Trang chủ » Bổn phận là gì?

Bổn phận là gì?

by Trung Kiên Lê
113 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

Khi nghiên cứu karma-yoga thì cần phải hiểu bổn phận là gì. Nếu là tôi làm một điều gì đó thì trước hết tôi phải hiểu đó là bổn phận của mình, sau đó tôi mới có thể làm.

Quan niệm về bổn phận khác nhau theo từng quốc gia. Tín đồ Hồi giáo bảo rằng những điều viết trong kinh Koran là bổn phận của họ, tín đồ Ấn giáo bảo rằng những điều viết trong kinh Veda là bổn phận của họ, tín đồ Cơ Đốc giáo bảo rằng những điều viết trong Kinh Thánh là bổn phận của họ.

Ta thấy rằng có nhiều quan niệm khác nhau về bổn phận, khác nhau theo điều kiện sống khác nhau, theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau và theo từng quốc gia khác nhau.

Thuật ngữ “bổn phận”, cũng như mọi thuật ngữ phổ quát trừu tượng, không thể nào định nghĩa cho rõ ràng, chúng ta chỉ có thể nắm được ý tưởng về bổn phận nhờ hiểu được cách hoạt động và kết quả thực tiễn của nó.

Khi một sự việc cụ thể xảy ra trước mắt, tất cả chúng ta đều bị thôi thúc, hoặc do tự nhiên hoặc do được tập luyện, phải hành động theo cách nào đó; khi tâm trí bị thôi thúc thì nó bắt đầu nghĩ đến tình huống diễn ra sự việc.

Khi thì nó cho rằng trong điều kiện như thế mà làm theo cách đó là tốt; lúc khác, cũng trong tình huống tương tự, thì nó lại cho rằng làm theo cách tương tự đó là sai.

Ý tưởng thông thường về bổn phận ở khắp mọi nơi là: mọi người tốt cứ làm theo chỉ thị của lương tâm. Nhưng điều gì đã biến một hành động thành bổn phận?

Nếu một tín đồ Cơ Đốc giáo thấy một miếng thịt bò ở trước mặt mà không ăn nó để cứu mạng mình, hoặc không muốn dùng nó để cứu mạng kẻ khác thì chắc chắn anh ta cảm thấy không làm tròn bổn phận.

Nhưng nếu một tín đồ Ấn giáo cả gan ăn miếng thịt bò đó, hoặc đưa cho người khác ăn thì chắc chắn anh ta cũng cảm thấy không làm tròn bổn phận y như vậy; sự tập luyện và nền giáo dục khiến anh ta cảm nhận theo cách đó.

Trong thế kỷ trước, có nhiều đảng cướp nổi tiếng ở Ấn Độ gọi là Thugs; chúng cho rằng bổn phận của chúng là giết người, cướp của; hễ giết người càng nhiều thì chúng càng cho rằng mình tài giỏi.

Thông thường, nếu một người đi ra phố và bắn gục một người khác thì anh ta cảm thấy ân hận, nghĩ rằng mình đã làm điều sai quấy.

Những cũng chính người đó, với tư cách là một quân nhân trong hàng ngũ của mình, không chỉ giết một người mà giết đến hai mươi người thì chắc chắn anh ta lại cảm thấy hoan hỷ, và nghĩ rằng mình đã làm tròn bổn phận một cách xuất sắc.

Do đó, chúng ta thấy rằng không phải điều ta làm có thể xác định được bổn phận. Bởi vậy, đưa ra một định nghĩa khách quan về bổn phận điều hoàn toàn không thể.

Tuy thế, xét về phương diện chủ quan thì vẫn có bổn phận. Bất cứ việc làm nào giúp chúng ta hướng đến Thượng Đế đều là việc làm tốt, và đó là bổn phận của chúng ta; còn những việc làm nào khiến chúng ta suy đồi, sa đọa đều là việc làm xấu, và đó không phải là bổn phận của chúng ta.

Xét theo quan điểm chủ quan, chúng ta có thể thấy rằng có một số hành vi có xu hướng giúp chúng ta hướng thượng và trở nên cao quý, trong khi những hành vi khác lại khiến chúng ta suy đồi và trở nên đê tiện.

