ đạo Kitô những gì không mâu thuẫn với nếp sống đã định hình của họ. Còn học thuyết của giáo hội, xuất hiện trên cơ sở đạo Kitô nguyên thủy, thì lại kết hợp học thuyết của Kitô với học thuyết Do Thái cổ và bằng nhiều giáo điều và quyết nghị hoàn toàn xa lạ với đạo Kitô đã che giấu đi bản chất của tôn giáo này một cách khéo léo đến nỗi sự bạo lực, rõ ràng không thể tương dung với đạo Kitô trong ý nghĩa chân chính của nó, dần dần được cả những kẻ bạo hành lẫn những người bị bạo hành coi là không những không đối nghịch với học thuyết Kitô về tình yêu, mà còn hoàn toàn chính đáng và phù hợp với học thuyết ấy.

Mọi người sống, phục tùng bạo lực và thực hiện bạo lực, nhưng đồng thời lại tuyên tín học thuyết về tình yêu rõ ràng mâu thuẫn với bạo lực. Mâu thuẫn nội tại này luôn luôn sống trong thế giới Kitô giáo và, ứng với sự phát triển trí tuệ của con người, càng ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Ở nửa khác, lớn hơn của nhân loại phi Kitô giáo – Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc (tôi không nói đến thế giới Hồi giáo sống theo giáo thuyết phát sinh từ đạo Kitô), nơi mà cũng y như thế – cả trong Bàlamôn giáo, cả trong Phật giáo, cả trong Khổng giáo và Đạo giáo – học thuyết về tình yêu được tuyên cáo giữa những con người sống theo luật bạo lực, mâu thuẫn giữa hai nguyên lý không thể dung hòa ấy bộc lộ không gay gắt và mạnh mẽ như trong đạo. Song mặc dù trong các giáo thuyết của phương Đông, của Ấn Độ, Trung Quốc, không được chỉ ra rõ như trong đạo Kito, về tính không thể dung hòa giữa quy luật bạo lực và quy luật tình yêu, nhưng mâu thuẫn nội tại ấy cả ở trong thế giới phi Kitô giáo cũng đã và đang phát huy tác dụng của mình, càng ngày càng làm sáng rõ hơn cho mọi người sự thiết yếu phải thay thế cái nguyên lý bạo lực cũ, lỗi thời bằng quy luật mới của tình yêu, từ nhiều phía khác nhau đang đi vào tâm thức con người.

III

Từ cái việc là có thể bằng bạo lực bắt con người tuân thủ lẽ công bằng tuyệt không có nghĩa là dùng bạo lực để bắt con người tuân phục lại là việc công bằng.

Pascal

Bạo lực, chỉ tạo ra cái giông giống công lý, đẩy con người ra xa hơn cả khỏi khả năng sống trong công lý mà không có bạo lực.

Sự thừa nhận quy luật của tình yêu phải thay thế bạo lực càng ngày càng đi sâu vào tâm thức con người, trong khi ấy thì cuộc sống vẫn tiếp diễn trên những cơ sở cũ.

Tình trạng ấy kéo dài nhiều thế kỷ. Nhưng đã đến lúc khi mà cái chân lý nói rằng tình yêu là luật tối cao của đời sống con người và vì vậy bạo lực, không tương dung được với tình yêu, không thể là luật cao nhất của đời sống, cái chân lý phù hợp đến thế với bản chất tinh thần của con người và được diễn đạt với độ sáng rõ khác nhau trong tất cà các học thuyết tôn giáo và đặc biệt rõ ràng trong đạo Kitô, bất chấp mọi nỗ lực của những người cầm quyền cùng các trợ thủ của họ, ngày một ăn sâu vào tâm thức con người và trong thời đại ngày nay một cách ít nhiều hữu thức đã trở thành tài sản của đa số loài người.

Tựa như không thể dập tắt lửa bằng vỏ bào, cũng như thế, đã không thể đánh át đi cái chân lý một lần đã hiện ra trong ý thức con người và gần gũi đến thế với trái tim của nó và lại được diễn đạt rõ ràng đến thế trong tất cả các học thuyết tôn giáo – cái chân lý nói rằng sự hợp quần phù hợp với bản tính con người là sự hợp quần trên cơ sở tình yêu, chứ không phải bạo lực hay sợ hãi. Và chân lý ấy, mặc dù chưa được diễn đạt trực tiếp, nhưng dưới hình thức những luận điểm và yêu sách xuất phát từ nó, ngày một biểu lộ nhiều hơn trên toàn thế gian, tìm kiếm sự áp dụng vào đời sống.

Chẳng hạn, trong thế giới Kitô giáo, sớm hơn ở các nước khác, nó được thể hiện trong những đòi hỏi về quyền bình đẳng giữa mọi công dân (mặc dù chi trong một quốc gia), trong sự xóa bỏ chế độ nô lệ, trong sự thừa nhận các quyền của phụ nữ, trong các học thuyết xã hội chủ  nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa; chân lý ấy cũng đã và đang được thể hiện trong các hiệp đoàn đa dạng nhất, các đại hội hòa bình, và cả trong nhiều giáo phái (ly khai), cà Kitô giáo lẫn Hôi giáo, trực tiếp phủ nhận quy luật bạo lực và tự giải phóng mình khỏi sự phục tùng nó.

Trong thế giới Kitô giáo và Hồi giáo gần gũi với nó chân lý ấy đã đi vào ý thức con người một cách rõ ràng hơn, nhưng cả ở Viễn Đông; nó cũng không ngừng phát huy tác dụng của mình. Cho nên ngay cả ở Ấn Độ và Trung Quốc, nơi mà bạo lực được chuẩn y bằng luật tôn giáo, sự bạo lực và sự tồn tại các đẳng cấp (ở Ấn Độ) trong thời đại ngày nay đã bị nhiều người xem là không phù hợp với bản chất con người.

Tất cả mọi người trên thế giới, mặc dù còn chưa công nhận quy luật tình yêu trong đầy đủ ý nghĩa của nó, nhưng đã cảm thấy tất cả sự không thể tiếp tục cuộc sống theo luật bạo lực cũ và tìm kiếm một cơ sở mới của sự hợp quần, ứng hợp với sự trưởng thành tinh thần của nhân loại.

Cơ sở ấy chỉ có một và mấy nghìn năm trước đây đã được những con người ưu tú nhất của thế giới nói ra.

IV

Chúng ta đang sống trong thời đại của kỷ luật, của văn hóa và văn minh, nhưng còn xa mới trong thời đại của đạo lý. Trong tình trạng hiện nay của nhân quần có thể nói rằng hạnh phúc của các quốc gia tăng trưởng cùng với sự bất hạnh của con người. Và còn là một câu hỏi, liệu chúng ta có được hạnh phúc hơn so với hôm nay giả sử chúng ta vẫn ở trong trạng thái nguyên thủy, giả sử chúng ta không có nền văn hóa này?

Bởi lẽ bằng cách nào có thể làm cho những con người trở nên hạnh phúc, khi mà người ta không làm cho họ trở nên hữu luân và anh minh!

Kant

Tất cả những thiết chế từ thiện của chúng ta, tất cả các đạo luật trừng trị của chúng ta, tất cả những hạn chế và cấm đoán mà bằng chúng chúng ta cố gắng phòng chống và ngăn chặn tội phạm – chúng là cái gì trong trường hợp tốt nhất, nếu không phải là trò vắt óc của một tên ngốc mà sau khi đã nhét hết hàng chở vào một sọt bên hông của con lừa, quyết định giúp đỡ con vật tội nghiệp bằng cách bỏ cũng bằng ấy đá vào sọt bên hông kia của nó?

Henry George

Bạo lực, cái cơ sở trước đây của sự hợp quần loài người, thời nay đã không còn được người đời tín nhiệm một cách mù quáng như xưa mà ngược lại, được xem là một cái gì đó mâu thuẫn với ý thức của họ.

Thiên hạ giờ đây đa phần đã ít nhiều sống động cảm thấy sự cần thiết tổ chức đời sống trên những cơ sở khác bạo lực. Nhưng những tập quán, truyền thống, nền giáo dục, thói quen cũ và, cái chính, bản thân thể chế đời sống vẫn là thế, khiến cho những con người mong muốn làm những việc xuất phát từ quy luật tình yêu, lại thực hiện chúng bằng bạo lực, tức là bằng cái đối lập trực diện với quy luật tình yêu, mà vì nó mà họ hành động, vì nó mà họ làm những gì đang làm.

