Trang chủ » Chương 25 – Ba giai đoạn của sự phục tùng

Chương 25 – Ba giai đoạn của sự phục tùng

by Hậu Học Văn
204 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Có người cho rằng thiên tính của trẻ là không chịu sự quản thúc, hơn nữa còn có khuynh hướng bạo lực. Cơ sở của quan điểm này là khi làm việc, trẻ thường không chịu để bị người khác quản thúc, không chịu sự quản thúc chính là biểu hiện của ý chí của trẻ. Trong khi sự thật lại khác xa với nhận định này, hành vi này không phải là “hành vi có mục đích” của trẻ.

Những tranh luận về việc bồi dưỡng tính cách thường liên quan tới hai vấn đề ý chí và phục tùng. Rất nhiều người cho rằng hai vấn đề này đối lập nhau, bởi người ta cho rằng, giáo dục chính là áp chế và khuất phục ý chí của trẻ, hoặc là dùng ý chí của giáo viên để thay thế ý chí của trẻ, đồng thời yêu cầu trẻ phục tùng vô điều kiện.

Sau đây chúng tôi sẽ làm rõ hai vấn đề này thông qua quan sát tình hình thực tế chứ không phải là ước đoán chủ quan. Điều đầu tiên tôi muốn nói rõ là, rất nhiều quan điểm trong lĩnh vực này cực kì lộn xộn. Trong chương 8, chúng ta từng biết, có một số lí luận cho rằng con người chịu ảnh hưởng của một loại sức mạnh vũ trụ to lớn (hành động có mục đích). Sức mạnh phổ biến này không phải là sức mạnh vật lí, mà là sức mạnh mà bản thân sinh vật tạo ra trong quá trình tiến hóa. Nó có thể thúc đẩy mọi sinh vật không ngừng tiến hóa, tạo ra động lực cho sự vận động của sinh vật. Nhưng sự tiến hóa không tự nhiên và ngẫu nhiên diễn ra mà chịu ảnh hưởng của các quy luật tự nhiên. Nếu sự sống của con người là hình thức biểu hiện của loại sức mạnh này, vậy thì hành vi của con người tất nhiên cũng phải chịu ảnh hưởng của nó.

Khi trẻ có thể hành động dựa vào ý chí của bản thân, loại sức mạnh này bắt đầu xâm nhập vào ý thức của trẻ. Sự ra đời và phát triển của ý chí của trẻ dựa trên cơ sở là sự tích lũy kinh nghiệm. Vì vậy ý chí không phải là thứ con người sinh ra đã có sẵn, mà nó được dần hình thành trong quá trình phát triển của con người. Do đó nó là một phần của tự nhiên, và sự phát triển của nó phải phục tùng quy luật tự nhiên.

Có người cho rằng, thiên tính của trẻ là không chịu sự quản thúc, hơn nữa còn có khuynh hướng bạo lực. Cơ sở của quan điểm này là khi làm việc, trẻ thường không chịu để bị người khác quản thúc, không chịu sự quản thúc chính là biểu hiện của ý chí của trẻ. Trong khi sự thật lại khác xa với nhận định này, hành vi này không phải là “hành vi có mục đích” của trẻ. Người lớn chúng ta không tự nhiên nổi giận, chúng ta cũng không thể nói rằng hành vi nổi giận đó là một hành vi lí trí. Trên thực tế, hành vi nói chuyện bình thường của chúng ta cũng có một mục đích nhất định, hay nói cách khác, chúng ta có một vài vấn đề cần phải giải quyết. Ngược lại, nếu chúng ta phát hiện hành vi của bản thân không phù hợp với ý muốn chủ quan, chúng ta sẽ nảy sinh mong muốn khống chế ý chí của bản thân một cách hiệu quả. Như vậy việc áp đặt ý chí của chúng ta lên trẻ cũng trở thành một việc hợp lí.