Nhưng không thể phân biệt rạch ròi loại hành vi nào, xu hướng nào cho tất cả mọi người, trong mọi địa vị và hoàn cảnh.

Tuy nhiên, có một quan niệm về bổn phận được toàn thể nhân loại ở mọi lứa tuổi, mọi tôn giáo, mọi quốc gia cùng chấp nhận, và bổn phận đó được tóm tắt trong một câu ngạn ngữ tiếng Sanskrit như vầy: “Không làm hại bất kỳ ai là đức hạnh, còn làm hại bất kỳ ai là tội lỗi”[1].

Kinh Bhagavad Gitā thường ám chỉ đến bổn phận tùy thuộc theo xuất thân và địa vị trong đời sống. Xuất thân cùng địa vị trong đời sống và trong xã hội quyết định phần lớn thái độ tinh thần và đạo đức của mỗi cá nhân đối với những hoạt động khác nhau trong cuộc sống.

Do đó, bổn phận chúng ta là phải làm những việc nào giúp chúng ta hướng thượng và trở nên cao quý, phù hợp với những lý tưởng và hoạt động của xã hội mà chúng ta đang sống.

Nhưng chúng ta phải đặc biệt ghi nhớ rằng không phải trong xã hội nào, đất nước nào, những lý tưởng và hoạt động đó cũng đều chiếm ưu thế; thiếu hiểu biết về điều này là nguyên nhân chính dẫn đến hận thù giữa các quốc gia.

Một người Mỹ cho rằng bất cứ điều gì mà người Mỹ làm theo phong tục của đất nước anh ta đều là những việc làm tuyệt hảo, và kẻ nào không làm theo điều đó chắc chắn phải là kẻ xấu xa, độc ác.

Một người Ấn lại cho rằng phong tục của đất nước anh ta là phong tục duy nhất đúng đắn và tuyệt hảo nhất trên thế gian, bất cứ người nào không tuân thủ những phong tục đó chắc chắn phải là kẻ xấu xa, độc ác nhất trên đời. Đó hoàn toàn là sự nhầm lẫn tự nhiên mà tất cả chúng ta thường mắc phải.

Những điều đó rất nguy hiểm, nó là nguyên nhân của một nửa những điều nghiệt ngã xảy ra trên thế giới này. Khi tôi mới đến đất nước này[2], và đang đi trong Hội chợ Chicago thì một người đàn ông đứng sau lưng giật lấy cái khăn quấn đầu của tôi.

Tôi quay lại nhìn, và thấy anh ta là một người dáng vẻ trông rất lịch sự, ăn mặc chỉnh tề. Tôi nói chuyện với anh ta, và khi thấy tôi biết tiếng Anh thì anh ta rất đỗi luống cuống. Một dịp khác cũng trong Hội chợ đó, một người đàn ông xô tôi một cái.

Khi tôi hỏi nguyên do thì anh ta cũng đâm ra ngượng ngùng, lắp bắp xin lỗi và nói: “Sao ông lại ăn mặc như thế?”. Sự cảm thông giữa con người bị giới hạn trong phạm vi ngôn ngữ và y phục của từng xứ sở. Phần lớn sự áp bức của những nước mạnh đối với nước yếu là do định kiến này.

Nó làm khô cạn tình thân ái giữa người với người. Người đàn ông đó – người đã hỏi tôi vì sao không ăn mặc giống anh ta và toan hành hung tôi – có thể là một người rất tốt, một người cha đạo đức, một công dân gương mẫu, nhưng lòng tốt của anh ta bị khô cạn ngay khi nhìn thấy một người trong bộ trang phục khác lạ.

Những người nước ngoài bị bóc lột ở khắp mọi quốc gia, vì họ không biết cách tự bảo vệ lấy mình, bởi vậy họ mang về quê hương mình các ấn tượng sai lầm về những dân tộc mà họ đã thấy.

Có những thủy thủ, chiến binh, thương gia hành xử ở nước ngoài theo cách rất là quái dị, dù chắc hẳn họ không dám mơ đến việc làm những điều đó trên chính quê hương mình; có lẽ vì thế mà người Trung Quốc gọi người châu Âu và người Mỹ là “bọn quỷ nước ngoài”.

