Trang chủ » Đại Học – Phần Truyện – Chương 10 – Trị Quốc Bình Thiên Hạ

Đại Học – Phần Truyện – Chương 10 – Trị Quốc Bình Thiên Hạ

by Hậu Học Văn
148 views

Chương X. Trị Quốc Bình Thiên Hạ

Đoạn 1: Điều gọi là “làm cho thiên hạ được bình an ở tại trị quốc” ấy là người trên hết lòng tôn kính người già, thì dân dấy lên đức hiếu, người trên hết lòng trọng vọng bậc đàn anh, thì dân dấy lên đức đễ; người trên thương xót kẻ mồ côi, thì dân không làm điều trái nghịch. Vậy nên bậc quân tử có đường lối chuẩn mực.

Điều gì mình ghét ở người trên, đừng đem sai khiến người dưới; điều gì mình ghét ở người dưới, đừng đem phụng sự người trên; điều gì mình ghét ở người trước, đừng đem tiến hành với người sau; điều gì mình ghét ở người sau, đừng đem làm theo cho người trước; điều gì mình ghét ở người bên phải, đừng đem giao cho người bên trái; điều gì mình ghét ở người bên trái, đừng đem giao cho người bên phải. Như thế gọi là đường lối chuẩn mực vậy.

BÌNH GIẢI:

Xưa nay, người ta thường nghĩ muốn “bình thiên hạ” thì phải ra công tổ chức một guồng máy cai trị chặt chẽ, vững mạnh, đồ sộ, sẵn sàng dùng vũ lực cùng với những biện pháp khắt khe, ngặt nghèo để đàn áp; khiến cho dân chúng ngoan ngoãn như bầy cừu, không dám loạn động, chống đối. Tuy nhiên, đối với những ai đã từng để tâm nghiên cứu lịch sử các dân tộc, theo dõi kinh nghiệm cai trị của tiền nhân đều biết rằng dùng vũ lực để vỗ yên thiên hạ chỉ là hạ sách, là những biện pháp bá đạo nhất thời. Ảnh hưởng của chính sách ấy thật là ngắn ngủi: kết quả thật là tiêu cực. Kìa như chính sách của Vệ Ưởng, của Lý Tư và Tần Thủy Hoàng ở Trung Hoa vào thời Hậu Chiến quốc, bạo tàn, mạnh mẽ biết bao nhiêu, khiến dân chúng không dám thở mạnh, không dám mở miệng kêu than! Thế mà cuộc “bình thiên hạ” đó có kéo dài được bao lâu!

Tại sao vậy? Thưa rằng: giữa nhà cai trị và dân chúng không có “hoà”. Không có “hoà”, không thể có “bình” lâu dài được. Muốn có thái bình, ổn định lâu dài phải có hoà: hoà giữa người cai trị và dân chúng, hoà giữa mọi người trong dân. Hoà mới là thượng sách. Bàn về “hoà” tức là bàn về đạo lược. Như chúng ta đã biết, Đại học là sách bàn về đạo lược, là chính sách thượng tầng, là đường lối cốt lõi để trị nước, làm cho thiên hạ thái bình, an lạc.

Đất nước là một đại gia đình gồm nhiều gia đình; do đó đạo lược đối với đất nước cũng không khác gì đạo lược đối với gia đình: trị quốc cũng như tề gia. Chỉ có điều mở rộng thêm ra trong qui mô lớn mà thôi.

Ở phần trên đã nói: tề gia cần thể hiện các đức: hiếu, đễ, từ. Trong chương này nói: trị quốc cần thể hiện các đức: lão (hết lòng tôn kính) để hưng hiếu, trưởng (hết lòng trọng vọng) để hưng đễ, tuất (thương xót) để “bất bội.” lão, trưởng, tuất là mở rộng các đức hiếu, đễ, từ trong việc tề gia.

Trong gia đình, hiếu là tôn kính, làm vui lòng cha mẹ. Trong nước, làm người cai trị (vua, quan, công chức, cán bộ..) tức là đóng vai người trên (thượng). Người trên thì phải hết lòng tôn kính những người già trong dân (thượng lão lão). Chữ “lão” thứ nhất là động từ: hết lòng tôn kính. Chữ “lão” thứ hai là danh từ: những người già trong dân. Người cai trị phải coi những người già trong dân như cha mẹ của mình. Nếu người cai trị biết tôn kính người già, thì dân chúng sẽ bắt chước mà dấy lên đức hiếu: Hiếu với cha mẹ của họ (dân hưng hiếu).

Trong gia đình, đễ là tôn trọng đàn anh. Trong nước, làm người cai trị (người trên) phải hết lòng trọng vọng các bậc đàn anh trong dân (thượng trưởng trưởng). Chữ “trưởng” thứ nhất là động từ: hết lòng trọng vọng. Chữ “trưởng” thứ hai là danh từ: những bậc đàn anh, đàn chị trong dân. Bậc đàn anh, đàn chị trong dân là những hiền sĩ có tài năng, đức hạnh đáng làm gương mẫu cho đời. Người cai trị phải coi các hiền sĩ trong dân như anh, chị của mình; cần phải hết lòng trọng vọng, tham vấn hỏi han và nghe lời khuyên của họ; cho dù họ có sống ẩn dật nghèo hèn trong chốn quê mùa dân dã. Nếu người cai trị biết trọng hiền sĩ, khao khát nghe lời họ như khát nước, thì dân chúng sẽ bắt chước dấy lên đức đễ: tôn trọng anh chị của họ (dân hưng đễ). Hơn nữa, dân chúng còn đua nhau học tập, trau dồi tài năng, đức hạnh để trở nên những bậc hiền sĩ tài tuấn.