Chẳng hạn trong thời đại ngày nay các nhà cách mạng, những người cộng sản, những người vô chính phủ vì tình yêu, vì hạnh phúc của nhân dân thực hiện những cuộc phá hoại, giết người. Cũng lại vì tình yêu, vì hạnh phúc của dân các chính phủ tổ chức các nhà giam, thành trì, những nơi giam giữ tù khổ sai, các cuộc xử án tử hình. Vì tình yêu, vì hạnh phúc đã không của một mà của tất cả các dân tộc các nhà ngoại giao tổ chức những liên minh, những hội nghị hòa bình dựa vào các quân đội ngày một tăng cường và ngày một được vũ trang mạnh hơn. Cũng vì tình yêu các phú gia, gom góp và giữ được những của cải khổng lồ của mình chỉ nhờ có luật pháp được thiết định bằng bạo lực, tổ chức đủ mọi hình thức từ thiện được duy trì lại cũng bằng bạo lực.

Và người ta làm như thế ở khắp nơi. Một cái ác lớn không được người đời nhận ra – cái ác của bạo lực – được thực hiện vì một cái có vẻ như là điều thiện được cố ý phô trương. Và vì thế, mà cũng không thể khác được, tình hình không tốt lên, mà chi xấu đi. Và càng ngày càng xấu đi, tình cảnh của loài người trong thời đại ngày nay đã trở nên xấu đến mức không thể so sánh với thời cổ đại. Nó đã trở nên xấu hơn vì thời nay những phương tiện bạo lực đã gia tăng gấp hàng trăm lần, mà sự gia tăng các phương tiện bạo lực làm gia tăng cả cái ác phát xuất từ bạo lực.

Cho dù xưa kia những Nero và Ivan IV có tàn nhẫn và bất nhân đến đâu, chúng không có những phương tiện tác động đến con người như hiện nay có trong tay những Napoléon và Bismarck với các cuộc chiến tranh của họ, những nghị viện Anh quốc với những cuộc bình định người Ấn của họ, hoặc ở người Nga chúng ta với những Schlisselburg, những nhà tù khổ sai và những vùng đày ải người của chúng ta. Xưa kia có những Họa-Mi-tướng-cướp và những Pugachev, nhưng không có những vũ khí giết người hàng loạt, những bom mìn, bộc phá cho phép một người yếu ớt giết chết hàng trăm người. Xưa kia có chuyện người này làm nô lệ cho người kia, nhưng không có chuyện đất đai bị chiếm hết như ngày nay, không có sự khó khăn kiếm được những nhu yếu phẩm như hiện nay, không có cái tình cảnh tuyệt vọng của hàng triệu người thất nghiệp như hiện giờ – tồi tệ đến mức tình cảnh xấu hơn không so sánh được với tình cảnh những người nô lệ ngày xưa: hiện nay biết bao người lao động đang tìm kiếm ách nô lệ và đau khổ vì không tìm ra được cho mình một chủ nô.

Trong thời đại ngày nay, chính do sự không thừa nhận nguyên nhân của cái ác là ở bạo lực và do sự che đậy cái nguyên nhân ấy bằng những ý đồ tốt lành, đặc biệt với những phương tiện giao thông, vũ trang và làm hư dân chúng mới nhất, tình cảnh của quần chúng lao động đã lên tới mức tai ương cao nhất, cả sự căm phẫn của họ đối với những kẻ cầm quyền và giàu có cũng đã lên đến mức cao nhất, và cũng hệt như thế, đã lên đến mức cao nhất cả ý thức của những người cầm quyền và hữu sản về vị trí bấp bênh của mình và nỗi sợ của họ trước nhân dân lao động cùng với lòng căm ghét.

V

Các dân tộc trên trái đất run rẩy và sợ hãi. Đâu đâu cũng cảm thấy được hoạt động của những lực nào đó hình như đang chuẩn bị cho một cuộc động đất. Chưa bao giờ con người lại phải chịu một trách nhiệm lớn như hiện giờ. Từng thời khắc mang đến những mối lo mới càng ngày càng trọng yếu hơn. Hình như một cái gì đó vĩ đại sẽ phải xảy ra.

Lucie Malori

Thể chế đời sống hiện hữu không ứng hợp cả với những đòi hỏi của lương tâm xã hội lẫn thậm chí với những đòi hỏi của lý trí.

Loai người là những sinh linh có trí tuệ. Thế thì vì sao trong đời sống xã hội họ không tuân theo trí tuệ mà tuân theo bạo lực?

Thời nay sự tiếp tục cuộc sống của mọi người, cả những người thống trị lan những người bị trị, trong vị trí hiện giờ của họ càng ngày càng trở nên bất khả thể. Và cả những người này lẫn những người kia đều cảm thấy rất sinh động điều đó. Từng có thể có đời sống của loài người với sự phân chia thành hàng chục quốc gia thù địch lẫn nhau, với những hoàng đế, quân vương, quân đội, nhà ngoại giao, với sự cướp đi của dân sản phẩm lao động của họ để vũ trang và nuôi quân, khi mà mỗi dân tộc còn ngây thơ tưởng rằng chỉ một mình nó là dân tộc chính thực, còn các dân tộc khác đều là những kẻ thù man rợ, và vì thế không chỉ là điều đáng khen cống hiến sức lực và cuộc đời của mình đế bảo vệ dân tộc mình cùng với những người cai trị nó, mà còn không thể hành xử một cách khác, và cái đó cũng tự nhiên như kiếm sống, lấy vợ lấy chồng, hít thở.

Từng có thể có một đời sống như thế của loài ngườỉ, khi mà người đời còn tin rằng nghèo khó và giàu sang là những điều kiện được Thượng Đế tiền định, khi mà những người cầm quyền và những người giàu có không những không hoài nghi về tính chính đáng của vị trí của mình, mà trong lòng còn tự hào trước Thượng Đế về nó, coi mình là giống người đặc biệt, đặc tuyển còn dân chúng lao động chân tay hoặc thậm chí buôn bán thì là loại người hạ đẳng, “đê tiện”, và cả những người nghèo và bị thống trị cũng tin rằng những người thống trị và giàu có là dòng giống riêng, được Thượng Đế chọn trước để cầm quyền, cũng như Thượng Đế đã định trước cho họ thân phận nghèo khổ và bị cai trị của họ.

Từng có thể có một đời sống như thế cả trong thế giới Kitô giáo, khi mà chẳng ai, chẳng những người thống trị, chẳng những ngườỉ bị trị, nghĩ đến chuyện nghi ngờ cái đạo Công giáo, Chính thống hay Tin Lành, cả ba đều gọi mình là Kitô giáo, mặc dù cả ba đều cho phép không chỉ sự bất bình đẳng hoàn toàn giữa người với người mà còn cả cảnh nô lệ trực tiếp của con người, cho là có thể giết người và nhiều khi khen ngợi sự giết người, khi mà mọi người tin tưởng vào cái tôn giáo giả tạo ấy đến mức không cần thiết phải bảo vệ nó cả bằng sự lừa bịp hữu thức lẫn bằng bạo lực.

Tình hình như thế kéo dài nhiều thế kỷ, nhưng đã đến lúc, khi mà tất cả những gì đã làm cho một đời sống như thế có thể tồn tại, bắt đầu từ hư hại, và cuối cùng người đời trên toàn thế gian, đặc biệt trong thế giới Kitô giáo, đi đến một nhận thức ít nhiều minh bạch rằng không phải một mình họ, những người Đức, người Pháp, người Nhật, người Nga, sống trên đời này và không phải chỉ mình họ muốn bênh vực lợi ích của dân tộc mình, mà tất cả các dân tộc đều ở trong vị trí như thế, và vì vậy mọi cuộc chiến tranh không chỉ nguy hại cho quần chúng nhân dân không thu nhận được từ chúng môt lợi ích gì, mà còn hoàn toàn vô nghĩa; ngoài ra những con người thời nay còn đi đến nhận thức ít nhiều sáng tỏ rằng mọi thuế má cống nạp mà ho phải nộp được dùng không cho phúc lợi của họ, mà đa phần bị chi tiêu một cách có hại cho họ cho các cuộc chiến tranh và cho đời sống xa hoa của giới cầm quyền, rằng sự giàu có không phải là một cái gì đó được tiên định từ bên trên, như trước kia họ nghĩ, mà là kết quả của một trò lừa đào, móc tiền, cưỡng bức dân lao động.

Thời nay cả những người cầm quyền và giàu có trong thâm tâm cũng biết điều đó nhưng không có nghị lực từ bỏ địa vị của mình và hoặc bằng bạo lực trực tiếp, hoặc bằng những trò lừa và những nhượng bộ gắng sức giữ lấy địa vị ấy. Vì vậy hiện giờ, khi mà tất cả mọi người, ngoài cái việc là họ bị chia rẽ thành những dân tộc khác nhau, hoặc bị áp bức và muốn giải phóng, hoặc gắng sức giữ yên các tộc người bị áp bức ấy, đâu đâu cũng còn bị chia rẽ thành hai phe thù địch và căm ghét nhau: một phe là những người lao động bị bạc đãi, bị hạ nhục và ý thức được tình cảnh bất công của mình, và phe kia là những người cầm quyền và giàu có cũng ý thức được vị trí bất công của mình nhưng bằng mọi cách vẫn bảo vệ nó cho bằng được, cả phe này lẫn phe kia để đạt những mục đích của mình đều sẵn sàng thực hiện những tội ác lớn nhất chống lại nhau: lừa đảo, cướp giật, thám báo, giết người, đánh bom, hành quyết – tình cảnh của mọi người hiện giờ đã xấu đến mức rõ ràng nó không thể tiếp tục được nữa.