Họ không thể gọi thế nếu như họ thấy được những khía cạnh tốt đẹp, nhân hậu trong đời sống phương Tây. Do đó, điểm duy nhất cần ghi nhớ là chúng ta phải luôn luôn cố gắng nhìn bổn phận của người khác bằng chính đôi mắt của họ, và đừng bao giờ phán xét phong tục của những dân tộc khác theo tiêu chuẩn riêng của mình.

Tôi không phải là tiêu chuẩn của vũ trụ. Tôi phải tự thích ứng với cuộc đời, chứ không phải cuộc đời thích ứng với tôi. Do đó, chúng ta thấy rằng hoàn cảnh làm biến đổi bản chất của bổn phận, và làm tròn bổn phận của riêng ta tại bất kỳ thời điểm đặc biệt nào là điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm được cho thế gian này.

Chúng ta hãy làm tròn bổn phận của mình theo xuất thân, và khi đã làm xong điều đó, chúng ta hãy làm bổn phận của mình theo địa vị trong đời sống và xã hội.

Tuy nhiên, có một điều vô cùng nguy hiểm trong bản tính con người – đó là con người không bao giờ chịu tự xét lấy mình. Anh ta luôn cho rằng mình xứng đáng ngồi lên ngôi báu như một ông vua.

Thậm chí nếu có là thế đi chăng nữa thì trước tiên anh ta cũng phải chứng minh được anh ta đã làm tròn bổn phận trong địa vị của mình, rồi sau đó những bổn phận cao cả hơn sẽ đến với anh ta.

Khi chúng ta bắt đầu hăng hái làm việc trong thế gian này thì thiên nhiên giáng cho ta những cú đấm bên phải và bên trái để giúp ta sớm tìm ra vị trí đích thực của mình. Không một ai có thể giữ được lâu dài một cách thỏa đáng địa vị không thích hợp với mình.

Có càu nhàu oán trách sự điều tiết của thiên nhiên cũng chẳng ích gì. Người làm công việc thấp hèn không phải vì thế mà thành người thấp hèn. Không nên đánh giá người khác chỉ dựa vào bản chất của những bổn phận của họ, mà phải đánh giá theo cách thức và tinh thần của họ lúc thực hiện những bổn phận đó.

Sau đây, chúng ta sẽ thấy rằng ngay cả quan niệm bổn phận này cũng chịu sự biến đổi, và chỉ có công việc nào được thực hiện mà không vì một động cơ vị kỷ nào thúc đẩy mới là công việc vĩ đại nhất. Tuy nhiên, chính việc làm vì bổn phận mới dẫn chúng ta đến với việc làm không có ý tưởng nào về bổn phận.

Do đó, công việc biến thành sự sùng bái – đúng hơn là một cái gì đó cao cả hơn, rồi công việc sẽ được thực hiện chỉ vì chính công việc.

Chúng ta sẽ thấy rằng triết lý về bổn phận – dù dưới hình thức luân lý hay tình yêu – cũng đều giống nhau, như trong mọi pháp môn yoga khác, đó là giảm trừ bản ngã thấp kém để cho Đại Ngã cao siêu hơn được tỏa sáng rực rỡ, và giảm bớt sự tiêu hao năng lượng trên bình diện tồn tại thấp kém để linh hồn tự thân hiển lộ trên những bình diện tồn tại cao hơn.

Điều này được thành tựu bằng cách liên tục buông xả những dục vọng thấp hèn, điều mà bổn phận yêu cầu một cách nghiêm túc. Dù có ý thức được hay không thì toàn bộ tổ chức xã hội vẫn phát triển như thế trong các lĩnh vực hoạt động và kinh nghiệm.

Bằng cách tiết chế tính vị kỷ, ta mở ra phương trời cho chân tính của con người được phát triển đến vô biên. Bổn phận ít khi được ngọt ngào, êm thắm. Chỉ khi tình yêu bôi mỡ cho các bánh xe thì cỗ máy bổn phận mới chạy trơn tru được, nếu không thì ma sát liên tục.

