Trang chủ » Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại

Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại

by Hậu Học Văn
198 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Hai năm đầu đời sẽ có ảnh hưởng tới suốt cả cuộc đời mỗi con người. Trẻ nhỏ có tiềm năng tâm lí vô cùng lớn, và chúng ta vẫn chưa dành cho tiềm năng này của trẻ sự tôn trọng đúng mức. Trẻ cực kì nhạy cảm, chỉ một hành động hơi thô lỗ cũng đủ ảnh hưởng tới tâm lí của trẻ, thậm chí ảnh hưởng tới cả cuộc đời trẻ sau này.

Tôi cho rằng, việc nói rõ hình thái điển hình của năng lực nhận thức sẵn có trong tâm lí của trẻ sẽ có ích cho việc miêu tả lĩnh vực năng lực của trẻ. Chúng ta sẽ tiến hành phân tích bộ não của trẻ tương tự như việc phân tích tâm lí. Hình 8 (ở chương sau) sẽ mô tả sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thông qua các kí hiệu, điều này sẽ giúp làm rõ quan điểm của chúng ta.

Hình tam giác đen đại diện cho danh từ (tên của sự vật), các hình tròn đen đại diện cho động từ. Các kí hiệu khác nhau sẽ đại diện cho các loại từ khác nhau trong hình 8. Giả sử độ tuổi của trẻ có thể sử dụng 200–300 từ, cách sử dụng hình vẽ này sẽ khiến chúng ta có cảm giác trực quan hơn. Bằng cách này, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy rõ quá trình phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Cho dù là tiếng Anh, tiếng Tamil, tiếng Gujarat, tiếng Italy hay tiếng Tây Ban Nha thì cũng đều được biểu thị bằng hệ thống kí hiệu giống nhau.

Đầu tiên bên trái hình vẽ là một số âm thanh mơ hồ, biểu thị những nỗ lực đầu tiên của trẻ trong việc học nói, bao gồm cả thán từ. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn tổ hợp hai âm thành một âm tiết, tiếp theo là giai đoạn ba âm tổ hợp thành một câu. Ở góc cuối bên phải, chúng ta có thể nhìn thấy sự tổ hợp các từ khác nhau bao gồm một số danh từ thường dùng của trẻ, sau đó là đoản ngữ do hai từ đơn tạo thành. Những đoản ngữ này mang những ý nghĩa khác nhau, mỗi đoản ngữ lại được giải thích không giống nhau. Không lâu sau đó là thời kì vốn từ vựng của trẻ tăng nhanh, trong thời kì đó, trẻ có thể sử dụng các loại từ mới. Trong biểu đồ, tôi có liệt kê ra con số mà các chuyên gia tâm lí đã ước tính.

Trước đó, chúng ta có thể nhìn thấy trong biểu đồ có một nhóm từ đơn, chúng phần lớn là do sự hợp thành của các danh từ, những từ loại bộ phận nằm gần những danh từ này được sắp xếp lẫn lộn. Nhưng giai đoạn thứ hai – khi trẻ hơn 2 tuổi, sẽ là giai đoạn các từ được tổ hợp theo trật tự nhất định. Đó chính là giai đoạn bùng nổ – trẻ sử dụng câu. Giai đoạn bùng nổ thứ nhất là giai đoạn bùng nổ về từ vựng, giai đoạn bùng nổ thứ hai là bùng nổ về tư tưởng.

Nhưng trước khi có sự bùng nổ này sẽ là một giai đoạn chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, nhưng chúng ta có thể thông qua dò đoán, giả thiết để biết được sự tồn tại của nó, bởi vì chúng ta đã được chứng kiến những nỗ lực trẻ bỏ ra hòng biểu đạt tư tưởng. Vì người lớn không hiểu những gì trẻ nói nên trong giai đoạn này, trẻ thường tỏ ra cáu gắt, giận dữ. Ở phần trước, chúng ta từng nói về điều này, luôn cáu gắt đã trở thành một phần tính cách của trẻ trong giai đoạn này. Khi đã nỗ lực bằng mọi cách mà vẫn không làm cho người lớn hiểu được lời nói của mình, trẻ chắc chắn sẽ rất giận dữ. Chúng ta biết rằng, người điếc rất hay cãi nhau với người khác, đó chính là vì người khác không nghe hiểu được lời nói của họ. Rất nhiều tiềm năng bên trong con người trẻ đang chờ được phát huy, mỗi đứa trẻ bình thường chắc chắn sẽ tìm được con đường phát huy hết những tiềm năng đó, nhưng để làm được như vậy cũng đòi hỏi sự nỗ lực vô cùng lớn.