Trong gia đình, từ là ân cần giúp đỡ kẻ dưới. Trong nước, làm người cai trị phải biết thương xót, đối nghĩ chẩn cấp cho những kẻ mồ côi bần cùng (thượng tuất cô). Người cai trị phải xem những kẻ mồ côi bất hạnh như con cháu trong nhà mình, thường xuyên lưu tâm chiếu cố đến sự cô đơn túng thiếu của họ. Nếu làm được như vậy, dân chúng sẽ bắt chước mà dấy lên đức từ: thương xót, nâng đỡ lẫn nhau. Như thế, dân không còn dám làm điều trái nghịch (dân bất bội); và sự ngăn cách giữa người giàu, kẻ nghèo sẽ giảm bớt. Cả ba đức hiếu, đễ, từ (tuất) được phát khởi trong dân thì nước nhà được ổn định, không còn cảnh cướp bóc, trấn lột, giành giựt ngoài đường xá, chợ búa.

Tóm lại hiếu, đễ, từ là những đức cần thiết trong việc tề gia như thế nào thì lão, trưởng, tuất là những đức cần thiết như vậy trong việc trị quốc dẫn tới bình thiên hạ. Đó là những chuẩn mực, là đường lối khuôn thước (hiệt củ chi đạo) trong cõi nhân sinh.

Để cho rõ hơn nữa, người viết phần Truyện ở đây muốn thể hiện lý nhất quán trong đạo Nho bằng cách gắn liền đạo “hiệt củ” với đạo “trung thứ” trong sách Luận Ngữ. Khổng tử đã từng nói với Tăng Sâm: Ngô đạo nhất dĩ quán chi! (Đạo của ta có một lý mà xuyên suốt hết.)

Tăng Sâm đã diễn giải cái lý nhất quán ấy như sau: “Phu tử chi đạo trung thứ nhi dĩ hỹ. (Đạo của phu tử chỉ là giữ đạo trung và xử tốt với mọi người (thứ) mà thôi.) (Luận Ngữ: Lý nhân). Còn chính Khổng tử thì giải thích đạo “thứ” cho Tử Cống rằng: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. (Điều gì mình không muốn, đừng làm cho người” (Luận Ngữ: Vệ Linh Công, 23).

Mặc dầu người viết phần Truyện đã nhắc tới đạo “thứ” ở chương 9 (Sở tàng hồ thân bất thứ, nhi năng dụ chư nhân giả, vị chi hữu dã. (Điều mà thân mình chẳng tự suy mình ra người, lại đem dạy bảo cho người, chưa hề có vậy.); nhưng ở đây, ông viết rành mạch, kỹ lưỡng hơn:

Sở ố ư thượng, vô dĩ sử hạ: Điều gì mình ghét ở người trên, đừng đem sai khiến người dưới.”

Người trên thường có điều gì đáng ghét?

Người trên thường ỷ vào chức quyền, vào kiến thức của mình hơn người, nên hay có tâm lý: kiêu căng, tự cao tự đại, khinh mạn, nóng giận…; lại hay có ngôn ngữ thiếu nhã nhặn, lịch sự, tế nhị, mục hạ vô nhân (coi dưới mắt không có người)…

Tại sao có tâm lý và ngôn ngữ như vậy? Bởi vì người trên thường cho rằng người dưới hèn kém, dốt nát hơn mình… không đáng được tôn trọng. Ngoài ra, ở cương vị cai trị, người trên dễ sa vào bốn điều ác: “Bất giáo nhi sát, vị chi ngược. Bất giới thị thành, vị chi bạo. Mạn lệnh, trí kỳ, vị chi tặc. Du chi dữ nhân giả, xuất nạp chi lận, vị chi hữu tư. (Không dạy dân để dân phạm tội mà giết, gọi là ngược. Không răn bảo trước mà muốn thành việc ngay, gọi là bạo. Hiệu lệnh để trễ lâu, đến kỳ thì thúc giục, gọi là giặc (thù hại). Ban thưởng mà bủn xỉn, gọi là nhỏ mọn.) (Luận Ngữ, Nghiêu viết, 2).

Những điều đáng ghét của người trên thường thì chính họ không thấy, chỉ có người dưới thấy mà thôi. Làm người cai trị, trước khi được ở ngôi cao chắc là trước đó đã từng ở địa vị thấp. Khi ở địa vị thấp, mình ghét những tật xấu của người trên thế nào; vậy, khi đã lên được ngôi cao, không nên tái hiện những tật xấu ấy đối với người dưới của mình nữa.

Sở ố ư hạ, vô sĩ sự thượng: Điều gì mình ghét ở người dưới, đừng đem phụng sự người trên.”

Là một người lãnh đạo đất nước ở ngôi cao nhất (vua hay tổng thống…) hẳn có nhiều người ở cấp dưới. Cho dù không phải ở ngôi cao nhất, người cai trị cũng là một ông quan; dĩ nhiên, bên dưới là cấp thấp hơn. Cấp thấp hơn là người dưới của quan.

Người dưới thường có điều gì đáng ghét?

Người dưới có nhiều loại. Có loại thích tâng bốc, bợ đỡ, nịnh hót, dối gạt người trên để kiếm lợi. Có loại ỷ vào tài sức của mình mà ngạo mạn, khinh thị, vô lễ, bướng bỉnh… có loại biếng nhác, chẳng chuyên tâm vào công việc bổn phận…

Một khi đã nhận ra được những nết xấu của các loại người dưới vừa kể, người cai trị không được đem những điều ấy mà phụng sự người trên của mình.