Nếu không thế thì làm thế nào để cha mẹ có thể thể hiện được bổn phận với con cái, chồng thể hiện được bổn phận với vợ, và ngược lại? Há chúng ta chẳng gặp những trường hợp ma sát trong đời sống hàng ngày hay sao? Bổn phận chỉ trở nên ngọt ngào là nhờ tình yêu, và tình yêu chỉ tỏa sáng trong tự do.

Nhưng làm nô lệ cho các giác quan, cho sự giận dữ, ghen tỵ cùng hàng trăm thứ tủn mủn vụn vặt khác diễn ra trong đời sống hàng ngày, đó có phải là tự do không? Trong tất cả những điều thô lỗ, cộc cằn nhỏ nhoi mà chúng ta gặp phải trong đời thì biểu hiện cao nhất của tự do là lòng khoan dung.

Phụ nữ – những người làm nô lệ cho thói đồng bóng dễ hờn ghen của mình – thường đổ lỗi cho các ông chồng và khẳng định “sự tự do” của họ theo cách họ nghĩ, mà không biết rằng làm như thế chỉ chứng minh rằng họ là nô lệ. Đối với các ông chồng suốt đời tìm lỗi của vợ cũng thế.

Trong sạch là đức hạnh đầu tiên của nam lẫn nữ, người đàn ông nào đã đi sai đường mà một người vợ đức hạnh dịu dàng lại không có cách nào đưa anh ta về lại với con đường chính thì điều đó rất hiếm có. Cõi đời này chưa đến nổi tệ hại như vậy.

Chúng ta nghe nói nhiều về những người chồng vũ phu trên khắp thế giới này, và thói trăng hoa của đàn ông, nhưng có thật là hoàn toàn không có nhiều phụ nữ thô bạo và có thói trăng hoa như đàn ông chăng?

Nếu người nào tin rằng tất cả phụ nữ đều tốt đẹp và trong sạch, như lời họ thường xuyên khẳng định, thì tôi sẽ hoàn toàn hài lòng là sẽ không có một người đàn ông lăng nhăng nào trên thế gian này.

Có sự thô bạo cộc cằn nào mà đức hạnh đoan trang không chinh phục nổi không?

Người vợ đoan trang, đức hạnh nào nghĩ đến mọi người đàn ông – trừ chồng mình – như là con mình, và giữ thái độ của một người mẹ hiền đối với con cái, thì người đó sẽ phát triển năng lực thanh khiết đến mức không một người đàn ông nào, cho dù thô lỗ đến mấy, lại không hít thở được bầu không khi thiêng liêng trước mặt nàng.

Tương tự như vậy, mọi ông chồng phải xem những người phụ nữ – trừ vợ mình – như là mẹ, chị gái, em gái hoặc con gái mình. Hơn nữa, người đàn ông nào muốn trở thành bậc đạo sư thì phải xem mọi phụ nữ như là mẹ mình, và phải luôn luôn cư xử với họ theo cách đó.

Địa vị của người mẹ là địa vị tối cao trong thế gian, bởi vì đó là nơi duy nhất để học hỏi và thực hành lòng vị tha vĩ đại nhất. Chỉ có tình thương của Thượng Đế là tình thương duy nhất cao hơn tình mẫu tử; còn mọi tình thương khác đều thấp hơn.

Bổn phận của người mẹ là phải nghĩ đến con cái trước rồi sau đó mới nghĩ đến bản thân mình.

Nhưng thay vì thế, nếu cha mẹ cứ luôn luôn nghĩ đến bản thân họ trước thì hậu quả là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái sẽ giống như mối quan hệ giữa chim mẹ và chim con; những con chim con, khi đã đủ lông cánh để bay, sẽ không còn biết đến cha mẹ nữa.

Thật hạnh phúc thay cho những đàn ông nào có thể xem phụ nữ là biểu tượng của Mẹ Thượng Đế. Thật hạnh phúc thay cho những phụ nữ nào có thể xem đàn ông là biểu tượng của Cha Thượng Đế.

Thật hạnh phúc thay cho những người con nào xem cha mẹ là Thần Linh hiện thân trên thế gian này. Phương thức duy nhất để hướng thượng là làm tròn bổn phận gần ta, rồi cứ thế mà tích lũy dần sức mạnh cho đến khi chúng ta đạt đến cảnh giới tối cao.