Nhưng tình hình thực tế là, ý chí chủ quan vốn không nhất định tạo ra sự lộn xộn và bạo lực. Bạo lực và hỗn loạn chỉ là một biểu hiện của sự xáo trộn về cảm xúc và đau khổ mà thôi. Bình thường, hành vi chịu sự kiểm soát của ý chí là có ích cho con người. Tạo hóa đã giao phó cho trẻ nhiệm vụ trưởng thành, vì vậy ý chí của trẻ nhất định sẽ thúc đẩy sự trưởng thành của chúng, phát triển mọi tiềm năng trong chúng.

Nếu ý chí và việc làm của trẻ là thống nhất thì có nghĩa là trẻ đã bước vào quỹ đạo phát triển có ý thức. Trẻ tự nhiên lựa chọn việc mình muốn làm, đồng thời không ngừng lặp đi lặp lai, chứng tỏ rằng trẻ đã có nhận thức nhất định về hành vi của mình. Những hành vi này ban đầu chỉ là một sự hưng phấn (hưng phấn thần kinh dẫn đến động tác), bây giờ thì đã trở thành hành vi có ý thức. Những hoạt động đầu tiên của trẻ mang tính bản năng, nhưng đến thời điểm này, chúng đã có đủ ý thức để tiến hành hoạt động, tâm lí của trẻ đã bắt đầu dần dần khai hóa.

Bản thân trẻ cũng cảm nhận được sự khác biệt này, một cậu bé đã từng bộc lộ điểm này bằng một cách mà cả đời này chúng tôi cũng không thể nào quên được. Từng có một nữ quý tộc đến thăm quan trường của chúng tôi. Do chưa hiểu được tình hình trong trường, nên nữ quý tộc này đã nói với một cậu bé: “Đây chính là ngôi trường đã quy phạm hành vi của các cháu sao?”

“Không thưa bà.” Cậu bé nói, “nơi này không quy phạm hành vi của chúng cháu, chúng cháu thích những việc mình đã làm.” Cậu bé này đã hiểu được sự khác biệt giữa bản năng và có ý thức. Bởi vì một khi con người quyết định làm một việc gì đó, việc này ắt hẳn có thể khiến họ được vui.

Còn có một điểm mà chúng ta nên tỉnh táo nhìn nhận. Ý chí có ý thức là một loại năng lực chỉ có thể phát triển được thông qua việc sử dụng và thông qua hành vi, chúng ta cần tích cực phát triển loại ý chí này chứ không phải là can thiệp vào nó, bởi chúng ta có thể phá hủy ý chí này chỉ trong nháy mắt. Ý chí này phát triển từ từ dựa trên cơ sở là hành vi bền vững trong môi trường nhất định, trong khi phá hủy nó lại là một việc cực kì dễ dàng. Thuốc nổ hay động đất có thể phá hủy cả một công trình kiến trúc chỉ trong vài giây, trong khi để xây dựng được những công trình kiến trúc đó thì chúng ta phải mất biết bao công sức. Việc xây dựng một công trình kiến trúc đòi hỏi có sự hiểu biết trong các lĩnh vực như cân bằng, vật liệu, nghệ thuật…

Để xây dựng một thứ không phải là sự sống mà còn đòi hỏi nhiều kiến thức đến vậy, thì có thể hiểu rằng để xây dựng nên tâm lí của một con người cần biết bao nhiêu công sức. Nhưng quá trình xây dựng tâm lí con người lại được tiến hành trong trạng thái chúng ta không thể quan sát bằng mắt thường. Người kiến tạo nên tâm lí không phải là người mẹ của trẻ hay là giáo viên, đương nhiên càng không phải là kiến trúc sư nào đó. Mẹ hay giáo viên là những người chỉ làm một số công việc mang tính chất giúp đỡ trong suốt quá trình sáng tạo, họ cũng cần coi sự giúp đỡ này là trách nhiệm và mục tiêu của mình, bởi vì trong khi sơ ý, họ có thể phá hỏng ý chí của đứa trẻ. Trước đây còn tồn tại rất nhiều cái nhìn sai lệch trong vấn đề này và nhiệm vụ của chúng ta là làm rõ những sai lầm ấy.