Đây là một thời kì đầy khó khăn đối với trẻ. Những trở ngại mà trẻ gặp phải đều do sự hạn chế của môi trường và năng lực của bản thân mang lại. Đây là thời kì gặp khó khăn khi thích ứng với môi trường thứ hai mà trẻ gặp trong cuộc đời. Thời kì khó khăn thứ nhất chính là khi trẻ vừa chào đời, lúc đó trẻ phải tự hoàn thiện khả năng vận động bình thường của bản thân chứ không còn lệ thuộc vào tử cung của người mẹ nữa. Quá trình đó giống như là một cú sốc với trẻ, nếu người lớn không kịp thời chăm sóc và thấu hiểu, trẻ sẽ bị tổn thương về tâm lí và xuất hiện hiện tượng muốn quay về tử cung của mẹ. Một số trẻ có môi trường sống cực kì lí tưởng và tạo nền tảng tốt cho sự phát triển bình thường của chúng. Tình trạng này có hai đặc điểm khác nhau. Học ngôn ngữ là một quá trình gian nan hướng tới sự độc lập nhưng cũng đồng thời phải đối diện với nguy cơ suy thoái.

Độc giả chắc hẳn vẫn còn nhớ, giai đoạn sáng tạo này còn có một đặc trưng khác. Đó chính là bộ não trong thời kì này chịu hai ảnh hưởng khác nhau. Những tác dụng tâm lí mà ảnh hưởng này mang lại sẽ tồn tại lâu dài trong đại não của trẻ. Trong phương diện phát âm khẩu ngữ và ngữ pháp có hai tình trạng, đó là trẻ trong thời kì này đồng thời với việc ghi nhớ những gì đã học thì cũng ghi nhớ những chướng ngại đã mang lại cho chúng những ảnh hưởng không tốt. Mỗi giai đoạn trong hoạt động mang tính sáng tạo đều có tính hai mặt, thật khó để tính toán hậu quả của những ảnh hưởng xấu này, bởi vì phản ứng của trẻ với những chướng ngại cũng giống như với những ảnh hưởng tốt – đều là sự tiếp thu. Vì vậy sự phát triển nhân cách trong giai đoạn này có thể là bình thường, cũng có thể là bất thường, hơn nữa còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới những giai đoạn phát triển về sau của trẻ.

Khả năng đi đứng và nói chuyện đều được hình thành trong thời kì này. Cho tới khi trẻ được hai tuổi rưỡi thì tốc độ phát triển dần dần chậm lại. Trong quá trình những khả năng này tiếp tục phát triển thì vì những nguyên nhân tương tự mà gặp phải rất nhiều khó khăn và chướng ngại. Điều này có nét tương đồng với những gì mà thuyết phân tâm học đã chỉ ra: “Chúng ta thường tìm thấy đáp án cho những chướng ngại tâm lí của người trưởng thành trong những năm tháng thơ ấu”.

Những khó khăn đi đôi với sự phát triển thuộc về phạm vi “ức chế”. Từ “ức chế” thường được dùng trong tâm lí học, cũng có quan hệ đặc biệt với phân tâm học. Thứ mà chúng ta gọi là “ức chế” được hình thành trong thời kì thơ ấu. Mặc dù ngôn ngữ phần lớn sử dụng trong lĩnh vực hoạt động của con người, nhưng nó cũng có thể cung cấp cho chúng ta rất nhiều ví dụ về vấn đề này. Vào thời kì ngôn ngữ bắt đầu “bùng nổ”, trẻ em phải tiến hành sử dụng ngôn ngữ, bởi vì ngay sau đó, trẻ sẽ dùng những câu có hình thái ngữ pháp thích hợp để biểu đạt tư tưởng của mình. Lí luận giáo dục hiện đại rất coi trọng việc tự do biểu đạt, điều này có lợi cho việc cơ chế ngôn ngữ nhanh chóng được đưa vào sử dụng, cũng có ích cho sự phát triển trong tương lai của mỗi cá thể. Có rất nhiều trẻ em sau khi đã đạt đến một độ tuổi nhất định vẫn chưa xuất hiện thời kì bùng nổ ngôn ngữ. Ví dụ, có một số trẻ đã 3 tuổi hoặc ba tuổi rưỡi mà vẫn chỉ biết nói một vài từ mà những đứa trẻ ít tuổi hơn đã có thể nói, trong khi các cơ quan phát âm của trẻ phát triển hoàn toàn bình thường. Chúng ta gọi đó là “chứng câm tâm lí”, điều này xảy ra hoàn toàn do nguyên nhân tâm lí, là một dạng bệnh tâm lí.