Thực tình mà nói, vẫn còn có những người muốn khiến mình và những người lao động tin rằng chỉ cần thêm một cuộc giải thích thuyết phục nữa về sự bật công hiện tồn, chỉ cần thêm một lý thuyết nữa, đẹp nhất về thể chế đời sống tương lai, một nỗ lực nữa, nhỏ thôi, trong cuộc đấu tranh với quân thù – là cuối cùng sẽ hiện ra một trật tự mới mà với nó sẽ không còn cái ác nữa và mọi người sẽ sống hạnh phúc. Những người như thế có cả ở trong giới cầm quyền. Những người ấy cố thuyết phục mình và những người khác rằng loài người không thể sống một cách nào khác mà chỉ như nó đã sống nhiều thế kỷ và thiên niên kỷ, rằng không cần phải thay đổi điều gì mà chỉ cần, dù việc này có không thích thú đến đâu, đàn áp triệt để bằng vũ lực mọi mưu toan thay đổi chế độ hiện hữu và, không cự tuyệt những yêu sách hợp lý của dân chúng, kiên định dẫn dắt họ theo con đường tiến bộ ôn hòa, thế thì tất cả mọi người sẽ được lợi.

Có những người như thế cả ở phe này lẫn phe kia, nhưng nhân tâm đã không còn tín nhiệm họ, và hai phe thù địch càng ngày càng chia rẽ gay gắt hơn: những người lao động ngày một đố kị, căm ghét, hận thù những kẻ cầm quyền và giàu có, còn những kẻ ấy thì ngày càng sợ hãi và căm thù những người lao động bị bạc đãi và hai bên càng ngày càng lây nhiễm mối căm thù.

VI

Đã đến lúc ngừng tin vào quan niệm sai lầm rằng tôn giáo là cái bất di bất dịch. Tin vào sự bất di bất dịch của tôn giáo chẳng khác nào tin vào sự bất di bất dịch của con tàu mà ta đang đi trên đó. Chỉ cái giông giống tôn giáo – sự thờ bái – mới bất động; còn tôn giáo chân chính, nhận thức về ý nghĩa của cuộc sống và cái kim chỉ nam cho đời sống hình thành từ nhận thức ấy thì không thể là bất động, mà luôn luôn vận động và bằng vận động của mình mà làm đổi thay đời sống của nhân loại.

Tình cảnh của loài người hiện nay thật khủng khiếp. Nguyên nhân của tình cảnh khủng khiếp ấy là chúng ta, những con người thời đại ngày nay, đang sống không theo cái thế giới quan phù hợp với ý thức của chúng ta mà theo cái thế giới quan mà hàng ngàn năm trước kỷ nguyên của chúng ta từng phù hợp với tổ tiên của chúng ta, nhưng giờ đây đã không thể đáp ứng những đòi hỏi tinh thần của chúng ta. Nguyên nhân là ở chỗ chúng ta hiện giờ không nhiều thì ít đều đã nhận thức được cái nguyên lý tình yêu mà có thể và phải thay thế bạo lực và có thể và phải đoàn kết loài người, song lại vẫn tiếp tục sống bằng cái bạo lực mà trong những thời đại xa xưa đã hợp quần loài người, nhưng bây giờ đã không còn phù hợp với chúng ta, đã mâu thuẫn đối nghịch với tầm thức của chúng ta và vì thế không những không đoàn kết, mà chỉ chia rẽ loài người.

Có thể hạnh phúc hay không, hay nói đúng hơn, có thể không bất hạnh hay không một cụ già mà lại muốn sống một đời sống thanh niên hoặc một người lớn mà lại muốn sống một đời sống con trẻ? Và cho dù con người có cố gắng đến đâu tiếp tục sống một cuộc sống đã không thích hợp với anh ta của lứa tuổi đã qua, thì nếu không bằng lý trí thì cũng bằng những khổ đau, muốn hay không anh ta cuối cùng vẫn tất yếu sẽ phải sống cho hợp với lứa tuổi của mình.

Cũng như thế với những xã hội con người và với cả loài người, nếu trong đời sống của mình nó tuân theo không phải cái tâm thức phù hợp với độ tuổi của nó, mà cái tâm thức từ lâu đã kinh qua. Và chính điều này hiện đang diễn ra với nhân loại thời nay.

Chúng ta không biết và không thể biết những điều kiện của sự ra đời, sự phát sinh, sự tiêu vong của cả từng con người riêng lẻ lẫn toàn thể loài người, nhưng trong giới hạn thời gian khả thể đối với ta ta biết chắc chắn, rằng cuộc sống loài người cũng luôn luôn đã và đang tuân thủ vẫn một quy luật thống nhất của sự tăng trưởng và phát triển từng bước, giống như cuộc sống của từng người. Và tựa như trong đời sống của từng người chúng ta thấy con người trong phương hướng hoạt động chính của mình tuân theo nhận thức về ý nghĩa cuộc sống của mình, cũng cái đó chúng ta thấy trong đời sống của toàn nhân loại.

Và nếu cuộc sống của từng con người riêng lẻ không ngừng biến đổi ứng với sự trưởng thành của nó, tức là ứng với sự biến đổi của nhận thức chung về cuộc sống của mình, thì cũng hệt như thế, không ngừng biến đổi và không thể không biến đổi cả đời sống của toàn thể loài người, cái loài người cũng không ngừng trưởng thành và vận động hướng tới một cuộc sống ngày một hữu lý và hữu trí hơn. Và y như sự phát triển của từng người một cách tự nhiên, hầu như tất yếu bị trì hoãn bởi việc là, do đã hấp thụ sâu những thói quen của lứa tuổi trước, đã được sống qua, con người không hào hứng, không mau lẹ giã từ chúng và nhiều khi cố tình tiếp tục sống và hoạt động như trước và bằng đủ mọi lập luận vắt óc cố biện hộ cho sự tiếp tục một đời sống đã không còn phù hợp nữa ấy, hệt như thế, cả loài người cũng nhiều khi một cách tự nhiên theo quán tính dừng lại ở nếp sống đã quá vãng, đã vượt qua, song lại cố biện hộ cho những sự ngừng trệ ấy bằng những luận thuyết khiên cưỡng, trong nhân gian luôn luôn thâu thái hình thức của những tín ngưỡng tôn giáo lầm lạc hoặc những kết cấu khoa học cũng lầm lạc không kém.

Có nhiều mê tín dị đoan làm khổ con người, nhưng không có một dị đoan nào pho biên hơn và ác hại hơn, xét theo những hậu quả của nó, như là cái dị đoan khiến người đời ám thị cho mình rằng ý thức của nhân loại (cái ý thức được diễn đạt thành những học thuyết được gọi là tôn giáo về ý nghĩa cuộc sống và về kim chỉ nam cho đời sống xuất phát từ đấy) có thể dừng lại và có thể vẫn là một trong mọi thời đại của đời sống loài người.

Đấy, chính cái dị đoan ấy, từng khiến bảo các xã hội con người sống theo những học thuyết tôn giáo và khoa học luôn luôn lạc hậu so với ý thức thường hằng phát triển của loài người, luôn luôn từng là một trong những nguồn gốc chính của những tai họa đổ xuống các xã hội con người. Và những tai họa ấy càng lớn hơn nếu mà một phần càng đông đảo hơn của nhân loại bị vướng lại trong sự vận động của mình và những cuộc vướng mắc càng kéo dài hơn.

Có khi những cuộc vướng mắc ấy bộc lộ đặc biệt rõ ràng và được giải quyết trong một bộ phận nhỏ của loài người, nhưng cũng có khi chúng bao trùm đời sống của cả loài người, như đang xảy ra hiện nay.

Thí dụ, sự ngừng trệ trong vận động hướng tới một đời sống hữu lý hơn của một bộ phận loài người, bị gây ra bởi những hà lạm của giáo hội La Mã đã bóp méo nhiều khi đến cực độ bản chất học thuyết của Kitô, sự ngừng trệ ấy đã làm tê liệt chỉ một bộ phận nhỏ của nhân loại đã ngả theo sự mê tín vào thể chế giáo hoàng không ứng hợp với tâm thức của cả loài người, thành thử những tai họa do cuộc cải cách tôn giáo và các cuộc chiến tranh tiếp theo nó gây ra đã không kéo dài lâu lắm.