Sai lầm phổ biến nhất của các tổ chức giáo dục chính là các nhà công tác giáo dục cho rằng, bất cứ việc gì cũng có thể giải quyết bằng cách thuyết giáo (giáo dục bằng tai cho trẻ) và xây dựng tấm gương (giáo dục bằng mắt). Thế nhưng sự thật là cá tính của trẻ chỉ phát triển thông qua phương thức tự vận dụng năng lực bản thân. Trẻ thường bị coi là vật tiếp nhận bị động chứ không phải là cá thể có thể học tập một cách chủ động. Quan điểm này tồn tại trong công tác giáo dục ở bất cứ giai đoạn nào. Con người thường nuôi dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ bằng cách kể chuyện cổ tích. Nhưng khi nghe những câu chuyện cổ tích đó, trẻ chỉ có thể nghe được câu chuyện mà thôi, trí tưởng tượng của trẻ chẳng được phát triển thêm chút nào. Trí tưởng tượng – vốn được coi là tài sản tư duy quý giá của con người – vẫn không hề được phát triển thêm. Quan điểm sai lầm này khi phản ánh lên ý chí thì lại càng nghiêm trọng hơn, bởi vì đa số trường học đều từ chối tạo ra cơ hội cho trẻ được rèn luyện ý chí, công tác giáo dục trực tiếp yêu cầu trẻ phải làm gì, không được làm gì, bất cứ sự phản kháng nào của trẻ cũng đều bị cho là có bản chất nổi loạn. Có thể nói rằng, các nhà công tác giáo dục đang dốc toàn bộ sức lực vào việc phá hủy ý chí của trẻ.

Đồng thời nguyên tắc giáo dục trẻ bằng cách noi gương (một phương pháp khác ngoài thuyết giáo) đã khiến giáo viên tự cho mình là tấm gương để trẻ noi theo. Trí tưởng tượng và ý chí thậm chí không có chỗ ở đây, học sinh chỉ biết nhìn và nghe.

Chúng ta cần loại bỏ cách nhìn sai lầm này để dũng cảm đối mặt với sự thật.

Giáo viên trong giáo dục kiểu cũ đã tổng kết nên một câu mà nghe qua có vẻ rất hợp lí: “Là người dạy dỗ người khác, trước hết bản thân chúng ta phải tốt. Nếu học sinh học theo tôi, phục tùng tôi thì mọi việc sẽ thuận lợi.” Phục tùng trở thành nguyên tắc cơ bản của giáo dục. Một nhà giáo dục (tôi đã quên tên) đã từng nói một câu rất nổi tiếng là: “Trong vô vàn đức tính tốt của trẻ, có một đức tính quan trọng nhất, đó là phục tùng.”

Cứ như thế, công việc giáo dục trở nên đơn giản, các nhà giáo dục cũng trở nên kiêu ngạo. Họ có thể nói rằng: “Học sinh của tôi chẳng biết gì cả, tôi phải giáo dục chúng, để chúng trở nên giống như tôi.” Và thế là giáo viên bắt đầu công việc của mình. Giống như Kinh thánh từng viết: “Thượng đế đã tạo ra con người bằng trí tưởng tượng của mình.”

Con người thản nhiên đặt mình vào vị trí của Thượng đế. Họ đồng thời cũng quên mất trong Kinh thánh vì sao ma quỷ lại biến thành ma quỷ – bị dẫn dắt bởi lòng tự phụ, ma quỷ đã mưu toan thay thế vị trí của Thượng đế!