Đồng thời, phân tâm học (đã trở thành một phần của y học hiện đại) còn tiến hành nghiên cứu về những loại chướng ngại tâm lí khác. Trạng thái trì trệ này có lúc sẽ đột ngột biến mất. Trẻ đột nhiên bắt đầu biết nói, hơn nữa còn dùng từ và cấu trúc ngữ pháp rất chính xác. Rõ ràng là bên trong con người trẻ đã có sự chuẩn bị đầy đủ, chẳng qua là quá trình biểu hiện bên ngoài gặp phải một chút trở ngại mà thôi.

Ở trường của chúng tôi, có một số trẻ 3–4 tuổi vẫn chưa biết nói. Kể cả những ngôn ngữ bập bẹ của trẻ 2 tuổi chúng cũng không phát ra được. Nhưng vì chúng tôi đã tạo cho những đứa trẻ này một môi trường đủ tự do và khích lệ nên chúng đột nhiên bắt đầu có thể nói được. Vì sao lại thế? Là vì những đứa trẻ này đã bị tổn thương hoặc gặp một trở ngại tâm lí nào đó, vì thế chúng không thể biểu đạt ra những ngôn ngữ mà mình đã học được.

Khá nhiều người trưởng thành cũng cảm thấy nói là một việc rất khó khăn, họ phải tốn rất nhiều công sức chỉ để nói điều gì đó. Chúng ta thường gặp những loại khó khăn dưới đây:

  1. Thiếu dũng khí khi nói chuyện;
  2. Thiếu khả năng sắp xếp câu;
  3. Cảm thấy khó khăn trong việc sử dụng câu;
  4. Nói quá chậm hoặc ngắt quãng.

Hiện nay vẫn chưa có biện pháp giải quyết được những khó khăn này, chúng là một hình thức của tâm lí tự ti và sẽ theo suốt cuộc đời những người đó.

Còn có những rối loạn tâm lí khác ảnh hưởng đến khả năng biểu đạt rõ ràng, ví dụ như nói lắp hoặc phát âm không chuẩn. Những rối loạn này được hình thành trong giai đoạn hình thành cơ chế ngôn ngữ, vì vậy chúng ta có thể biết rõ rằng, mỗi giai đoạn học tập ngôn ngữ đều có những hình thái thoái hóa khác nhau:

Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành của cơ chế từ vựng.

Tình trạng thoái hóa tương ứng: Phát âm không chuẩn, nói lắp.

Giai đoạn 2: Giai đoạn hình thành cơ chế câu (biểu đạt tư tưởng).

Tình trạng thoái hóa tương ứng: Hình thành kết cấu câu chậm.

Những hình thức thoái hóa này có liên quan với sự nhận biết của trẻ, trẻ dễ dàng chấp nhận những thứ có mục đích sáng tạo và nâng cao năng lực của bản thân. Kết quả của việc ngăn cản tính sáng tạo của trẻ là những trở ngại này sẽ đeo bám suốt quãng đời còn lại của trẻ. Vì vậy chúng ta cần nhớ rằng, cảm giác của trẻ là vô cùng quan trọng.