Nhưng cũng có những tình huống, khi mà đã không phải một số dân tộc nhất định và không phải trong một vấn đề nào đó cục bộ, tôn giáo hoặc xã hội, mà toàn thể loài người, và không phải trong những vấn đề cục bộ mà trong những vấn đề chung nhất, can hệ đến cơ sở của nhân sinh, hàng thế kỷ tiếp tục sống không tương thích với tâm thức của mình. Và khi ấy thì những tai họa, phát sinh từ những sự ngừng trệ của cuộc sống bị dẫn dắt theo những nguyên lý tôn giáo đã không phù hợp với tâm thức con người, thường có quy mô đặc biệt lớn và kéo dài đặc biệt lâu. Và chính là thế cái tình cảnh đã không phải của một bộ phận, mà của cả loài người hiện nay, nó là hệ quả của việc loài người, để hợp quần người với người, khắp nơi theo quán tính vẫn tiếp tục tuân thủ cái nguyên tắc bạo lực một thời là tất yếu và chung cho mọi dân tộc, nhưng trong khi ấy thì cũng chính những con người ấy càng ngày càng nhận thức rõ hơn một nguyên lý khác, cao hơn, phải thay thế thủ đoạn bạo lực cũ – nguyên lý của tình yêu.

VII

Sự không thể tiếp tục cuộc sống mà chúng ta đang sống giờ đây đã được tất cả những con người biết suy nghĩ trong thời đại chúng ta cảm thấy. Tất cả những gì mà chúng ta gọi là văn hóa: những khoa học, nghệ thuật của chúng ta, sự cải tiến những tiện nghi và thú vui cúa đời sống, tất cả chl là những nỗ lực đánh át đi trong con người ý thức về sự bất khả thể ấy. Nhưng tất cả những nỗ lực ấy thời nay đều hóa ra phí uổng: sự bất khả thể ấy được cảm thấy và được ý thức đã không như một tương lai xa xôi, mà như là cái hiện tại đã đến, mà không thể bỏ qua và dù muốn hay không muốn vẫn phải có một thái độ thế này hay thế khác đối với nó.

Chừng nào một thiểu số phát triển còn hút máu mủ của các thế hế song lại vị tất đoán biết được vì sao họ lại sống ung dung đến thế, chừng nào một đa số vẫn phải làm việc ngày đêm mà không đoán ra được hoàn toàn rằng mọi ích lợi của lao động đều được dành cho những người khác, thì cả những người này lẫn những người kia còn đều cho đó là trật tự tự nhiên, và thế giới người ăn thịt người có thể được duy trì. Người đời hay coi định kiến, thói quen là chân lý – và khi ấy chân lý không dồn ép họ. Nhưng một khi họ đã ngộ ra rằng chân lý của họ là điều nhảm nhí, thì mọi sự kết thúc. Khi ấy thì chỉ bằng vũ lực mới có thể bắt con người làm điều mà nó cho là vô nghĩa (và cũng chí trong một thời gian ngắn nhất – L.T.). Herzen

Ba, hai thế kỷ trước đây, những người bị gọi nhập ngũ theo lệnh của nguyên thủ quốc gia không một phút nào nghi ngờ rằng, dù có khó khăn đến đâu cái điều mà người ta đòi hỏi ở họ, nhưng đi tham chiến, họ làm một việc không chỉ tốt đẹp, mà còn thiết yếu và tất yếu, hy sinh tự do, lao động và cả mạng sống của mình vì một sự nghiệp thiêng liêng: bảo vệ tổ quốc chống lại những kẻ thù của nó và cái chính là thực hiện ý chí của một quân chủ được Thượng Đế xếp đặt. Bây giờ thì bất kỳ ai bị xua ra chiến trường (mà đặc biệt đã trợ giúp cho sự tiêu biến cái trò bịp ái quốc chủ nghĩa ấy là chê độ quân dịch phổ thông mới được ban hành), ai ai cũng biết rằng những người mà họ phải đánh, cũng là những con người như họ và cũng như họ bị các chính phủ của mình đánh lừa, và do biết điều đó, họ đã không thể không nhìn thấy, đặc biệt trong thế giới Kitô giáo, tất cả tính điên rồ và tính bất lương của cái việc mà người ta bắt họ làm. Và khi đã hiểu được tính điên rồ và bất lương mà họ được kêu gọi làm thì họ không thể không khinh bỉ và căm thù những kẻ cưỡng bức họ.

Cũng hệt như thế, ngày xưa mỗi khi nộp thuế, tức là cống lao động của mình, cho chính phủ, người ta tin chắc rằng cái được cống nạp là cần thiết cho những công việc quan trọng và hữu ích; ngoài ra họ còn coi những người sử dụng những thành quả lao động của họ hầu như là những thánh nhân không biet tội lỗi là gì. Bây giờ thì hầu như người lao động nào cũng coi chính phủ nếu không phải là một băng cướp thì trong mọi trường hợp là những kẻ chăm lo chỉ cho những lợi ích của mình chứ tuyệt không phải lợi ích của dân, và xem sự tất yếu phải cống lao động của mình cho những kẻ như thế chỉ là một tai họa nhất thời, mà bằng mọi tâm lực họ mong muốn và hy vọng với cách này hay cách khác không lâu nữa sẽ thoát khỏi.

200, thậm chí 100 năm trước người đời coi sự giàu có là phẩm giá và coi sự tích lũy của cải là một đức hạnh và kính trọng những người giàu và cố gắng noi gương họ, bây giờ thì nhân quần, đặc biệt những người nghèo, khinh bỉ và căm thù những kẻ giàu có chỉ vì họ giàu, và mọi cố gắng của những người giàu chia sẻ với những người nghèo chỉ làm tăng ở họ lòng căm thù.

Thời xưa những người cai trị và giàu có tin vào vị trí của mình và biết rằng nhân dân lao động cũng tin vào tính hợp pháp của vị trí ấy, và dân chúng quả thật tin vào tính tiên định của vị trí của họ và của những người cai trị họ. Bây giờ thì cả những người này lẫn những người kia đều biết rằng không gì có thể biện minh cho cả quyền lực của những kẻ cai trị, cả sự giàu sang của những kẻ giàu có, cả sự lép vế của những người cần lao, và để cho những người cai trị và giàu có giữ được vị trí của mình, còn những người cần lao thì thoát khỏi thế lép vế của mình, cả những người này lẫn những người kia đều không được chối từ bất kỳ một phương tiện nào, kể cả lừa đảo, mua chuộc, giết chóc.

Và cả những người này lẫn những người kia đều làm như thế và cái tồi tệ nhất là khi hành động như thế, họ đa phần biết trong thâm tâm rằng bằng cách ấy họ sẽ chẳng đạt tới được cái gì hết, và họ tìm mà không tìm ra lối thoát từ tình cảnh ấy. Mà lối thoát tất yếu và thống nhất thì lại ngày một hiện ra rõ hơn trước loài người. Lối thoát chỉ có một: giải phóng mình khỏi niềm tin xưa kia thích hợp với loài người về tính tất yếu và tính chính đáng của bạo lực và hấp thụ niềm tin phù hợp với độ tuổi hiện nay của nhân loại và được rao giảng giống nhau trong tất cả các tôn giáo của thế giới về tính tất yếu và chính đáng của tình yêu thương loại trừ bất kỳ một sự bạo hành nào của con người đối với con người.

Đấy, những con người của thế giới và thời đại chúng ta đang đứng lưỡng lự trước chính bước quyết định ấy mà nhân loại thời nay sẽ phái thực hiện.

Và dù người ta có muốn hay không muốn, người ta vẫn không thể không thực hiện cái bước ấy. Họ không thể không thực hiện bởi vì cái niềm tin tôn giáo lập căn cứ cho quyền lực của những người này đối với những người kia đã lỗi thời, và một niềm tin mới, phù hợp với thời đại, vào quy luật tối cao của tình yêu đang càng ngày càng ăn sâu vào tâm thức con người.

VIII

Trí tuệ được ban cho loài người để làm gì nhỉ, nếu có thể tác động được đến họ chỉ bằng bạo lực?

Không cái gì cản trở sự cái thiện tổ chức xã hội, như là giả định về chuyện sự cải thiện ấy có thể đạt được bằng thay đổi những hình thức bên ngoài. Già định sai lầm ấy hướng hoạt động của con người vào cái mà không thể trợ giúp và cuốn hút họ khỏi cái mà có thể trợ giúp cho sự cải thiện đời sống của loài người.

Chúng ta đã quen với những luận thuyết về việc một số người có năng lực tương thích sắp đặt đời sống của nhân loại, nhân loại nói chung, đến mức ta không thấy những luận thuyết ấy là kỳ quái. Trong khi đó thì những luận thuyết như thế sẽ không bao giờ có thể tồn tại giữa những người có đạo và vì thế mà tự do. Những luận thuyết như thế là hậu quả của một tín niệm mang tính dị đoan thừa nhận tính chính đáng của quyền lực của những người này đối với những người khác.