Sở ố ư tiền, vô dĩ tiến hậu; sở ố ư hậu, vô dĩ tùng tiền; sở ố ư hữu, vô dĩ giao ư tả; sở ố ư tả, vô dĩ giao ư hữu: Điều gì mình ghét ở người trước, đừng đem tiến hành với người sau; điều gì mình ghét ở người sau, đừng đem làm theo cho người trước; điều gì mình ghét ở người bên phải, đừng đem giao cho người bên trái; điều gì mình ghét ở người bên trái, đừng đem giao cho người bên phải.”

Trước (tiền), sau (hậu), trái (tả), phải (hữu) là bốn bên của người cai trị. Bốn bên chỉ chung những người xung quanh, ngang hàng bạn bè, đồng hành, đồng sự. Nếu mình ghét cách cư xử của người này thì mình đừng đem điều ấy cư xử, giao thiệp với người kia.

Trong sự giao thiệp giữa bạn bè, đồng hành, đồng sự cùng chia sẻ việc cai trị, tệ nhất là sự dối gạt, gây chia rẽ, kéo bè kéo cánh…

Làm người cai trị phải cố tránh những thói xấu ấy để giữ tình đoàn kết thì việc trị nước, an dân mới có kết quả tốt.

Tóm lại, người trên, người dưới, những người xung quanh đều là tha nhân của mình. Những gì mình không muốn thì mình đừng đem thi hành cho tha nhân. Đó là qui luật “suy kỷ cập nhân” (suy ta ra người); tất cả được tóm gọn trong chữ “thứ.” Đó chính là đạo hiệt củ, là “khuôn vàng thước ngọc” cho người cai trị và cũng là chuẩn mực cho mọi người. (Thử chi vị hiệt củ chi đạo.)

Đạo hiệt củ là đạo thống của nhân loại, đều được nhắc đến theo một cách nào đó trong các dân tộc, trong các nền văn minh.

Đôi khi, đạo thống ấy mang tính cách tích cực hơn như trong lời Khổng tử nói với Tử Cống:

Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân. (Phàm là người nhân, mình muốn lập thì lập cho người, mình muốn đạt thì đạt cho người.) (Luận Ngữ: Ung dã).

Sự tích cực này cũng thể hiện trong lời dạy của Đức Giêsu trong Tân Ước:

Vậy mọi điều các ngươi muốn người ta làm cho mình, thì chính các ngươi cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật cùng các tiên tri là thế đó.” (Matthêu: 7,12).

Đạo hiệt củ này, đối với thánh Phaolô, đã được diễn dịch thành lòng yêu mến:

“Nợ nần anh em không mắc gì với ai ngoài một điều là phải yêu mến nhau. Vì kẻ yêu người tất đã làm trọn Lề Luật. Quả thế các điều như: chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ tham muốn, và nếu còn lệnh truyền nào khác thì cũng tóm lại trong điều này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình. Lòng yêu mến không xử ác với đồng loại. Vậy yêu mến là chu toàn cả Lề Luật.” (Roma: 13, 8 10)

Đoạn 2: Kinh Thi rằng: “Vui thay quân tử, cha mẹ của dân.” Điều gì dân thích, mình thích; điều gì dân ghét, mình ghét. Như thế gọi là cha mẹ của dân.

Kinh Thi rằng: “Núi Nam kia cao ngất, chỉ có đá chập chồng. Lẫm liệt thay Sư Doãn, dân chúng đều ngắm ông.” Người có nước không thể không thận trọng, lệch lạc thì bị thiên hạ giết chết.

Kinh Thi rằng: “Nhà Ân hồi chưa mất dân, hay kết hiệp với Thượng đế. Hãy coi nhà Ân làm mẫu: mệnh lớn không dễ dàng đâu!” Nói cho rõ là được dân chúng, thì được nước; mất dân chúng thì mất nước. Vậy nên, bậc quân tử trước hết là thận trọng giữ đức. Có đức, ấy là có người; có người ấy là có đất; có đất ấy là có của cải; có của cải ấy là có chỗ dùng.

BÌNH GIẢI:

Câu Kinh Thi được trích dẫn ở đây thuộc bài thơ Nam Sơn hữu đài trong thiên Tiểu Nhã:

Lạc chi quân tử; dân chi phụ mẫu: Vui thay quân tử; cha mẹ của dân.”

Người quân tử trong câu thơ này chỉ người cai trị đất nước. Quân tử là người có học vấn, có đức hạnh. Khi đạo Nho dùng tiếng “quân tử” để chỉ người cai trị là có ý thể hiện chủ trương rằng: người cai trị phải là một con người tương đối lý tưởng, biết sửa mình theo đức hạnh. Như vậy người cai trị được coi như cha mẹ của dân, dân là con cái của người cai trị.

Ở đây, câu Kinh Thi khen ngợi: “Vui thay quân tử….” Tại sao người quân tử lại vui?

Ai đã từng làm cha mẹ, một khi thấy con cái của mình được an lành, khỏe khoắn thì trong lòng cảm thấy vui vẻ. Nếu người quân tử cai trị thật lòng coi dân như con cái mình, khi thấy dân chúng được an cư lạc nghiệp hẳn lòng cũng thấy vui! Và có lẽ còn vui hơn cha mẹ thực nữa. Bởi vì làm cha mẹ thực chỉ có nhiều lắm là trên dưới 10 đứa con. Nay làm người cai trị cai quản hàng mấy chục triệu dân, tất cả đều được coi như những đứa con của mình. Thấy dân chúng được thái bình, thịnh vượng, no cơm ấm áo; niềm vui ấy còn to lớn bằng cả ngàn, vạn lần niềm vui của cha mẹ thực! Đó là lý tưởng trị nước của đế đạo ngày xưa đấy. Có hiểu đế đạo mới cảm thấy được ý tứ của câu Kinh Thi trên hàm súc biết chừng nào!