Trong nội tâm trẻ đang tiến hành những công việc mang tính sáng tạo, công việc này cao quý hơn nhiều so với những công việc của giáo viên hay cha mẹ. Đương nhiên những công việc này cần nhận được sự thấu hiểu và ủng hộ của họ. Trước kia, giáo viên đã từng dùng roi vọt để áp đặt ý muốn của mình lên trẻ. Cách đây không lâu, sau khi con người bước vào xã hội văn minh, giáo viên đã từng kháng nghị, họ cho rằng: “Nếu từ bỏ những roi vọt đó, chúng tôi không thể dạy học.” Thậm chí trong Kinh cựu ước (Châm ngôn Solomon) từng nói: “Cha mẹ không dùng roi vọt là sai lầm, như vậy những đứa con của họ rồi sẽ xuống địa ngục!” Kỉ luật được tạo ra trong sự đe dọa và nỗi sợ hãi như vậy. Cuối cùng, chúng ta có thể tổng kết bằng một câu kết luận thế này: Đứa trẻ không nghe lời là đứa trẻ hư, đứa trẻ nghe lời là đứa trẻ ngoan.

Do sự phát triển của nền dân chủ hiện đại và lí luận tự do, những giáo viên áp dụng phương pháp giáo dục nói trên bị coi là độc tài, trừ khi trong quá trình giáo dục, họ có thể cho thêm một chút chủ động và tưởng tượng. Nhưng giáo viên trong các trường học kiểu cũ vẫn khư khư ôm lấy quan điểm sai lầm của mình. Bạo lực của kẻ độc tài và bạo lực của giáo viên có sự khác biệt nhất định, vì kẻ độc tài dùng bạo lực để kiến thiết, còn giáo viên lại dùng bạo lực để phá hủy.

Sai lầm chủ yếu của quan điểm này nằm ở chỗ nó cho rằng phải phá hủy trước khi ý chí con người có thể phục tùng, hay có nghĩa là tiến hành phá hủy trước khi ý chí con người có thể tiếp nhận và phục tùng sự chỉ đạo của người khác. Nếu lí luận này được áp dụng vào thực tiễn giáo dục thì trước khi truyền thụ kiến thức cho học sinh, chúng ta đã kịp hủy diệt tư tưởng của chúng rồi.

Thế nhưng, khi ý chí của con người đã phát triển hoàn toàn và có thể tự do lựa chọn phục tùng mệnh lệnh của người khác thì tình hình sẽ hoàn toàn thay đổi. Sự phục tùng lúc này là một kiểu tôn kính, là sự thừa nhận quyền lực. Lúc này giáo viên cũng có thể cảm thấy hài lòng với trẻ.

Vì vậy ý chí và ý thức phục tùng có thể sánh vai tiến bước. Ý chí là tiền đề và là nền tảng của sự phát triển, trong khi phục tùng lại nảy sinh trên cơ sở đó. Từ “phục tùng” lúc này mang một hàm nghĩa mới. Nó đã trở thành sự thăng hoa của ý chí con người.

Trên thực tế, chúng ta rất dễ phát hiện ra rằng phục tùng là một hiện tượng tự nhiên, là một đặc trưng thông thường của con người. Ý thức phục tùng của trẻ dần dần được phát triển. Nó sẽ tự nhiên xuất hiện khi quá trình thành thục của con người sắp kết thúc theo một cách bất ngờ.

Thực tế là, nếu tâm lí con người không có phẩm chất “phục tùng” này, nếu trong quá trình tiến hóa, con người không thu được phẩm chất này thì đời sống xã hội sẽ thật khó mà tưởng tượng được. Bất cứ việc gì đều có thể nói rõ rằng, con người luôn đầy ý thức phục tùng. Hình thức phục tùng này dần dần sẽ đẩy phần lớn con người tới sự hủy diệt, đó là sự phục tùng không kiểm soát, một sự phục tùng có thể hủy diệt cả dân tộc. Thế giới con người không thiếu sự phục tùng. Mặt khác, phục tùng là một hiện tượng tự nhiên trong sự phát triển tâm lí con người, là một việc rất bình thường. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta thiếu sự kiểm soát đối với sự phục tùng.