Có một sannyāsin trẻ tuổi nọ đi vào rừng; ở nơi đó, anh ta ngồi thiền, lễ bái và thực hành pháp môn yoga trong một thời gian khá lâu. Sau nhiều năm khổ công tu tập, ngày kia anh ta ngồi dưới một bóng cây thì có mấy chiếc lá khô rơi trên đầu.

Vị sannyāsin ngước nhìn lên thì thấy một con quạ và một con cò đang đánh nhau trên ngọn cây, điều này khiến anh ta nổi giận. Anh ta nói “Sao! Chúng bay dám ném lá khô lên đầu ta à!”.

Khi nói những lời đó, anh ta giận dữ nhìn chúng thì một tia lửa tóe ra khỏi mắt – đó là quyền năng của một hành giả yogi – và thiêu cháy hai con chim đó thành tro.

Vị sannyāsin rất đỗi vui mừng, hầu như ngây ngất trước sự phát triển quyền năng của mình: có thể thiêu cháy con quạ và con cò chỉ bằng một ánh mắt nhìn.

Sau một thời gian, anh ta phải đi vào thành phố để khất thực.

Anh ta đến trước cửa một ngôi nhà và nói: “Mẹ ơi! Hãy cho con đồ ăn”. Một giọng nói từ trong nhà vọng ra: “Đợi một chút nghe, con trai”. Vị sannyāsin trẻ tuổi nghĩ: “Con mụ đàn bà tồi tệ này, sao mụ lại dám bắt ta phải chờ chứ! Mụ chưa biết đến quyền năng của ta rồi”.

Trong khi anh ta đang suy nghĩ như thế thì giọng nói kia lại vang lên: “Này con trai, đừng suy nghĩ quá nhiều về bản thân mình. Ở đây chẳng có con quạ hay con cò nào đâu”.

Vị sannyāsin rất đỗi kinh ngạc. Anh ta vẫn phải tiếp tục chờ.

Cuối cùng, một người phụ nữ bước ra, anh ta quỳ xuống dưới chân bà và nói: – Thưa mẹ, sao mẹ lại biết chuyện đó? Bà ta bảo: – Này con, ta chẳng biết gì về pháp môn yoga của con hay sự tu luyện của con.

Ta chỉ mà một phụ nữ bình thường làm công việc hằng ngày. Ta bắt con đợi vì chồng ta đang bệnh, và ta đang chăm sóc cho ông. Suốt một đời, ta chỉ cố gắng làm tròn bổn phận của mình.

Khi còn con gái, ta lo làm tròn bổn phận của người con đối với cha mẹ; giờ đây, khi đã lập gia đình, ta lo làm tròn bổn phận của người vợ đối với chồng; đó là pháp môn yoga mà ta thực hành.

Nhưng nhờ làm tròn bổn phận của mình mà ta được khai ngộ, nhờ vậy ta mới có thể đọc được tư tưởng của con và biết con đã làm gì trong rừng.

Nếu con muốn biết đến điều gì cao siêu hơn nữa hơn thì hãy đi đến ngôi chợ của thành phố nọ, tại đó con sẽ gặp một người vyadha, người này sẽ cho con biết một đôi điều mà con sẽ rất vui mừng khi học được.

Vị sannyāsin đó nghĩ: – Tại sao ta lại phải đến thành phố đó để gặp người vyadha kia chứ? Nhưng sau những gì đã chứng kiến, tâm trí anh ta được mở mang đôi chút, bởi vậy anh ta lên đường.

Khi đến thành phố nọ, anh ta thấy một khu chợ, và tại nơi đó, ở từ xa anh ta nhìn thấy một người vyadha to béo đang cầm con dao lớn chặt thịt, miệng thì trò chuyện và mặc cả với nhiều người khác nhau.

Chàng trai trẻ nhủ thầm: “Xin Thượng Đế hãy giúp con! Đây là người mà con sắp phải học hỏi hay sao? Nếu như y là một cái gì đó thì cái gì đó chỉ là hóa thân của quỷ sứ.”