Sau này, với Nho giáo hương nguyện nhằm phục vụ những chế độ cai trị bá quyền, người ta đã vin vào 4 chữ “dân chi phụ mẫu” của câu Kinh Thi trên, cho rằng vua quan là cha mẹ, tức là vua quan có quyền tuyệt đối trên dân; dân là con, cho nên dân phải hoàn toàn phải tuân phục vua quan. Nếu không tuân phục vua quan thì phạm tội “bất hiếu” như đối với cha mẹ vậy.

Hiểu như thế là hiểu sai ý cổ nhân, nếu không nói là phản bội cổ nhân! Tương quan giữa người cai trị và dân chúng trong câu Kinh Thi trên phải được hiểu trong tương quan của đạo hiệt củ. Nghĩa là người cai trị phải đo lòng dân chúng như cha mẹ đo lòng con cái. Ý câu Kinh Thi ở đây phải được liên kết với ý trong câu sách của thiên Khang Cáo ở chương 9: “Như bảo xích tử” (Như giữ gìn con đỏ). Cha mẹ đón ý con đỏ như thế nào thì người cai trị phải đón ý dân chúng như vậy. Thấy con khóc vì đói hay lạnh, hay vì đau yếu bệnh tật, thì cha mẹ phải lo lắng chăm sóc, tìm phương thế, phương dược thích hợp để cho con được an vui. Trên thực tế nuôi con, nhiều khi cha mẹ phải mất ăn mất ngủ, nhường cơm sẻ áo, hy sinh cho con vì lòng thương yêu con. Trong đế đạo trị nước, người cai trị cũng làm như vậy đối với dân chúng của mình.

Trong tương quan đó, người viết phần Truyện ở chương này mới dẫn giải thêm:

Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi: Điều gì dân thích, mình thích; điều gì dân ghét, mình ghét.”

Dân thích điều gì?

Ai đã từng làm dân thì đều biết dân thích điều gì. Dân thích sự an bình, được thong thả làm ăn, không bị quấy nhiễu, không bị xua đuổi ngược xuôi, không bị người cai trị áp bức, khinh bỉ, không bị bọn cường hào ác bá ỷ vào thế lực cường quyền mà bắt nạt, bóc lột…

Thấy dân thích như vậy, thì người cai trị cũng thích theo. Nghĩa là người cai trị đừng ỷ vào quyền thế sách nhiễu dân chúng, đừng dùng vũ lực áp bức dân chúng, bắt dân chúng theo ý riêng của mình. Hãy dùng quyền lực mà trừ bỏ nạn bóc lột, dọa nạt đối với dân. Hãy dùng hệ thống cai trị mà thanh toán bọn xấu cho dân được an cư lạc nghiệp.

Dân ghét điều gì?

Dân ghét những tham quan ô lại ăn trên ngồi trốc, ngồi mát ăn bát vàng mà vẫn khinh thị dân, coi tính mệnh dân như con sâu, con kiến…

Thấy dân ghét như vậy, thì người cai trị cũng ghét theo. Hãy thiết lập công bằng xã hội, trả công tương xứng cho những người phải đổ mồ hôi nước mắt trong công xưởng, trên luống cày. Người cai trị cũng đừng coi dân chúng như những kẻ ăn mày phải đến nhờ vả mình…

Nói như lời Truyện “Dân chi sở hiếu, hiếu chi…”; vậy giá như dân thích điều xấu, người cai trị có thích theo không? Dân ghét điều thiện, người cai trị có ghét theo không?

Trên thực tế, nếu quả có như thế, thì người cai trị lại sa vào bệnh “theo đuôi quần chúng” mất rồi!

Dĩ nhiên, ở đây trong cương lĩnh đại học, không hề có chuyện đó. Bởi vì, ở đầu phần Kinh đã nói: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện.”

Như thế, cương lĩnh đại học đã loại bỏ điều xấu ngay từ đầu rồi. Trong cương lĩnh này, “thân dân” được đặt giữa “minh đức” và “chí thiện.” Người quân tử cai trị phải thân dân, dẫn dân tới “chí thiện” như cha mẹ dẫn con cái trong đường tốt lành vậy.

Đến đây, phần Truyện nêu ra mẫu mực một người quân tử trị nước lừng danh, đã được ghi trong sử sách:

“Tiệt bỉ Nam sơn,

Duy thạch nham nham

Hách hách Sư Doãn

Dân cụ nhĩ chiêm”

(Núi Nam kia cao ngất,

Chỉ có đá chập chồng.

Lẫm liệt thay Sư Doãn,

Dân chúng đều ngắm ông).

Đoạn này là thơ Tiệt Nam sơn, thiên Tiểu Nhã trong Kinh Thi. Người làm thơ lấy hình thể núi Nam có đá lởm chởm dẫn hứng để nói về Thái sư Y Doãn. Tuy nhiên, chính hình ảnh núi Nam cao ngất, hùng vĩ cũng biểu hiện phong thái uy nghiêm, nhân cách cao cả của Y Doãn. Ông là nguyên thần của vua Thành Thang, sau này làm Trủng tể (Tể tướng), phụ chính cho tự quân là vua Thái Giáp trị nước thành công, thiên hạ thái bình. Thời gian này diễn ra vào khoảng cuối thế kỷ 18 trước Công nguyên.