Điều dị đoan này đặc biệt phi lý bởi không có một căn cứ nào khiến những người này – mà lại là đa số – phải phục tùng ý chí của những người khác – mà lại là thiểu số, và là thiểu số kém đạo đức nhất; nó còn đặc biệt có hại bởi vì làm yếu đi trong tất cá mọi người ý thức về sự cần thiết sửa đổi mình, trong khi ấy thì đây mới là phương tiện hữu hiệu duy nhất để tác động đến những người khác.

Tưởng chừng những tai họa phát sinh từ những lực mà con người gầy ra cho con người, lẽ ra phải khơi lên trong họ một ý nghĩ rằng tự họ có tội trong những tai họa ấy. Và nếu tất cả mọi người đều tự mình có tội, mà tôi là người, thì tưởng chừng mỗi một người sẽ phải tự nhủ, tự hỏi cái tội của tôi là ở đâu trong những tai ương mà tôi cùng mọi người đang phải chịu đựng?

Tưởng chừng sẽ phải là thế, nhưng cái tín niệm về chuyện một số người không chỉ có quyen, mà còn có thiên chức và năng lực thu xếp đời sống của những người khác, do loài người quá lâu sống trên cơ sở bạo lực, đã ăn sâu vào thói quen của con người đến nỗi ý nghĩ về sự can hệ của mình vào cái thể chế đời sống tồi tệ của nhân thế không lọt vào đầu một ai. Tất cả đều buộc tội nhau. Một số buộc tội những người mà, theo ý kiến của họ, có trách nhiệm sắp đặt cuộc sống cho họ nhưng lại không sắp đặt được như họ thấy là cần thiêt. Còn những người sắp đặt đời sống của những kẻ khác thì không bằng lòng với những kẻ ấy. Cả những người này lẫn những người kia đều suy nghĩ về những vấn đề phức tạp nhất, nhưng lại không đặt ra cho mình một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhất: tôi phải làm gì để thay đổi cái thể chế đời sống mà tôi cho là tồi tệ, mà tôi bằng cách này hay cách khác lại không thể không can hệ?

“Tình yêu thương phải thay thế bạo lực. Cứ cho là thế đi, người ta sẽ nói, nhưng bằng cách nào, bằng con đường nào bước ngoặt ấy phải được và có thể xảy ra? Phải làm gì để cho bước ngoặt ấy được thực hiện, để cho cuộc sống bạo hành được thay thế bằng cuộc sống trong hòa thuận, yêu thương?”

Phải làm gì? – hỏi như nhau cả những người cai trị lẫn những người bị trị, cả các nhà cách mạng, cả những nhà hoạt động xã hội; dưới câu hỏi “phải làm gì?” luôn luôn ngụ ý câu hỏi về việc đời sống của muôn người phải được sắp đặt, được tổ chức thế nào?

Tất cả đều hỏi đời sống của muôn người phải được sắp đặt thế nào, tức là phải làm gì đây với những người khác? Tất cả đều hỏi phải làm gì với những người khác, nhưng không ai hỏi tôi phải làm gì với chính mình?

Sự mê tín vào tính bất di bất dịch của tôn giáo, đã đẻ ra sự thừa nhận tính chính đáng của việc những người này cai trị những người khác, còn đẻ ra một mê tín nữa, phát sinh từ mê tín thứ nhất và ngăn cản nhiều hơn cả loài người chuyển từ cuộc sống bạo hành sang cuộc sống trong hòa thuận và yêu thương – đó là điều mê tín rằng một số người có nghĩa vụ và khả năng sắp đặt đời sống của những người khác.

Thành thử nguyên nhân chính của việc người đời trơ ì trong lối sống bị chính họ coi là sai lầm hàm chứa trong điều mê tín kỳ quặc (phát sinh từ sự mê tín vào tính bất di bất dịch của tôn giáo) vào cái chuyện là có những người không những có thể, mà còn có quyền quyết định trước và sắp xếp bằng bạo lực cuộc sống của những người khác.

Chỉ cần con người giải phóng mình khỏi điều mê tín thường tình ấy, thì tức khắc mọi người sẽ thấy rõ rằng đời sống của mọi hợp quần người có thể được sắp xếp chỉ theo cách mà mỗi người sắp xếp cuộc sống của mình. Và tất cả mọi người sẽ hiểu ra điều đó, cả những ngưòi sắp đặt cuộc sống của những người khác lẫn những người phục tùng sự sắp đặt ấy, và với mọi người sẽ trở nên hiển nhiên, rằng mọi sự bạo hành của con người đối với con người đều không thể biện hộ được bằng bất cứ cái gì và là sự vi phạm không chỉ tình yêu hoặc thậm chí công lý, mà còn cả lý trí lành mạnh.

Cho nên, sự giải thoát loài người khỏi những tai họa của họ đang phải chịu đựng trong thời đại ngày nay trước hết là ở sự giải phóng mình khỏi điều mê tín vào tính bất di bất dịch của tôn giáo, và từ đó khỏi cái học thuyết tôn giáo sai trái, đã bị nhân loại thời nay vượt qua về tính thần thánh của quyền lực và tiếp theo khỏi sự thừa nhận tính hợp pháp (chính đáng) và hữu ích của bạo lực.

IX

Không chống lại cái ác bằng bạo lực không có nghĩa là từ chối bảo vệ cuộc sống và lao động của mình và của những người khác, mà chỉ có nghĩa là phải bảo vệ tất cá cái đó bằng phương cách khác, không mâu thuẫn với bản nguyên hữu trí tối cao bên trong con người; phải bảo vệ cuộc sống và lao động của những người khác và của mình bằng cách đánh thức trong kẻ tấn công đời sống của một sinh linh hữu trí. Cốt lõi của phương thức ấy chủ yếu là sự hoàn thiện đạo đức của chính mình, cần thiết để có được sức tác động đến những người khác bằng tình yêu thương, bằng những điều thiện, bằng sự khai minh hợp lý.

Nếu tôi, thí dụ, trông thấy một người đang định giết chết một người khác thì cái nhiều nhất mà tôi có thể làm, đó là lấy mình thay thế cho người sắp bị giết và nói với tên tội đồ: “Ngực tôi cho anh đây, hãy giết tôi trước, bởi vì tôi không thể chịu đựng và không thể cho phép, chừng nào tôi còn sống, sự giết người” – và bằng mình bảo vệ, che chắn cho người ấy và nếu có thể cứu sống thì kéo anh ta đi một chỗ khác, giấu đi, chẳng khác nào tôi sẽ cứu người đang chết cháy trong hỏa hoạn hoặc chết đuối: hoặc tự chết đi, hoặc cứu được người. Còn nếu như tôi bất lực không làm được như thế, bởi vì bản than tôi là một tội đồ lầm lạc, thì sự bất lực ấy của tôi không cho tôi quyền mắc tội, quyền đánh thức trong mình một dã thú, làm tăng cường hơn nữa sự mất trật tự trong hồn mình và triển khai sự mất trật tự ấy vào thế giới bằng cái ác của bạo lực và của sự biện minh cho bạo lực.

Một ai đó

“Được rồi, tình yêu thương thay vì luật pháp được thực thi bằng bạo lực. Cứ cho là việc mọi người thừa nhận tình yêu thương là phương tiện hợp quần người với người phải thay thế cho bạo lực sẽ gia tăng hạnh phúc cho loài người, nhưng nó sẽ gia tăng chỉ khi nào tất cả mọi người công nhận quy luật yêu thương là bắt buộc đối với mình” – người ta thường nói. “Thế nhưng cái gì sẽ đến với tất cả những ai chối từ bạo lực mà lại tiếp tục sống giữa những người không chối từ nó? Những người như thế sẽ bị tước đoạt tất cả, sẽ bị hành hạ, sẽ trở thành nô lệ cho những kẻ sống bằng bạo lực.”

Những người bênh vực bạo lực luôn luôn nói cũng vẫn một điều như thế và không hề cố gắng hiểu ra cái nằm ngay trong học thuyết về tình yêu.

Tôi sẽ không nói về việc nếu bạo lực có một lúc nào đó bảo vệ cuộc sống và sự bình yên của con người, thì, ngược lại, đã hằng hà sa số lần nó là nguyên nhân của những tai họa lớn nhất mà lẽ ra sẽ không thể có, giả dụ loài người không để cho bạo lực tồn tại. Tôi sẽ không nói về tất cả những chuyện khủng khiếp từ những thời tối cổ được thực hiện vì sự thừa nhận cần có bạo lực, cũng như về những nỗi kinh hoàng của các cuộc chiến tranh cổ đại và trung đại, về những điều kinh khủng của cuộc đại. cách mạng Pháp, về 30.000 chiến sĩ công xã năm 70, về những chuyện khủng khiếp của các cuộc chiến tranh của Napoléon, các cuộc chiến tranh Pháp – Thổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, các cuộc bình định ở Ấn Độ, các việc làm ở Ba Tư hiện nay, về cuộc diệt chủng người Arménie đang tiến hành hiện giờ, về những cuộc giết người và hành quyết ở Nga, về hàng tỉ người lao động thường xuyên chết vì đói khổ.