Trong quá trình quan sát trẻ phát triển trong trạng thái tự nhiên, chúng ta sẽ phát hiện, sự phát triển ý thức phục tùng là đặc trưng quan trọng nhất trong số những đặc tính của con người. Quan sát của chúng tôi đã chỉ ra phương hướng nghiên cứu vấn đề này.

Ý thức phục tùng về cơ bản có nét tương đồng với con đường phát triển các phương diện khác trong cá tính của trẻ. Trước hết ý thức phục tùng cũng chịu ảnh hưởng của những xung động “có mục đích”, sau đó nó bước lên tầng có ý thức và dần dần phát triển, cuối cùng tiến tới chịu sự khống chế của ý thức, ý chí.

Dưới đây chúng ta sẽ thảo luận xem phục tùng đối với con người rốt cuộc có ý nghĩa gì. Từ trước đến nay, con người cho rằng phục tùng có nghĩa là: Giáo viên hoặc cha mẹ cho trẻ làm việc gì đó, trẻ nghe theo mệnh lệnh của giáo viên hoặc cha mẹ.

Nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn về quá trình phát triển tự nhiên của ý thức phục tùng, chúng ta sẽ thấy sự phục tùng trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là trẻ có lúc nghe lời, có lúc không nghe lời, tính khí có vẻ thất thường. Tất nhiên chúng ta sẽ cần tìm hiểu sâu hơn về hiện tượng này.

Phục tùng không chỉ phụ thuộc vào cái mà chúng ta gọi là “ý tốt”. Ngược lại, hành vi của trẻ trong giai đoạn đầu tiên chỉ chịu sự khống chế của “hành động có mục đích”. Tất cả trẻ em đều như vậy và tình trạng này sẽ kéo dài cho tới khi trẻ 1 tuổi thì mới kết thúc. Trong khoảng thời gian từ 1–6 tuổi, tình trạng nói trên rất ít khi xuất hiện, trẻ đã dần dần có ý thức, có năng lực tự khống chế bản thân. Trong giai đoạn này, ý thức phục tùng và những năng lực sẵn có khác của trẻ có mối quan hệ mật thiết. Để phục tùng một mệnh lệnh nào đó thì cần phải đạt đến độ thành thục nhất định, có khả năng nhất định. Ví dụ như ra lệnh cho một người đi bằng mũi là một điều cực kì hoang đường, bởi vì xét trên góc độ vật lí thì điều này hoàn toàn không thể xảy ra. Tương tự như vậy, yêu cầu một người không biết chữ phải viết thư cũng là một chuyện vô lí. Bởi vậy, trước hết chúng ta cần hiểu trình độ phát triển của trẻ xem liệu ở trình độ ấy, trẻ có phục tùng mệnh lệnh hay không.

Đối với trẻ dưới 3 tuổi thì trừ khi mệnh lệnh phù hợp với nhu cầu nội tâm của trẻ, nếu không trẻ sẽ không phục tùng, bởi vì lúc này trẻ chưa hình thành tâm lí và đang bận rộn với việc xây dựng nên các cơ chế cần thiết cho tính cách trong trạng thái tiềm thức. Những cơ chế này vẫn chưa đạt đến trình độ chịu sự kiểm soát của ý thức và nguyện vọng. Những đứa trẻ này cần đạt tới một trình độ phát triển mới thì mới trở nên biết nghe lời. Trên thực tế, hành vi của người lớn cũng cho chúng ta thấy rằng người lớn không hề hi vọng một đứa trẻ 2 tuổi sẽ phục tùng mình.

Bằng bản năng và tư duy logic (hoặc là bằng kinh nghiệm có được nhờ chung sống với trẻ trong thời gian dài), người lớn đã rút ra kết luận: Nếu muốn một đứa trẻ ở độ tuổi này không làm điều gì đó thì cần phải đưa ra mệnh lệnh có tính đe dọa.