Mặc dầu ban đầu vua Thái Giáp bỏ qua những lời khuyên răn của ông, nhưng về sau nhờ kiên nhẫn và vận dụng cả biện pháp cứng rắn, Y Doãn đã khiến được vua Thái Giáp thay lòng đổi tính. Để tạo cơ hội cho vua biết hối lỗi, ông cho xây cung điện ở đất Đồng, nơi có lăng tẩm vua Thành Thang, rồi ép vua ngự giá sang ở bên ấy. Kinh Thư nói rằng: “Vua Thái Giáp qua ở Đồng Cung, cư tang; về sau có nhiều đức tốt.” (Vương tồ Đồng cung cư ưu, khắc chung doãn đức.) Thế là Y Doãn đem mũ miện, áo cổn đón tự vương Thái Giáp về kinh đô đất Bạc để cùng các quan trị dân. Kinh Thư ghi chép lời hối lỗi của vua Thái Giáp như sau:

Dư tiểu tử bất minh vu đức, tự để bất loại. Dục bại độ, túng bại lễ, dĩ tốc lệ vu quyết cung. Thiên tác nghiệt, do khả vi; tự tác nghiệt, bất khả quán. Ký vãng bội Sư, Bảo chi huấn, phất khắc vu quyết sơ. Thượng lại khuông cứu chi đức, đồ duy quyết chung. ” (Ta là con nít, không có đức tốt, thật là người bất hiền. Tham dục làm sai cả phép tắc, phóng túng làm trái cả lễ nghi, đến nỗi tự mình chóng mắc phải tội lỗi. Trời gieo cho tai vạ, còn có thể tránh được; tự mình làm nên tai vạ không trốn được nào. Trước kia, trái lời dạy của bậc Sư, Bảo, không hay lúc ban đầu. Nay nhờ ơn khuyên bảo cho, ngõ hầu mưu toan về sau này được trọn vẹn.” (Kinh Thư, Thái Giáp trung, 3; Thẩm Quỳnh dịch).

Về việc dùng ông Y Doãn trị nước, Khổng tử đã khen ngợi như sau: “Thang hữu thiên hạ, tuyển ư chúng, cử Y Doãn; bất nhân giả viễn hỹ. (Vua Thành Thang có thiên hạ, thì tuyển chọn trong dân chúng, cất nhắc Y Doãn; những kẻ bất nhân phải xa lánh.” (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 21).

Vì Y Doãn có tài đức và bản lĩnh như vậy, cho nên dân chúng chiêm ngưỡng ông như nhìn ngắm núi Nam chót vót, vừa kính sợ, vừa mến phục. Hiện tượng này quả thực ứng vào quẻ Phong Địa Quan trong Kinh Dịch: 

Thoán truyện nói rằng: “Đại quán tại thượng, thuận nhi tốn, trung chính dĩ quán thiên hạ… Quan thiên chi thần đạo nhi tứ thời bất thắc; thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo, nhi thiên hạ phục hỹ. (Biểu thị lớn ở trên, thuận mà nhún nhường, trung chính để biểu thị cho thiên hạ… Hãy xem cái đạo thần diệu của Trời, mà bốn mùa không sai suyển; thánh nhân lấy đạo thần diệu ấy mà thi hành việc giáo dục, nên thiên hạ phục theo vậy.”

Quẻ Quán diễn tả sự biểu thị. Quán đồng thời cũng là Quan. Quan diễn tả sự chiêm ngưỡng, xem xét. Người quân tử cai trị biểu thị đức trung chính, sự nhún nhường cho dân chúng xem. Đồng thời dân chúng ở bên dưới ngửa mặt nhìn lên người cai trị, là bề trên của mình để học tập thịnh đức của người quân tử.

Quẻ Quán gồm có thượng quái là quẻ Tốn, hạ quái là quẻ Khôn.

Tốn là gió, biểu thị sự nhún nhường, nhu thuận. Thoán truyện nói “biểu thị lớn ở trên” là chỉ 2 hào dương ở thượng quái tạo thành quẻ Tốn ở trên; trong đó có hào Cửu Ngũ, dương cương đắc trung chính. Đức nhún nhường, nhu thuận, trung chính là đạo thần diệu của Trời. Nhờ đó mà Trời điều khiển được vạn vật, làm cho bốn mùa đổi thay có chừng mực.

Quẻ Khôn trong quẻ Quán là 3 hào âm ở hạ quái, chỉ dân chúng.

Như thế, hào Cửu Ngũ trong quẻ Tốn ứng vào trường hợp của Thái sư Y Doãn làm phụ chính cho tự vương Thái Giáp, vừa lấy đạo trung chính khuyên vua, vừa giữ đức khiêm cung của một người bầy tôi. Tài đức và phong cách của Y Doãn xứng đáng là tấm gương biểu thị (Quán) cho dân chúng chiêm ngưỡng học tập (Quan). Vì biết vận dụng đạo thần diệu của Trời (nhún nhường, nhu thuận, trung chính) mà Y Doãn đã thành công trong việc trị dân, vỗ yên trăm họ và khiến vua biết hối lỗi, trở về đường đạo đức.

Tuy nhiên, quẻ Quán này còn biểu lộ cho biết rằng: người cai trị dù ở ngôi cao trọng tôn quí mặc lòng nhưng đang ở trong một tình thế rất nguy hiểm.

Bốn (4) hào âm từ hạ quái tiến thẳng lên biểu thị âm khí đang hồi thượng thăng, lấn áp dương khí đang lúc suy thoái. Bốn (4) hào âm biểu thị cho thế lực của quần chúng thường xuyên theo dõi nhà cầm quyền và sẵn sàng làm cách mạng, xô ngã giới cai trị bất cứ lúc nào, nếu giới cai trị không thi hành trung chính phục vụ dân chúng. Hai hào dương ở trên biểu thị cho giới cai trị; trong đó hào Cửu Ngũ chỉ người cai trị ở ngôi vị lãnh đạo. Nếu người này hành động bất chính, biểu thị bằng dương hào chuyển sang âm hào. Lúc ấy quẻ Quán biến thành quẻ Sơn Địa Bác:

Bác là đẽo gọt, tiêu mòn. Về phương diện chính trị, thời Bác biểu thị lúc chính nghĩa tàn lụi, chính quyền sụp đổ; người cai trị có khi bị nhục nhã, bị hình ngục và có khi bị mất mạng. Vương triều Louis 16 bị sụp đổ trong cuộc cách mạng dân chủ 1789 ở Pháp và vua Louis 16 bị lên đoạn đầu đài là một ví dụ cho tình thế đất nước chuyển biến từ quẻ Quán sang quẻ Bác.