Chính người lớn chúng ta thường ngăn cản trẻ và là thủ phạm của sự phát triển bất thường ở trẻ. Vì vậy, những hành động của người lớn với trẻ cần vô cùng ân cần, nhẹ nhàng, nhưng chúng ta lại thường không chú ý tới việc những hành động của mình quá thô bạo. Chúng ta cần chú ý tới điểm này nhiều hơn. Để giáo dục được trẻ, trước hết chúng ta phải giáo dục chính mình, đào tạo nhà giáo dục tốt còn quan trọng hơn việc học tập lí luận giáo dục, và việc này bao gồm cả giáo dục nhân cách… Trẻ nhỏ có đủ loại cảm giác, nhưng những tổn thương mà những cảm giác này gặp phải đều giống nhau. Trẻ nhỏ rất dễ bị tổn thương! Chúng rất nhạy cảm với biểu hiện lạnh nhạt của người lớn. “Con hãy nhớ những lời mẹ dặn!” Những người mẹ thường xuyên giao con mình cho bảo mẫu chăm sóc thì càng nên chú ý tới những lời lẽ lạnh nhạt, mang tính mệnh lệnh của bảo mẫu. Những người thuộc tầng lớp trên đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi những lời nói đó, cho dù có bao nhiêu sức lực đi nữa thì khi nói, trẻ cũng vẫn dễ trở nên nhút nhát, do dự, thậm chí là nói lắp.

Bản thân tôi cũng từng rất nghiêm khắc với trẻ. Trong một cuốn sách khác mang tên Bí mật tuổi thơ, tôi đã từng đưa ra ví dụ này. Một cậu bé thường xuyên giẫm đôi giày bẩn thỉu của cậu lên tấm ga trải giường xinh đẹp, tôi đã cởi giày cho cậu với thái độ kiên quyết và sau đó phủi sạch tấm ga giường nhằm cho cậu biết rằng, đó không phải là chỗ có thể bỏ giày lên. Trong suốt 2–3 tháng sau, mỗi khi nhìn thấy giày, cậu bé đều vội vã cất ra chỗ khác, sau đó đưa mắt liếc nhìn ga trải giường hay thảm. Nói cách khác là, bọn trẻ không phản ứng lại với cách làm của tôi bằng thái độ nổi loạn. Chúng không dám nói: “Đừng đối xử với cháu như vậy, cháu thích để giày ở đâu thì sẽ để ở đó”. Hành vi bất thường của trẻ là phản ứng đối với phương pháp sai lầm của tôi. Phản ứng của trẻ phần lớn không có tính nổi loạn. Nếu chúng nổi cáu trước sự việc này thì mọi chuyện sẽ tốt hơn một chút, bởi vì sự giận dữ của trẻ cho thấy trẻ có khả năng tự bảo vệ bản thân và sự phát triển của trẻ sẽ diễn ra bình thường. Nhưng nếu trẻ thay đổi tính cách hoặc có những hành vi bất thường nhằm tìm kiếm sự bảo vệ, thì có thể khi đó tinh thần trẻ đã bị tổn thương nghiêm trọng. Người lớn thường không chú ý đến điều này, họ cho rằng, nếu trẻ không nổi cáu thì chẳng có gì mà phải lo lắng.

Một biểu hiện bất thường khác ở người trưởng thành chính là nỗi sợ hãi không có nguyên nhân. Tình trạng này có thể là do họ phải sống trong môi trường bạo lực thời thơ ấu. Có thể là do động vật, ví dụ như mèo, chim… Cũng có thể do trẻ đã từng bị nhốt ở trong phòng. Cho dù là giải thích hay thuyết phục thì cũng đều không thể hóa giải nỗi sợ hãi của những người này. Y học đặt tên cho tình trạng này là “chứng ám ảnh”. Một số nỗi sợ hãi rất thường gặp nhưng lại có cái tên rất đặc biệt, ví dụ như Claustrophobia – Chứng sợ nơi chật hẹp (nỗi sợ bị nhốt trong phòng hoặc phải ở một mình).

Trong y học còn có rất nhiều minh chứng trên các phương diện khác. Tôi nhắc đến những điều này chủ yếu là để chứng minh hình thức tâm lí của trẻ ở độ tuổi này, đồng thời nói với độc giả rằng, mỗi hành vi của chúng ta đều ảnh hưởng đến trẻ, đó không chỉ là ảnh hưởng ở hiện tại mà còn ảnh hưởng tới tương lai của trẻ.