Trong lúc đó, người kia ngước lên nhìn và nói: “Ồ! này đại sư, có phải vị phu nhân đó gởi ngài đến đây chăng? Hãy ngồi tạm ở đây, chờ tôi làm xong công việc đã.” Vị sannyāsin kia thầm nghĩ: “Chuyện gì xảy đến cho mình đây?”. Anh ta ngồi chờ và người kia vẫn tiếp tục công việc của mình.

Sau khi đã tính toán tiền nong xong xuôi, ông bảo vị sannyāsin: “Xin mời ngài về nhà tôi”. Khi về đến nhà, vị vyadha kia đưa một cái ghế và bảo: “Nào, xin ngồi ở đây”, rồi đi vào nhà trong.

Ông ta tắm rửa cho cha mẹ già yếu, cho họ ăn uống, và làm đủ mọi thứ để hai vị vui lòng, sau đó mới quay ra bảo vị sannyāsin: “Thưa ngài, ngài đã đến đây thăm tôi, tôi có thể giúp được gì cho ngài?”.

Vị sannyāsin hỏi ông một số câu hỏi về linh hồn và Thượng Đế, và người vyadha kia thuyết giảng cho anh ta nghe, và bài thuyết giảng đó tạo thành một bộ phận trong bộ sử thi Mahābhārata, với tên là Vyādha Gitā.

Đó là một trong các bài giảng chứa những tư tưởng bay bổng, cao siêu nhất của triết học Vedānta. Khi vị vyadha giảng xong, vị sannyāsin kia sửng sốt mà bảo: – Sao ngài lại ở trong thể xác này.

Với trí tuệ đó, vì sao ngài ở trong thể xác của một vyadha để làm những công việc nhơ bẩn, gớm guốc như vậy? Vị vyadha kia bảo: – Này con, không có bổn phận nào là nhơ bẩn, gớm guốc cả, không một bổn phận nào là ô uế, bất tịnh cả. Xuất thân của ta đã đặt ta vào tình huống này, hoàn cảnh này.

Từ bé ta đã học buôn bán. Ta ung dung tự tại, không hề bị ràng buộc, và ta cố làm tròn bổn phận của mình. Ta làm tròn bổn phận của một người chủ gia đình, và cố gắng hết sức mình để làm cha mẹ ta được hạnh phúc.

Ta không hề biết đến pháp môn yoga nào, cũng chẳng muốn làm một sannyāsin; ta không lìa bỏ thế gian để vào sống trong rừng; tất cả những gì con đã nghe, đã thấy đều đến với tâm ta từ sự thực hành những bổn phận thuộc về mình với tinh thần vô luyến.

Ở Ấn Độ có một vị hiền triết, một hành giả yogi vĩ đại, một trong những người tuyệt diệu nhất mà tôi từng gặp trong đời[3]. Đó là một người đặc biệt, ông không hề giảng dạy cho bất kỳ ai; nếu các bạn đặt câu hỏi, ông sẽ không trả lời.

Đảm nhận vai trò một đạo sư là một điều quá sức đối với ông, ông không làm điều đó. Nếu các bạn đặt câu hỏi thì hãy chờ đợi vài ngày, rồi trong lúc đang trò chuyện, ông sẽ nêu lại vấn đề và soi chiếu lên nó một làn ánh sáng diệu kỳ.

Có lần, ông bảo với tôi về bí quyết làm việc: “Hãy để cứu cánh và phương tiện hợp nhất thành một”. Khi các bạn làm bất cứ việc gì thì đừng nghĩ đến chuyện gì ngoài nó. Hãy làm việc như đang sùng bái, như đang thực hành một nghi lễ sùng bái tối cao, và tận hiến toàn bộ đời mình cho nó ngay trong lúc ấy.

Bởi vậy, trong câu chuyện trên đây, vị vyadha và người đàn bà toàn tâm toàn ý làm bổn phận mình với sự hoan hỷ, và kết quả là họ chứng ngộ; điều đó chứng minh rõ ràng rằng thực hành đúng đắn bổn phận của mình tại bất kỳ hoàn cảnh nào trong cuộc sống sẽ dẫn chúng ta đến cảnh giới thực chứng tối cao về sự toàn mỹ của linh hồn.