Do đó, sau bài thơ Tiệt Nam Sơn ca ngợi về uy nghi lẫm liệt của Thái sư Y Doãn, phần Truyện chương này đã nói tiếp:

Hữu quốc giả bất khả dĩ bất thận, tịch tắc vi thiên hạ lục hỹ: Người có nước không thể không thận trọng; lệch lạc thì bị thiên hạ giết chết.”

Người có nước tức là người cai trị, chỉ vua, quan, tổng thống… Người có nước ở đây được hiểu là người được dân chúng tín nhiệm, suy tôn vào địa vị lãnh đạo đất nước, mưu cầu hạnh phúc cho dân. Nước không phải là của riêng của người cai trị, mà nước là của toàn dân trong đó có người cai trị. Người cai trị do thời thế hay do suy cử mà được ở ngôi vị lãnh đạo phải có bổn phận bảo dưỡng dân như cha mẹ săn sóc con. Người cai trị và cả hệ thống cầm quyền dù sao cũng chỉ là thiểu số so với đại đa số là dân chúng. Nếu người cai trị không thận trọng, chối bỏ đạo lý, mưu cầu lợi riêng, lệch lạc trong việc trị dân, sớm muộn gì cũng bị dân chúng lật đổ. Về điểm này, Lão tử cũng nói:

Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kỳ bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã. Vi giả bại chi(Hòng muốn lấy thiên hạ mà xoay, ta thấy không thể được. Thiên hạ là cái khí cụ thần diệu, không thể xoay được. Xoay thì thất bại…” (Đạo Đức Kinh, chương 29).

Nhà Ân lúc mở nghiệp với vua Thành Thang và Thái sư Y Doãn được tốt đẹp như thế. Nhưng về sau, vua Trụ thi hành những điều thất đức, làm mất lòng dân, nên đã bị Vũ Vương tiêu diệt. Kinh Thi, thơ Văn Vương, thiên Đại Nhã nhắc lại sự việc nhà Ân để cảnh giác con cháu:

Ân chi vị táng sư,

Khắc phối Thượng đế.

Nghi giám vu Ân:

Tuấn mệnh bất dị.”

(Nhà Ân hồi chưa mất dân

Hay kết hiệp với Thượng đế

Hãy coi nhà Ân làm mẫu:

Mệnh lớn không dễ dàng đâu.)

Chữ “” có nghĩa là đám đông, tức là dân chúng. “Nhà Ân hồi chưa mất dân” chỉ thời gian mà các vua nhà Ân còn giữ được đức trung chính, nhu thuận, nhún nhường, thương yêu dân như con. Kinh Thư ghi lại lời của vua Thành Thang như sau:

Kỳ nhĩ vạn phương hữu tội, tại dư nhất nhân. Dư nhất nhân hữu tội, vô dĩ nhĩ vạn phương. Các ngươi ở vạn phương có tội, tội ở một mình ta. Một mình ta có tội, không lấy đến các ngươi ở vạn phương” (Kinh Thư: Thang Cáo, 8).

Câu này có nghĩa: vua Thành Thang cho rằng sở dĩ mọi người trong nước (vạn phương) làm điều sai trái (có tội) là do lỗi của nhà vua (tội ở một mình vua). Đó là lỗi không biết lo cho dân, tắc trách trong bổn phận trị dân của mình; còn vua có tội, mắc phải lỗi lầm gì, thì đó là chuyện cá nhân nhà vua, dân không phải chịu liên lụy.

Như thế, vua Thành Thang muốn một mình gánh tội thay cho toàn dân, nhận trách nhiệm trước dân, nhận lỗi trước Thượng đế. Thái độ thành khẩn này của vua Thành Thang đã chứng tỏ ông là một bậc thánh vương, hiền đức. Do đó, nhà Ân đã được lòng dân chúng. Vì vua Ân biết tự hạ mình xuống, cho nên đã được dân chúng nâng cao lên. Họ coi vua Ân như là Thiên tử (con của Trời); và tin rằng vua Ân được kết hiệp với Thượng đế (khắc phối Thượng đế).

Người xưa coi con người có địa vị tôn quí trên muôn dân là người được Trời (Thượng đế) trao cho sứ mệnh trị dân.

Chữ “mệnh” ở đây so sánh với chữ “mệnh” trong câu “Thiên mệnh chi vị tính” ở sách Trung Dung có điểm tương đồng và có điểm khác biệt:

– Tương đồng ở chỗ: mệnh là cái phần nhận được từ Trời.

– Khác biệt ở chỗ: Mệnh ở sách Trung dung thuộc tiên thiên; Mệnh ở đây thuộc hậu thiên.

Thiên mệnh là cái phần mà mỗi người nhận được ở Trời từ lúc mới thành thai trong lòng mẹ. Cái phần đó, ai cũng như ai. Có điều khác nhau là: người này phát huy thiên mệnh trở nên sáng láng thì thành “thánh hiền”; người kia chạy theo dục vọng làm cho thiên mệnh bị mờ tối đi, hóa ra phàm nhân.