Cân nhắc và giải quyết vấn đề, đã hoặc sẽ có nhiều hơn hay ít hơn những tai họa vật chất từ việc luật bạo lực hay luật yêu thương được áp dụng vào đời sống xã hội là việc mà chúng ta tuyệt đối không có thể làm – bởi vì chúng ta không biết và không thể biết cái gì sẽ đến, giả dụ chỉ một phần nhỏ của loài người sẽ tuân theo luật yêu thương, còn phần lớn sẽ tiếp tục sống bằng bạo lực. Vấn đề này tuyệt không thể được giải quyết bằng kinh nghiệm hoặc suy đoán. Đây là vấn đề tôn giáo – đạo đức và nó được giải quyết không bằng kinh nghiệm, mà bằng ý thức nội tâm, cũng như mọi vấn đề tôn giáo – đạo đức, được giải quyết không bằng những suy tính cái gì có lợi hơn mà bằng việc con người xem cái gì là tốt và cái gì là xấu, cái gì là phải lẽ và cái gì là không phải lẽ.

Không từ đâu, như từ thái độ của những con người thời nay đối với vấn đề về khả năng áp dụng vào đời sống quy luật yêu thương và từ thái độ đối với khái niệm không chống lại cái ác bằng bạo lực gắn bó khăng khít với quy luật ấy, không từ đâu có thể thấy rõ đến thế một sự thiếu vắng hoàn toàn trong những con người thời nay không chỉ tín ngưỡng Kitô giáo mà còn bất kỳ một tín ngưỡng tôn giáo nào, và không chỉ bất kỳ một tín ngưỡng tôn giáo nào, mà còn thậm chí cả nhận thức về việc nội dung của tín ngưỡng ây là ở đâu.

“Quy luật tình yêu loại trừ bạo lực là bất khả thi, bởi vì có thể xảy ra việc trước mắt chúng ta một tên ác ôn sẽ giết chết một đứa trẻ không được ai bảo vệ”, người ta nói.

Những người ấy không hỏi họ phải làm gì khi họ trông thấy một người bị dẫn đi để hành quyết, hay khi họ thấy những người được huấn luyện để giết người, hay khi họ thấy những công nhân, những phụ nữ và trẻ em bị giết chết dần bằng lao động độc hại tại các nhà máy. Tất cả cái đó họ không thấy và không những không tự hỏi mình phải làm gì trước những cảnh ấy, mà họ còn tự mình tham gia vào những công việc ấy, vào những cuộc hành quyết, những việc luyện tập binh lính, những cuộc chiến tranh, những thủ đoạn giết chết dần những người lao động và nhiều việc khác nữa cũng giống như thế. Nhưng đấy, chư vị có thấy không, họ rất bận tâm với câu hỏi họ sẽ phải hành xử thế nào với một đứa trẻ tường tượng đang bị giết trước mắt họ. số phận của đứa trẻ tưởng tượng ấy làm họ động lòng đến nỗi họ không thể giả thiết được rằng một trong những điều kiện thiết yếu của tình yêu là không sử dụng bạo lực. Thực ra cái khiến những người muốn biện hộ cho bạo lực bận tâm tuyệt không phải là số phận đứa trẻ tưởng tượng, mà là số phận của chính mình, là toàn bộ cuộc sống dựng xây trên bạo lực của mình mà với sự phủ định bạo lực, sẽ không thể tiếp diễn.

Còn bảo vệ một đứa trẻ đang bị giết thì bao giờ cũng có thể, chỉ cần đưa ngực của mình ra cho kẻ sát nhân đâm, nhưng ý nghĩ ấy, tự nhiên đối với con người sống bằng tình yêu, không thể nào lọt vào đầu những ai sống bằng bạo lực, bởi vì đối với những con người như thế không thể có những động cơ hành động nào khác ngoài những động cơ sinh vật.

Trong thực tế thì vấn đề về tính khả thi trong đời sống của những đòi hỏi của tình yêu có thể được quy về một kết luận tư duy đơn giản, luôn luôn được và không thể không được mọi con người hữu trí thừa nhận, đó là tình yêu, không thể tương hợp với việc làm cho người khác cái mình không muốn cho mình, vì thế mà không thể tương dung với những việc như làm bị thương, tước đoạt tự do, giết chết những người khác luôn luôn nằm sẵn bên trong quan niệm bạo lực. Và xà thế có thể sống bằng bạo lực mà không thừa nhận luật yêu thương là luật tôn giáo; cũng có thể sống theo luật yêu thương mà không thừa nhận bạo lực là cần thiết, nhưng thừa nhận là thần thánh cả luật quyền lực, tức là bạo lực, và cũng thần thánh như thế cả luật yêu thương là việc tưởng chừng không thể. Thế mà tất cả mọi người trong thời đại chúng ta, đặc biệt những người của thế giói Kitô giáo, lại đang sống trong cái mâu thuẫn kịch liệt nhất ấy.

X

Nếu bạn đau khổ bởi trật tự thế giới hiện hữu hoặc phẫn nộ trước nó thì hãy biết rằng để đấu tranh với cái trật tự ấy chỉ có một phương sách: tăng cường trong con người ý thức tôn giáo.

Dễ hiểu là sự tăng cường như thế phải xảy ra trước hết ở bên trong bạn, và sự tăng cường ý thức tôn giáo ấy trong bạn là phương sách có sức mạnh nhất để tăng cường nó ở những người khác.

Người đời càng tin hơn vào việc là bằng một cái gì đó ngoại tại, tác đông một cách tự động, bên ngoài ý chí của họí họ có thể được đưa đến sự thay đổi và cải thiện cuộc sống của mình thì sự thay đổi và cải thiện ấy càng khó được thực hiện.

“Nhưng tất cả cái đó chỉ là những suy luận chung. Cứ cho rằng tôi tin vào quy luật tình yêu”, người ta sẽ nói lại. “Song tôi đây, một Ivan, Piotr, Maria, từng con người một, phải làm gì, nếu thừa nhận là đúng, loài người đã sống đến lúc cần phải bước lên một con đường sống mói? Tôi đây, một Ivan, Piotr, Maria, phải làm gì để cho cuộc sống tồi tệ trong bạo lực được xóa bỏ và cuộc sống thiện lương trong tình yêu được thiết lập? Đích thị tôi đây, một Ivan, Piotr, Maria phải làm gì để trợ giúp cho bước ngoặt ấy?”

Câu hỏi ấy, mặc dù tưởng là rất tự nhiên, thực ra cũng kỳ quái như sẽ là kỳ quái nếu một người chuyên hãm hại đời mình bằng rượu chè, cờ bạc, trác táng, hiềm xích lại hỏi: tôi phải làm gì đây để cải thiện cuộc sống của mình?

Cho dù có xấu hổ đến đâu phải trả lời một câu hỏi như thế, dẫu sao tôi vẫn trả lời cho những ai thấy cần được trả lời.

Đối với câu hỏi: một người lên án trật tự đời sống hiện hữu và mong muốn thay đổi và cải thiện nó phải làm gì, có một câu trả lời đơn giản, tự nhiên và thống nhất cho tất cả những ai không mắc chứng mê tín bạo lực, nó là như sau:

Thứ nhất: tự mình không bạo hành trực tiếp nựa và không chuẩn bị bạo hành. Đó là thứ nhất, thứ hai, không tham gia bất cứ một hành vi bạo lực nào do những người khác làm, cũng như những chuẩn bị cho bạo lực. Thứ ba, không tán thành bất kỳ một bạo lực nào.

1) Tự mình không bạo hành trực tiếp có nghĩa là bằng tay mình không bắt bớ, đánh đập, giết hại ai, không làm điều đó vì mục đích cá nhân của mình cũng như dưới dạng hoạt động xã hội.

2) Không tham gia bất cứ một hành vi bạo lực nào không chỉ có nghĩa không làm cảnh sát trưởng, tỉnh trưởng, chánh án, lính canh, người thu thuế, Sa hoàng, bộ trưởng, binh nhì, mà còn không tham gia các cuộc xử án với tư cách người khởi kiện, người bào chữa, người canh giữ, bồi thẩm.

3) Không tán thành bất cứ một bạo lực nào có nghĩa là, ngoài việc không dùng bất kỳ một hành vi bạo lực nào vì lợi ích của mình, không thể hiện bằng lời nói, bằng viết lách, bằng hành động sự khen ngợi hay đồng ý của cả những hành động bạo lực lẫn những việc làm duy trì bạo lực hoặc dựa trên bạo lực.