Thế nhưng phục tùng vốn không có tính phủ định. Phục tùng đầu tiên cũng bao gồm sự thỏa mãn ý muốn của người khác, những đứa trẻ lớn hơn một chút đã không còn nằm trong giai đoạn chuẩn bị ban đầu giống như trẻ 0–3 tuổi. Giai đoạn sau 3 tuổi cũng bao gồm một số thời kì phát triển tương tự. Thậm chí đối với một đứa trẻ sau 3 tuổi, trước khi phục tùng mệnh lệnh, trẻ cũng phải có được năng lực nhất định. Trẻ không thể tự nhiên có ý chí phục tùng người khác, cũng không thể tự nhiên hiểu nguyên do của một việc nào đó. Trong sâu thẳm nội tâm trẻ đang trải qua một quá trình trưởng thành, quá trình này có tới mấy giai đoạn. Trong quá trình trưởng thành định hình này, trẻ có thể sẽ căn cứ vào yêu cầu của người khác để làm một số việc, nhưng điều này chỉ cho thấy rằng, trẻ đã có thể sử dụng một năng lực đang hình thành nào đó. Nếu muốn trẻ sử dụng nhiều lần năng lực này thì còn cần một khoảng thời gian củng cố nữa.

Tình trạng này được thể hiện khi trẻ lần đầu tiên có được khả năng vận động. Lúc 1 tuổi, trẻ bắt đầu thử tập đi, nhưng trẻ liên tục bị ngã, sau một thời gian thử, trẻ sẽ không còn thử nghiệm nữa. Nhưng khi đã có được khả năng đi lại rồi thì trẻ có thể tùy ý sử dụng khả năng này.

Còn có một điểm vô cùng quan trọng khác, ý thức phục tùng trong giai đoạn này của trẻ trước hết được quyết định bởi những năng lực mà trẻ đã có. Lần thứ nhất trẻ có thể phục tùng, nhưng lần thứ hai thì lại không. Giáo viên thường cho rằng đó là do trẻ cố ý và thường vì thế mà trách mắng trẻ, hành động trách mắng này rất dễ cản trở sự phát triển các năng lực của trẻ. Có một ví dụ rất thú vị như thế này. Nhà giáo dục học nổi tiếng người Thụy Sĩ – Pestalozzi – là một người có tầm ảnh hưởng lớn trong giới giáo dục. Ông là người đầu tiên đưa ra lí thuyết vai trò giáo dục của người cha, ông cho rằng những người làm công tác giáo dục nên đồng cảm với những khó khăn mà trẻ phải đối mặt, nên khoan dung và tha thứ cho những hành vi sai trái của trẻ. Nhưng có một việc ông không thể khoan dung, càng không thể tha thứ, đó chính là tính thất thường của trẻ. Ông không thể nào chấp nhận được việc bọn trẻ lúc thì nghe lời, lúc thì không chịu nghe lời. Nếu trẻ hoàn thành yêu cầu của ông ngay từ lần đầu tiên, ông cho rằng trẻ đã có khả năng làm việc đó. Pestalozzi không thể chấp nhận tính thất thường của trẻ. Cái mà ông gọi là tình thương của cha hoàn toàn biến mất trong trường hợp này. Thử nghĩ xem, người như Pestalozzi còn không thể chịu đựng được, huống hồ là những giáo viên khác.

Không có gì nguy hại hơn việc đánh mất tính tích cực của trẻ trong giai đoạn hình thành loại năng lực này. Nếu trẻ chưa hoàn toàn nắm bắt được hành vi của mình, nếu trẻ thậm chí chưa thể thỏa mãn được chính ý chí của bản thân thì làm sao trẻ có thể phục tùng người khác? Đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ lúc thì tỏ ra ngoan ngoãn nghe lời, lúc lại không. Điều này không chỉ xảy ra đối với trẻ. Một nhạc sĩ trong lần đầu tiên có thể chơi piano rất hay, nhưng lần khác lại biểu diễn rất tệ. Ý chí cá nhân không phải là nguyên nhân của việc này, mà nguyên nhân nằm ở chỗ người nhạc sĩ đó vẫn còn chưa nắm bắt được kĩ năng một cách hoàn toàn chuẩn xác.