Chữ “mệnh” trong chương Truyện này chỉ cái trách vụ Trời trao cho mỗi người tùy tài năng, khuynh hướng… trong từng giai đoạn lịch sử. Có người được trao cho vai lãnh đạo đất nước; có người được trao cho vai trò giáo dục, hoặc vai trò tu sĩ, hoặc một chuyên gia nào đó… Trong tất cả các sứ mệnh nhận được từ trời, thì sứ mệnh làm vua trị nước là to lớn nhất, quan trọng nhất; bởi vì phải trông coi sinh mệnh toàn dân. bất cứ một lời nói, một cử chỉ nào cũng có ảnh hưởng tốt hoặc xấu tới toàn dân. vì thế, kinh Thi gọi đó là “tuấn mệnh” (mệnh to lớn).

Việc trao cho tuấn mệnh không phải là việc đùa, cho nên làm tròn tuấn mệnh, gìn giữ tuấn mệnh không phải dễ. Nhà Hạ đã được Trời trao cho tuấn mệnh qua tay Đế Thuấn, đến vua Kiệt thì mất. Nhà Ân (Thương) được trao cho tuấn mệnh đến vua Trụ thì tận. Tuấn mệnh ấy do Trời trao, nhưng biểu hiện qua lòng dân. lòng dân hướng về đâu, tức lòng Trời hướng về đấy. Tuy nhiên, tuấn mệnh không phải vĩnh viễn trao cho một ai, hay cho một dòng tộc nào. Ai được lòng dân thì giữ được tuấn mệnh; ai mất lòng dân thì mất tuấn mệnh. Vì mất lòng dân, cho nên một trận Mục Dã mà vua Trụ đã đại bại.

Nhìn vào tấm gương ấy, Kinh Thi đã để lại lời răn dạy cho kẻ đọc sách đời sau: “Hãy coi nhà Ân làm mẫu; mệnh lớn không dễ dàng đâu.” (Nghi giám vu Ân, tuấn mệnh bất dị.)

Tại sao “không dễ dàng?

Không dễ dàng, bởi vì được mệnh đã khó, giữ mệnh còn khó hơn. Muốn được mệnh phải là một cá nhân lỗi lạc, gồm đủ tài đức, có khả năng đem dân qua cơn nước sôi lửa bỏng của thời cuộc, nếu đó là người mở nghiệp một triều đại. Nếu là một người kế tục sự nghiệp cha ông, thì dù kém tài cũng phải có đức để gây được sự tín nhiệm, tạo được sự đoàn kết của những người cộng tác xung quanh mình, không gây nên những tội lỗi tày đình đối với dân chúng. Vì được mệnh thì khó, cho nên ai đã ở ngôi tôn quí (vua) thường cứ muốn khư khư nắm giữ suốt đời và truyền tử lưu tôn. Chỉ có bậc thánh nhân như Nghiêu Thuấn mới chịu truyền mệnh cho người hiền.

Còn giữ mệnh khó hơn ở chỗ: một vị lãnh tụ khi đã ở ngôi tôn quí rồi, thường trở nên kiêu căng; có vũ khí, quyền lực trong tay thì coi rẻ dân chúng.

Ngoài ra, chung quanh vị lãnh tụ ấy có biết bao điều cám dỗ khiến cho khó lòng tránh khỏi sự ham muốn hưởng thụ. Đã kiêu căng, cậy quyền, tham muốn dục vọng… lại thêm ưa nịnh hót, tâng bốc, thì người ấy mất cả những đức tính của một vị lãnh đạo lý tưởng là: nhún nhường, nhu thuận, trung chính. Từ chỗ mất trung chính đến chỗ mất mệnh chẳng có bao xa. Từ xưa đến nay chữ “mất mệnh” thường bao hàm cả hai trường hợp: Mất tuấn mệnh và mất tính mệnh!

Do đó, người viết phần Truyện chương này đã đưa ra một qui luật chắc nịch:

Đạo đắc chúng, tắc đắc quốc, thất chúng, tắc thất quốc: Nói cho rõ là được dân chúng, thì được nước, mất dân chúng, thì mất nước.”

Chữ “đạo” ở đây không phải là danh từ nên không có nghĩa là đường lối; mà là một động từ, có nghĩa là “nói cho rõ lẽ.” Đây là một hình thức văn pháp dùng để nhấn mạnh: được dân chúng, thì (chắc chắn) được nước.” Được dân chúng tức là được toàn dân hướng lòng về mình, sẵn sàng nghe lời mình, sẵn sàng chấp nhận lệnh do mình ban ra mặc dù phải chịu gian khổ. Vào thời Tam Quốc bên Trung Hoa, Lưu Bị không có một tấc đất; lúc khởi đầu chỉ làm chức huyện lệnh nhỏ mọn. Nhưng vì được lòng dân, Lưu Bị đi đến đâu, nghe thấy tiếng là dân chúng đem cơm giỏ nước bầu ra đón, vui mừng hớn hở; lúc ra đi, thì người khóc lóc, kẻ xin theo. Trong ba yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, con người ấy đã nắm được “nhân hoà”; cho nên ông mới cùng chia ba giang sơn ở thế chân vạc, sánh với Tào Tháo nắm “thiên thời” và Tôn Quyền nắm “địa lợi”.

Còn “mất dân chúng, thì (chắc chắn) mất nước”. Những tấm gương “mất dân, mất nước” có nhiều vô số kể từ xưa đến nay. Ở nước Việt ta, tiêu biểu là nhà Lý mất nước về tay nhà Trần; nhà Trần mất nước về tay cha con Hồ Quí Ly; cha con Hồ Quí Ly mất nước về tay nhà Minh (Trung Quốc) đều là những trường hợp đã làm mất lòng dân cả.