Rất có thể là nếu con người hành xử như thế, chối từ quân dịch, tòa án, chứng minh thư, không nộp thuế, không công nhận các nhà cầm quyền và tố cáo những kẻ bạo hành cùng với những trợ thủ của chúng, thì anh ta sẽ bị truy bức. Rất có thể là theo quan niệm thời nay người ta sẽ làm cho khốn khổ một người như thế: tước đoạt tài sản, phát lưu, nhốt vào nhà tù, có thể giết chết nữa. Nhưng cũng có thể, một người không làm một điều gì tương tự như thế mà ngược lại, thực thi mọi yêu cầu của nhà cầm quyền, cũng sẽ bị thiệt hại như cũng thế vì những nguyên nhân khác hoặc còn nhiều hơn so với người từ chối tuân phục. Cái đó cũng hữu khả, như là cái việc là sự chối từ tham gia bạo lực, dựa trên những yêu cầu của tình thương yêu, của một người sẽ mở mắt cho những người khác thấy và sẽ thôi thúc nhiều người cũng chối từ, rốt cuộc nhà cầm quyền sẽ không có thể dùng bạo lực chống lại tất cả những người chối từ.

Tất cả cái đó đều có thể xảy ra, nhưng cũng có thể không xảy ra. Và vì thế giải đáp cho câu hỏi con người thừa nhận tính chân lý và tính khả thi của quy luật tình yêu phải làm gì không thể dựa vào những hậu quả được giả định.

Hậu quả của những hành vi của chúng ta không ở trong quyền năng của chúng ta. Chi bản thân những hành vi của chúng ta mới ở trong quyền năng của chúng ta. Còn những hành vi nào nên làm và, cái chính, không nên làm thì lại luôn luôn phụ thuộc vào niềm tin của con người. Nếu con người tin, như tin vào tôn giáo, vào sự cần thiết của bạo lực, thì nó sẽ tiến hành bạo lực không vì những hậu quả tốt lành mà nó chờ đợi ở bạo lực, mà chỉ vì nó tin. Còn nếu con người tin vào quy luật tình yêu thì cũng đúng như thế nó sẽ thực hiện những đòi hỏi của tình yêu và sẽ kiêng tránh những hành vi đi ngược lại quy luật ấy không phụ thuộc vào bất kỳ một suy tính nào về hậu quả, mà chi bởi vì nó tin và không thể hành xử một cách khác.

Và vì thế để đưa vào đòi sống quy luật của tình yêu thay thế cho quy luật của bạo lực chỉ cần một điều: làm sao cho mọi người tin vào quy luật của tình yêu cũng như hiện nay người ta tin vào quy luật của bạo lực. Chỉ cần loài người tin vào quy luật của tình yêu dẫu chỉ gần gần như hiện nay họ tín vào sự cần thiết của bạo lực, thế thì vấn đề những người đã chối từ bạo lực sẽ phải ứng xử thế nào vớỉ những người đang thực hiện bạo lực sẽ không còn là vấn đề nữa và đời sống của muôn người chẳng cần có những nỗ lực và chấn động nào mà vẫn sẽ thâu thái được cái hình thức mà nhân loại đang đi đến với nó và một mình nó sẽ giải thoát loài người khỏi những tai họa đang làm khổ họ. Có thể có cái đó hay không?

XI

Chỉ cần con người quay lưng iại với những giải pháp cho những vấn đề ngoại tại và đặt ra cho mình một câu hỏi nội tại duy nhất thực sự phù hợp với bản tính con người: làm thế nào sống tốt hơn cuộc đời mình? Thế thì tất cả các vấn đề ngoại tại sẽ được giải quyết một cách tốt nhất.

Chúng ta không biết và không thể biết cái phúc chung là ở đâu, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng cái phúc ấy có thể đạt tới chỉ với sự thực hành cái luật thiện được khải thị cho từng người một.

Giá mà người đời quyết muốn, thay vì cứu độ thế giới, cứu độ bản thân mình, thay vì giải phóng nhân loại, giải phóng chính mình – thì họ đã làm được nhiều đến đâu cho sự cứu độ thế giới và giải phóng nhân loại!

Herzen

Giải pháp cho không chỉ một vấn đề chế độ xã hội, mà tất cả, tất cả các vấn đề đang khiến loài người bận tâm lo lắng – chỉ ở một điều, ở sự chuyển dịch vấn đề từ lĩnh vực tưởng chừng rộng lớn và hệ trọng, nhưng thực ra lại nhỏ hẹp, bé nhỏ và luôn luôn khả nghi: từ tình vực hoạt động ngoại giới (hoạt động khoa học, hoạt động xã hội được cho là phục vụ lợi ích toàn nhân loại) vào lĩnh vực tưởng là nhỏ hẹp, nhưng thực ra lại rộng lớn và sâu xa nhất, và cái chính, bất khả nghi: vào lĩnh vực đời sống cá nhân, nhưng không phải thân xác mà tính thần, vào lĩnh vực tôn giáo.

Chỉ cần từng người làm điều đó cho mình, chỉ cần từng người hỏi mình, hỏi con người thật của mình, hồn mình: trước Thượng Đế hay trước lương tâm của ta (nếu bạn không muốn thừa nhận Thượng Đế) ta cần phải làm gì, thì tức khắc sẽ có được những câu trả lời đơn giản, rõ ràng và bất khả nghi nhất cho những câu hỏi tưởng là phức tạp nhất và không the giải quyết nhất, và đa phần sẽ tiêu biến bản thân những câu hỏi ấy và tất cả tức khắc trở nên giản dị, minh bạch, đáng mừng vui và không còn chút nghi hoặc nào.

Dù bạn có là ai: một hoàng đế, một quân vương, một đao phủ, một nhà tỉ phú, một người canh giữ nhà tù, một người ăn mày, một bộ trưởng, một tên trộm cắp, một nhà văn, một tu sĩ – hãy dừng lại một phút trong hoạt động của mình và hãy nhìn vào nơi thiêng liêng nhất bên trong mình, vào trái tim mình và hãy tự hỏi: cái gì cần cho ta, cho con người thật của ta để sống một cách tốt nhất những ngày giờ hay những thập niên mà ta có thể còn được hưởng.

Và dù cho bạn có là ai, chỉ cần bạn chân thành và nghiêm túc hỏi mình về điều đó, thì bạn sẽ không thể không trả lời cho mình y như tất cả những người đã và đang chân thành và nghiêm túc đặt câu hỏi ấy trả lời: bạn cần một thứ, chắc chắn một thứ, cái mà luôn luôn từng và bây giờ đang cần cho tất cả mọi người: cái thiện phúc (blago), cái chân phúc, không phải cái phúc mà hôm nay có thể là phúc nhưng ngày mai là họa, và cũng không phải là cái phúc chỉ cho một mình bạn, nhưng lại là ác cho người khác, mà là cái phúc chân chính, không thể hồ nghi, là cái phúc vừa cho bạn vừa cho tất cả mọi người, cả hôm nay, cả ngày mai và ở bất cứ nơi nào. Và cái chân phúc ấy chỉ được ban cho những ai thực thi luật của cuộc sống của mình. Mà cái luật ấy thì bạn biết cả theo lý trí, cả theo học thuyết của tất cả những bậc hiền giả của thế giới, cả theo sự lôi kéo của trái tim mình. Luật ấy là tình yêu: tình yêu đối với thể hoàn hảo cao nhất – Thượng Đế, và đối với mọi chúng sinh và đặc biệt đối với những sinh linh tương tự như bạn – những con người.

Chỉ cần từng người trong chúng ta ngộ ra điều đó, thì tức khắc sẽ ngộ ra cả một điều nữa, ấy là nguyên nhân của những khổ đau của cả mình lẫn cả thế gian không nằm trong những con người ác độc nào đó phải chịu tội vì tất cả cái ác đang được diễn ra, mà chỉ ở một điều: ở cái việc là loài người đang sống trong những điều kiện sống được hình thành trên cơ sở bạo lực, những điều kiện trái ngược và không thể dung hòa với tình yêu thương, và vì vậy căn nguyên của mọi điều tai ương làm khổ tất cả chúng ta không ở trong con người mà ở trong cái thể chế đời sống sai lầm, dựa trên bạo lực mà con người cho là cần thiết.

Và nếu từng người hiểu ra điều đó – thì nó sẽ hiểu ra rằng cả một kẻ đạo tặc đang đánh cắp, cả một phú gia tích lũy và giữ khư khư của cải, cả một người cầm quyền ký án tử hình và một tên đao phủ thi hành án ấy, cả người làm cách mạng đang nổ bom, cả nhà ngoại giao chuẩn bị chiến tranh, cả cô gái điếm đang để cho cả linh hồn lẫn thể xác của mình bị nhục mạ, cả người lính bắn vào ai được lệnh bắn, tất cả đều không có tội như nhau, mà chỉ làm cái mà họ làm bởi vì họ sống theo niềm tin sai lạc về sự tất yếu của bạo lực mà không có nó thì họ không hình dung được cuộc sống.