Chúng ta nhất định phải tìm hiểu suy nghĩ của trẻ thông qua quan sát và phát hiện, cần nghiên cứu trẻ giống như các nhà phân tâm học tiến hành nghiên cứu người trưởng thành. Đó không phải là một việc dễ dàng, bởi vì hiểu được những lời của trẻ nhỏ là việc rất khó, dường như người lớn không thể nào hiểu được rõ ràng những suy nghĩ mà trẻ muốn biểu đạt. Nhiều lúc nếu muốn hiểu được một cách tổng thể, ít nhất người lớn cần hiểu được những chuyện đang diễn ra, sau đó giúp đỡ trẻ giải quyết những khó khăn mà chúng đang phải đối mặt. Giá mà giữa chúng ta và trẻ có một phiên dịch viên thì tốt biết mấy! Bản thân tôi đang cố gắng tìm hiểu những tư tưởng mà trẻ muốn biểu đạt, tự mình đóng vai trò là người phiên dịch đó. Tôi kinh ngạc phát hiện ra rằng, mỗi khi tôi cố gắng hiểu được suy nghĩ của trẻ, bọn trẻ sẽ quay sang cầu cứu tôi, như thể tôi có thể giúp đỡ chúng.

Trẻ tỏ ra yêu thích những người có thể giúp đỡ chúng hơn là những người hay vuốt ve chúng. Trẻ đặt niềm hi vọng lên người “phiên dịch” này, bởi vì chỉ có họ mới giúp chúng mở rộng cánh cửa đến với thế giới. Việc chúng yêu quý người giúp đỡ chúng hơn là những người vuốt ve chúng cho thấy, đối với trẻ nhỏ, sự giúp đỡ là món quà đáng quý hơn cả tình yêu thương.

Tôi có thói quen dậy sớm làm việc. Một buổi sáng nọ, một cậu bé chưa đầy 1 tuổi rưỡi tìm đến phòng của tôi. Tôi âu yếm hỏi cậu muốn ăn gì không, cậu trả lời: “Sâu”. Tôi cảm thấy rất kinh ngạc. Khi thấy tôi tỏ ra không hiểu ý của mình, cậu bé liền nói thêm một từ: “Trứng”. Tôi nghĩ không phải cậu bé muốn ăn những thứ đó, vậy rốt cuộc là cậu bé muốn gì? Cậu bé nói tiếp: “Nina, trứng, sâu.” Tôi đột nhiên vỡ lẽ (việc lí giải lời nói của trẻ quan trọng như vậy đấy), ngày hôm trước, Nina – chị của cậu bé đã dùng bút màu vẽ một vòng tròn như quả trứng. Cậu bé cũng muốn có chiếc bút đó, chị của cậu không đồng ý và đã đưa cậu ra chỗ khác. Giờ thì chúng ta đã biết được suy nghĩ của cậu bé, cậu không chống lại chị gái mình mà kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Sau khi tôi cho cậu một chiếc bút màu, cậu lập tức trở nên vui vẻ. Nhưng nếu không có sự giúp đỡ của tôi thì cậu không thể vẽ được hình tròn mà bắt đầu vẽ những đường lượn sóng. Trong khi chị của cậu dùng những nét thẳng thì cậu lại có ý tưởng hay hơn là dùng những nét vẽ lượn sóng giống như một con sâu. Cậu bé đã đợi đến khi những người khác đã ngủ say, chỉ còn người có thể hiểu cậu vẫn chưa ngủ để tìm đến nhờ giúp đỡ, đồng thời tin chắc rằng người này có thể giúp mình.

Kiên nhẫn cũng là một đặc điểm của trẻ trong độ tuổi này. Trẻ biết kiên nhẫn chờ đợi, chỉ khi không thể tìm cách biểu đạt chính xác suy nghĩ của mình, gặp phải trở ngại thì trẻ mới trở nên cáu giận. Ví dụ trên cho thấy, trẻ cố gắng học hỏi từ những đứa trẻ lớn hơn. Nếu thấy một đứa trẻ 3 tuổi làm một việc gì đó thì một đứa trẻ 1 tuổi rưỡi cũng sẽ muốn làm theo. Cho dù đó là một việc rất khó thì trẻ cũng sẽ cố gắng làm cho bằng được.