[Ghi chú của người dịch: Trên mạng có một câu chuyện được kể lại của tác giả Huệ Khải. Ngắn nhưng vô cùng thâm thúy, ý nghĩa tương tự như đoạn văn trên đây của đạo sư Vivekananda, cho thấy đâu cũng có thể là cảnh giới thị hiện của Bồ Tát, để tùy duyên hóa độ chúng sinh.

Do phần này khá dài, không đưa được vào phần ghi chú, nên người dịch xin ghi lại đây để bạn đọc tham khảo thêm.

Nội dung câu chuyện như sau: Có thầy tu nọ rất mực thánh thiện. Sau nhiều năm dài tu hành tinh tấn, chuyên chú kinh kệ không một phút giây xao lãng, thầy thấy mình đã bước vào được cảnh giới tâm linh viên mãn. Một đêm khuya nọ, sau khi xả thiền, thầy đi ngủ và nằm mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng.

Tất cả mọi người đều sắp theo thứ tự ngôi thứ trên bàn tiệc. Thầy được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú. Điều này khiến thầy băn khoăn không hiểu công phu đạo hạnh của người chủ tiệm đó cao đến mức nào.

Sáng hôm sau, thầy liền tìm tới tiệm tạp hóa, tìm một chỗ khuất và kín đáo quan sát rất lâu. Thầy thấy tiệm không lớn lắm, nhưng không lúc nào ngớt khách. Chủ tiệm cũng chẳng có gì đặc biệt, luôn tay bán hàng, thu tiền, thối tiền, mà vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã.

Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: – Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay.

Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá, cũng đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Xong rồi, tôi sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.” Thầy chăm chú chiết dầu vừa xong thì đúng lúc cửa hàng ngớt khách.

Chủ tiệm lúc này cũng nghỉ tay bán hàng, liền bước tới hỏi thầy: – Nãy giờ lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không? Thầy bẽn lẽn: – Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi.

Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật, Trời!” Chủ tiệm cười hiền lành, bảo: – Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy.

Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời, nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách, tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non, đong thiếu. Khi phục vụ khách hàng, tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị.

Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy!” Chấm dứt phần ghi chú của người dịch]

Chỉ những người làm việc mà bị trói buộc vào công việc mới càu nhàu, than vãn về bản chất của bổn phận mà số phận họ phải gánh lấy; còn đối với những người làm việc mà cứ ung dung tự tại, không bị trói buộc vào công việc thì bổn phận nào cũng đều tốt đẹp như nhau, cũng đều tạo thành những khí cụ hữu hiệu để giết chết thói vị kỷ cùng tham dục, và đạt đến cảnh giới giải thoát cho linh hồn.

Chúng ta thường đánh giá bản thân mình quá cao. Bổn phận của chúng ta được xác định bởi công trạng của chúng ta, theo một mức độ lớn hơn rất nhiều những gì ta muốn công nhận. Tranh đua chỉ làm phát sinh sự ganh tỵ, và giết chết lòng nhân ái của tâm hồn.

Đối với kẻ ưa càu nhàu, than vãn thì bổn phận nào cũng khó chịu, không có gì làm thỏa mãn được anh ta, và số phận của trọn cuộc đời anh ta là minh chứng cho sự thất bại.

Chúng ta hãy tiếp tục làm việc, thực hành trọn vẹn tất cả những gì được xem là bổn phận của mình, và luôn sẵn sàng vác trách nhiệm lên vai. Rồi chắc chắn chúng ta sẽ thấy được Ánh Sáng!

[1] Trương Trào, trong tác phẩm U mộng ảnh, cũng có câu nói tương tự: “Thế nào là người tốt? Không làm hại đời là người tốt. Thế là người xấu? Làm hại cho đời là người xấu”.(何 謂 善 人 ? 無 損 於 世 者, 則 謂 之 善 人。 何 謂 惡 人 ? 有 害 于 世 者, 則 謂 之 惡 人。Hà vị thiện nhân? Vô tổn ư thế giả, tắc vị chi thiện nhân. Hà vị ác nhân? Hữu hại ư thế giả, tắc vị chi ác nhân.)

[2] Tức nước Mỹ.

[3] Ám chỉ Pavhari Baba, người mà đại sư Vivekananda biết rất rõ [Ghi chú trong nguyên tác].

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x