Và khi con người đã hiểu ra điều đó, thì nó cũng sẽ thấy rõ sự bất công, sự tàn nhẫn và dại dột của việc lên án những con người bị niềm tin lỗi thời của mình dẫn dắt đến bạo lực và bị những điều kiện sống phức tạp nhưng cũng bắt nguồn từ niềm tin ấy thúc đẩy tới những hành vi trái ngược với tình yêu thương, sẽ hiểu ra rằng người đời làm điều xấu không phải vì họ là những sinh linh tội lỗi, mà vì có sự mê tín bạo lực, mà không thể tiêu diệt cũng bằng bạo lực, mà chỉ bằng việc từng người một giải phóng mình cho bằng được khỏi điều mê tín nguy hại ấy.

Còn phương sách tự giải phóng khỏi sự mê tín bạo lực thì chỉ có một: giải phóng mình khỏi những vấn đề chung, hệ trọng giả tạo của đời sống xã hội và chuyển dịch mọi nỗ lực tinh thần từ lĩnh vực hoạt động xã hội, ngoại giới, vào lĩnh vực thực hiện những đòi hỏi của đờỉ sống tinh thần nội giới của mình. Những đòi hỏi ấy được diễn đạt rõ ràng trong các học thuyết tôn giáo của tất cả bậc thầy của nhân loại cũng như trong ý thức nội tâm của từng con người; cốt lõi của chúng là từng người gia tăng trong mình năng lực yêu thương.

XII

Kết thúc sứ mệnh của mình, Đức Kitô đã đặt nền móng cho một xã hội mới. Trước đó các dân tộc thuộc về một hay nhiều lãnh chúa, như các bầy đàn thuộc về các chủ… Những kẻ có vương quyền và sức mạnh đè nén dân chúng bằng sức nặng của lòng kiêu ngạo và hám lợi của mình. Đức Kitô đã chấm dứt sự bất chính ấy, làm cho những cái đầu cúi gằm ngẩng lên, giải phóng những người nô lệ. Người đã dạy cho họ hiểu rằng, vốn bình đẳng trước Thiên Chúa, tất cả mọi người tự do trước nhau, rằng không ai tự mình có thể có quyền lực đối với những người anh em của mình, rằng bình đẳng và tự do – những luật thần định của loài người – là không thế phá bỏ, rằng quyền lực không thể là quyền lợi và trong tổ chức xã hội nó là một nghĩa vụ, một sự phục vụ, một kiểu làm nô lệ được tình nguyện nhận lấy cho mình vì lợi ích chung.

Cái đó chúng ta có thấy hay không trên thế gian? Có phải học thuyết ấy ngự trị trên trái đất? Là đầy tớ hay các ông chủ những người cầm quyền Các dân tộc trong thế giới của chúng ta?

Đã 18 thế kỷ thế hệ này tiếp nối thế hệ kia người ta lưu truyền cho nhau học thuyết của Kitô và nói rằng tin vào học thuyết ấy. Nhưng cái gì đã thay đổi trong thế giới? Các dân tộc bị đè nén và khổ đau vẫn chờ sự giải phóng được hứa hẹn và không phải bởi vì lời của Kitô là không đúng hay không hữu hiệu, mà vì các dân tộc hoặc còn chưa hiểu rằng học thuyêt phải được thực hiện bằng những nỗ lực của chính họ, bằng nghị lực của họ, hoặc ngủ quên trong cảnh bị hạ nhục của mình, họ chưa làm cái duy nhất đem lại chiến thắng – chưa sẵn sàng chết vì chân lý. Nhưng họ sẽ bừng tỉnh. Đã có tiếng động đậy giữa họ: họ nghe thấy tiếng nói nói với họ: sự giải thoát đang đến gần.

Lamennais

Đường hướng đúng đắn cho tư tưởng không phái là thiết lập những đạo luật mới cho quyền lực thế tục hay tôn giáo mà là thừa nhận cá nhân con người với quyền lực tiềm ẩn bên trong nó. Một định hướng như thế cho tư tưởng sẽ trợ giúp cho tiến bộ của nhân loại nhiều hơn không thể so sánh với những nỗ lực đáng thương của những người mù dẫn đường cho những người mù, chỉ khiến tất cả rơi xuống cái hố của những tín điều, những quyền uy và hệ thống luân lý.

Yeats

Trong thời đại của chúng ta việc tiếp tục cuộc sống trên những cơ sở đã lỗi thời và mâu thuẫn gay gắt với chân lý đang được mọi người nhận thức trở nên bất khả, vì thế dù có muốn hay không chúng ta vẫn phải trong sư sắp xếp đời sống của mình đặt quy luật yêu thương vào vị trí của bạo lưc. Thế nhưng đời sống của loài người sẽ ra sao, khi nó đã được đặt trên cơ sở tình yêu thương loại trừ bạo lực? Không ai có thể trả lời câu hỏi ấy, vả lại câu trả lời ấy cũng không cần thiết cho một ai. Luật thương yêu không phải là luật tổ chức xã hội của một dân tộc hay quốc gia nào, mà có thể giúp sức, khi ta thấy trước hoặc, nói đúng hơn, tưởng là thấy trước những điều kiện, mà với chúng sự thay đổi mong muốn sẽ được thực hiện. Luật thương yêu, vốn là quy luật sống của từng con người riêng lẻ, đồng thời cũng là quy luật sống của toàn nhân loại, vì thế sẽ là điên rồ tưởng rằng có thể biết và cần phải biết được mục đích cuôi cùng của đời mình cũng như đời sống loài người.

Nếu chúng ta không biết và thậm chí không thể hình dung được cho mình sẽ là ra sao cuộc sống của những người tin vào quy luật của tình yêu, như hiện giờ người đời tin vào sự tất yếu và thiết yếu của bạo lực, thì cái đó chỉ cho thây rằng khi tuân theo quy luật của tình yêu, chúng ta sống đích thực, chúng ta làm cái mỗi người phải làm cho mình và cho đời sống của cả loài ngườỉ. Tuân theo quy luật của tình yêu, chúng ta làm điều phải làm cho mình – chúng ta biết là như thế bởi vì, chỉ tuân theo quy luật ấy chúng ta mới có được hạnh phúc lớn nhất. Cũng tuân theo quy luật ấy, chúng ta làm cả việc còn phải làm cho cả loài người – chúng ta biết là như thế, bởi vì hạnh phúc của loài người là ở sự đoàn kết, và không gì, theo ngay thuộc tính của mình, có thể đoàn kết người với người chặt chẽ đến thế và trong niềm vui lớn đến thế như là chính cái quy luật của tình yêu mang lại hạnh phúc cao nhất cho từng con người cá thể.

Đó là tất cả những gì tôi muốn nói.

Bằng tất cả tấm lòng tin rằng chúng ta đang sống trong đêm trước bước ngoặt vĩ đại trong đời sống của mọi người, và rằng mọi nỗ lực nhằm phá hủy mau lẹ những gì không thể không bị phá hủy và thực hiện mau lẹ tất cả những gì không thể không được thực hiện, mọi nỗ lực, cho dù yếu ớt nhất, cũng giúp sức cho bước ngoặt ấy, tôi đã không thể, theo mọi xác suất sống nốt những ngày cuối cùng của đời mình mà không cố gắng truyền thụ cho những người khác niềm tin ấy của mình.

Đúng, chúng ta đang đứng trước ngưỡng một cuộc sống hoàn toàn mới, sung sướng, và sự bước vào cuộc sống ấy phụ thuộc chỉ vào việc chúng ta giải phóng mình khỏi điều mê tín càng ngày càng gây khổ nhiều hơn cho ta vào tính tất yếu và thiết yếu của bạo lực cho đời sống hợp quần của loài người và thừa nhận cái nguyên lý vĩnh hằng của tình yêu mà đã lâu sống trong tâm thức con người và tất yếu phải thay thế cái nguyên lý bạo lực đã không cần thiết từ lâu và chỉ hủy hoại đời sống con người.

Yasnaya Poliana 5 tháng Sáu 1909

[137] Bước ngoặt không thể tránh khỏi (“Neizbezhnyj perevorot’) Đây là bài viết cuối cùng của Tolstoi về vấn đề không chống lại cái ác bằng bạo lực. Nó phát triển và một lần nữa khẳng định những tư tưởng chính được Tolstoi trình bày một nămtrước đó trong bài khảo luận dài Quy luật bạo lực và quy luật tình yêu, không được đưa vào sách này do khuôn khổ hạn chế của nó.

❁ ❁ ❁ 
Tác giả: Lev Tolstoi
Nguồn: DTV eBook.

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x