Một cậu bé ở nơi tôi sinh sống bắt chước nhảy múa giống như cô chị 3 tuổi của mình. Cô giáo của cô bé đó nói với chúng tôi: “Tôi làm sao dạy đứa bé này nhảy múa được?” Chúng tôi trả lời rằng, đừng lo lắng về việc trẻ học được bao nhiêu, hãy cứ cố gắng dạy thôi. Sau khi hiểu được ý của chúng tôi, cô giáo đã đồng ý. Đột nhiên, cậu bé một tuổi rưỡi đó chạy đến và hét to: “Cháu cũng muốn!”

Do chúng tôi đề nghị nên cô giáo đã thực hiện các động tác múa, đồng thời không ngừng nhấn mạnh rằng dạy một đứa trẻ còn nhỏ như vậy là điều không thể. Chúng tôi đã khuyên nhủ cô nên hạ thấp yêu cầu xuống. Khi cô bắt đầu biểu diễn, cậu bé nọ đột nhiên tỏ ra rất tức giận và đứng bất động tại chỗ. Cô giáo cho rằng đó chính là việc mà mình đã sớm lường trước, rằng cậu bé vốn không quan tâm đến việc nhảy múa đó. Thực ra nguyên nhân cơn giận dữ của cậu xuất phát từ việc chiếc mũ của cô giáo đặt trên ghế sofa. Cậu không nói hai từ “mũ” và “cô giáo” mà lại bực bội nhắc đi nhắc lại hai từ “sảnh” và “cột”. Ý của cậu là: Không được đặt chiếc mũ ở đây mà nên treo nó ở giá ngoài sảnh. Cậu bé quên hết cảm hứng với việc học nhảy, dường như chỉ muốn thay đổi những việc không hợp lí, không đúng trật tự ở trước mắt. Sau khi chiếc mũ đã được treo đúng chỗ, cậu bé đã bình tĩnh trở lại và bắt đầu chuẩn bị nhảy múa. Yêu cầu cơ bản của trẻ về trật tự mãnh liệt hơn nhiều so với yêu cầu trên các phương diện khác.

Qua những nghiên cứu về cách dùng từ ngữ và cảm giác của trẻ, chúng ta có thể phát hiện rất nhiều điều trong sâu thẳm nội tâm của trẻ mà các chuyên gia tâm lí chưa phát hiện ra.

Ví dụ thứ nhất về tính kiên nhẫn và ví dụ thứ hai có liên quan đến tính trật tự của trẻ đã khiến chúng tôi cảm thấy rất thú vị. Còn có một ví dụ khác về việc “trẻ không đồng ý với cách nhìn nhận của người nói”. Chúng tôi phát hiện rằng, ngoài những tình trạng đã được liệt kê trong hình 7, còn có rất nhiều điều chúng ta chưa hiểu hết về tâm lí của trẻ.

Tất cả những phát hiện về trẻ ở độ tuổi này đều cần được công bố rộng rãi, bởi chúng có thể giúp ích cho quá trình thích ứng với môi trường của trẻ. Có thể những công việc này có phần phức tạp, nhưng nó có ý nghĩa quan trọng đối với loài người. Trợ giúp trẻ sơ sinh trong giai đoạn đầu đời là một công việc mang nhiều ý nghĩa. Có thể nói, đó là một việc làm có tính chất khai phá cho sự phát triển của khoa học trong tương lai, việc nghiên cứu sự phát triển tâm lí và hình thành nhân cách cũng phụ thuộc vào công việc này. Tôi cho rằng, chúng ta nên chịu trách nhiệm, nên giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách lành mạnh. Để làm được như vậy, chúng ta cần nhớ:

  1. Hai năm đầu tiên sau khi được sinh ra sẽ có ảnh hưởng đến cả cuộc đời mỗi người;
  2. Trẻ nhỏ có tiềm năng tâm lí vô cùng lớn, chúng ta chưa dành sự quan tâm thích đáng cho điều này;
  3. Trẻ vô cùng nhạy cảm, chỉ một chút hành vi thô bạo cũng đủ ảnh hưởng xấu đến tâm lí của trẻ, thậm chí ảnh hưởng đến cả cuộc đời trẻ sau này.

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x