Vì vậy đặc trưng giai đoạn đầu tiên của phát triển ý thức phục tùng chính là trẻ có lúc nghe lời, có lúc không nghe lời. Trong giai đoạn này, không phục tùng và phục tùng cùng song hành với nhau.

Giai đoạn thứ hai là khi trẻ có thể phục tùng mệnh lệnh mọi lúc mà trẻ muốn, trẻ không còn gặp trở ngại trong việc kiểm soát bản thân. Năng lực này của trẻ đã được củng cố, trẻ không những có thể nghe theo ý chí của bản thân mà đồng thời còn có thể nghe theo ý chí của người khác. Quá trình phát triển ý thức phục tùng đã đạt được một tiến bộ lớn, giống như việc một ngôn ngữ này có thể phiên dịch thành một ngôn ngữ khác vậy. Trẻ có thể lĩnh hội ý định và bộc lộ nó bằng hành vi của mình. Đó là mức độ phục tùng cao nhất mà giáo dục trước đó đã mong đạt được, cũng chính là điều mà các giáo viên thường quan tâm.

Thế nhưng quá trình phát triển của trẻ dưới sự dẫn dắt của quy luật tự nhiên còn lâu mới kết thúc. Trình độ phát triển của trẻ còn lâu nữa mới cao đến mức chúng ta mong đợi, ý thức phục tùng của trẻ còn phải trải qua giai đoạn thứ ba nữa.

Trẻ đã có thể sử dụng những năng lực mà bản thân rèn luyện nên, nhưng trẻ chưa dừng lại ở giai đoạn đó mà còn phát triển lên mức độ cao hơn. Dường như trẻ nhận thức được rằng, việc mà giáo viên làm được là việc mà năng lực của trẻ còn chưa đạt được. Vì vậy, trẻ dường như tự nhủ với bản thân: “Năng lực của người này mạnh hơn mình, ông ấy có thể gây ảnh hưởng đến sự phát triển bộ não của mình, khiến mình trở nên thông minh giống như ông ấy!” Cảm giác này có thể mang lại cho trẻ niềm vui vô hạn. Phát hiện có thể học tập được nhiều điều ở người khác này có thể kích thích lòng nhiệt tình lớn lao trong trẻ, trẻ sẽ không ngừng chờ đợi những mệnh lệnh của giáo viên. Đó là một hiện tượng tự nhiên vô cùng thú vị, chúng ta có thể so sánh hành vi của trẻ với hành vi của một chú chó. Chó yêu mến chủ nhân đồng thời chờ đợi mệnh lệnh của chủ nhân. Chó sẽ chú ý tới quả bóng trong tay chủ nhân, khi chủ nhân ném bóng ra xa, nó sẽ lập tức chạy tới và ngậm quả bóng mang về cho chủ với vẻ mặt rất “tự hào” (cảm giác thành công). Sau đó chú chó sẽ kiên nhẫn chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo của chủ nó. Nó khao khát được phục tùng mệnh lệnh của chủ mình và cảm thấy vui vì điều đó. Giai đoạn phát triển ý thức phục tùng thứ ba của trẻ cũng có nhiều điểm tương tự như vậy, dường như trẻ háo hức chờ đợi và tuân theo mệnh lệnh của người khác.

Từng có một ví dụ thú vị như thế này. Một cô giáo có kinh nghiệm 10 năm trong nghề đã quản lí rất tốt lớp học của mình, nhưng cô cũng có thói quen bày tỏ ý kiến cá nhân với các học sinh. Một hôm, cô giáo nói: “Hãy thu dọn đồ đạc cho gọn gàng, trước khi các em trở về nhà vào buổi tối.” Cô giáo mới nói xong nửa câu đầu “Hãy thu dọn đồ đạc cho gọn gàng”, bọn trẻ đã bắt đầu nhanh chóng thu dọn đồ đạc, khiến cho cô giáo không thể không thay đổi trật tự câu nói của mình. Trên thực tế, trong trường hợp này cô giáo nên nói: “Trước khi ra về vào buổi tối, các em hãy dọn dẹp đồ đạc cho gọn gàng.”

Cô giáo này cho biết, tình trạng trên thường xuyên xảy ra. Phản ứng nhanh nhạy của bọn trẻ đã khiến cô phải cân nhắc thận trọng trước khi nói, cô cho đó là trách nhiệm của mình. Nhưng chúng ta lại thường cho rằng, con người có thể ra lệnh tùy theo ý thích của mình. Còn cô giáo này cảm thấy quyền ra lệnh này đã mang lại cho cô một áp lực lớn. Có một lần, khi cả lớp đang rất ồn ào, cô định viết hai chữ “Trật tự” lên bảng, nhưng khi vừa viết được chữ đầu tiên, cả lớp đã im lặng như tờ.

Trải nghiệm của tôi (cũng là nguyên nhân tôi đưa ra “trò chơi yên lặng”) đã mang lại bằng chứng về một phương diện khác của vấn đề này, nhưng khi đó sự phục tùng còn mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong tình huống này, lũ trẻ đã bộc lộ tính nhất trí phi thường, cả một chỉnh thể đã phục tùng mệnh lệnh của tôi.

Sự yên tĩnh tuyệt đối chỉ có được khi mà tất cả mọi người có mặt ở đó đều giữ trật tự, chỉ cần một người phát ra tiếng động là cũng đủ để phá vỡ bầu không khí yên lặng này. Muốn có được sự yên tĩnh thì đòi hỏi tất cả mọi người đồng thời phải có ý thức giữ trật tự. Ý chí tập thể đã được tạo ra như vậy. Chúng tôi phát hiện ra rằng, cùng với việc không ngừng lặp đi lặp lại trò chơi này, ý chí tập thể cũng không ngừng tăng lên, thời gian bọn trẻ giữ yên lặng cũng càng ngày càng dài. Vì thế, chúng tôi đã đưa thêm vào trò chơi mục “điểm danh”. Khi tôi khẽ gọi tên một học sinh, học sinh ấy sẽ đứng dậy trong yên lặng, các học sinh khác vẫn ở trong trạng thái yên lặng bất động. Học sinh được gọi tên sẽ đứng lên rất nhanh và cố gắng không gây ra tiếng động nào. Chúng ta có thể hình dung ra học sinh cuối cùng được gọi tên phải ngồi đợi lâu như thế nào! Ý chí của những đứa trẻ này đã phát triển đến một trình độ rất cao. Kiểu rèn luyện này có thể tăng cường khả năng kiểm soát của con người đối với hành vi của bản thân. Những đứa trẻ chơi trò chơi này có thể thông qua hành vi và kiểm soát hành vi để rèn luyện ý chí của mình. Thông qua trò chơi, tập thể những đứa trẻ này sẽ trở nên vô cùng xuất sắc. Chúng tôi phát hiện chúng đều có ý thức phục tùng, bởi lẽ tất cả những yếu tố mà ý thức phục tùng đòi hỏi đều đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Trong giai đoạn phát triển cuối cùng của ý chí, trẻ đã có khả năng phục tùng, khả năng này sẽ thúc đẩy ý thức phục tùng của trẻ. Ý thức phục tùng của những đứa trẻ của chúng ta đã đạt đến trình độ rất cao, cho dù là mệnh lệnh của giáo viên hay là những thứ khác, trẻ đều có thể làm theo. Cô giáo mà tôi đã nhắc đến ở phần trên cho rằng, cần lưu ý đến bản thân nhiều hơn, không được khiến trẻ chịu ảnh hưởng của ý chí cá nhân giáo viên. Cô cũng dần dần ý thức được một người quản lí cần có những phẩm chất như thế nào: Một nhà quản lí tốt không nên tỏ ra quá cứng nhắc trong hành vi mà cần có ý thức trách nhiệm cao.

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x