Vì thế, người viết phần Truyện rút ra một kết luận như sau:

Thị cố, quân tử tiên thận hồ đức. Hữu đức, thử hữu nhân; hữu nhân, thử hữu thổ; hữu thổ, thử hữu tài; hữu tài, thử hữu dụng: Vậy nên, bậc quân tử trước hết là thận trọng giữ đức. Có đức, ấy là có người; có người ấy là có đất; có đất ấy là có của; có của ấy là có chỗ dùng.”

Bậc quân tử ở đây chỉ những người trong hàng ngũ cai trị. Đứng trong hàng ngũ cai trị, từ vua tới quan, thì phải thận trọng giữ đức. Trong những phần trên đã nói tới ba đức hiếu, đễ, từ, cần thiết trong việc tề gia. Trong qui mô quốc gia, hiếu, đễ, từ trở thành ba đức lão (kính người già), trưởng (trọng người trên), tuất (thương kẻ mồ côi). Những đức ấy được phát huy trên nền tảng minh đức. Minh đức có sáng láng mới phát huy ra được các đức hiếu, đễ, từ, lão, trưởng, tuất.

Có được những đức ấy thì việc tề gia thành tựu và mọi người dân trong nước phải tín phục (hữu đức thử hữu nhân). Được mọi người dân tín phục thì đất nước là nơi của dân chúng sẽ trở thành quốc thổ dưới quyền cai trị của mình (hữu nhân thử hữu thổ). Cho dù mình không muốn, ắt cũng bị dân chúng nài ép bắt phải nắm quyền cai trị. Thế mà đất là tài nguyên quốc gia, là nơi sinh sản ra các phẩm vật, lương thực, quặng mỏ, vàng, bạc, châu báu…

như thế, có đất tức là có của (hữu thổ thử hữu tài). Có của tức là có cơ sở để làm cho dân giàu nước mạnh, để xây dựng nền móng thịnh vượng lâu dài cho cả dân tộc.

Tuy nhiên cần lưu ý đến chữ “dùng” ở đây. Người lãnh đạo đất nước và hàng ngũ cai trị phải biết cách “dùng” những của cải cho đúng chỗ. Làm thế nào để tránh tình trạng tham nhũng, lạm dụng của cải trong hàng ngũ cai trị. Làm thế nào để có sự quân bình của cải trong dân chúng: người có tài, có sức, chăm việc, khéo làm phải được hưởng nhiều hơn những kẻ kém tài, ít sức, vụng về, lười biếng… Của cải lại phải được tích lũy để súc tích nền tài chính, làm phong phú kho lẫm quốc gia. Của cải cần phải được trao đúng chỗ, chi đúng việc để thực hiện những kế hoạch xa, những công trình gần để mưu cầu hạnh phúc cho dân chúng.

Đoạn 3: Đức là gốc, của cải là ngọn. Gốc đặt ở ngoài, ngọn đem vào trong, ấy là tranh giành với dân bày ra việc cướp giật. Vậy nên, của cải họp lại, thì dân tản ra; của cải tản ra thì dân họp lại. Vậy nên, có lời ngang trái đưa ra, cũng có điều ngang trái theo vào; tiền của vào theo cách ngang trái, cũng đi ra theo cách ngang trái.

Thiên Khang Cáo nói: “Riêng mệnh không ở mãi.” Nói cho rõ là thiện thì được, chẳng thiện thì mất.

Sách nước Sở nói: “Nước Sở không lấy gì làm quí, riêng lấy điều thiện làm quí.”

Ông Cữu Phạm nói: “Người mất nước chẳng lấy gì làm quí; lấy việc yêu người thân làm quí thôi.”

BÌNH GIẢI:

Đường lối cai trị của sách Đại học thuộc về Đế đạo, cho nên nội dung sách luôn luôn đề cao “đức”.

Trong câu “Đức là gốc, của cải là ngọn” ở đây, cổ nhân không có ý nói đức của cải thuộc về một thực thể như gốc và ngọn là hai phần thuộc về một cái cây. Đối với cái cây, do gốc mà có ngọn; không có gốc thì không có ngọn; ngọn từ gốc mà sinh ra; gốc cây là điều kiện ắt có của ngọn cây.

Giữa đức của cải không có cùng tương quan như vậy. Nghĩa là không phải do đức mà có của cải; không phải không có đức thì không có của cải; không phải của cải từ đức mà ra; dĩ nhiên đức không phải là điều kiện ắt có cho của cải.

Đành rằng tục ngữ Việt Nam có câu: “Ở cho có đức, mặc sức mà ăn”; nhưng trong thực tế, có khi không có đức vẫn có của cải, mà còn có của cải nhiều là đằng khác. Ví dụ, làm quan tham ô (thất đức) vơ vét của dân về nhà mình; hoặc tục ngữ nói: “Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.” Vì thế, đức tiền của không hẳn phải đi với nhau như gốc ngọn.

Trong phần Truyện này, cổ nhân chỉ muốn nói đức là chính, của cải là phụ. Mọi người phải coi trọng đức, coi nhẹ của cải; phải đề cao đức hơn mọi thứ của cải (tiền bạc, châu báu, nhà cửa, đồ ăn, thức mặc…). Nhất là đối với những nhà cai trị, là cha mẹ của dân, là gương mẫu cho dân học tập, lại càng phải thượng tôn đức hơn nữa. Trọng nghĩa khinh tài (coi nặng điều nghĩa, coi nhẹ của cải) mới là đạo của người quân tử.

Tại sao phải coi đức là chính?

Trong con người, phần cao cả nhất là đức (minh đức). Đức là phần biểu trưng của con người so với con vật. Đức là thiên mệnh gắn liền với Trời. Con người mất đức hoặc chôn vùi đức tức là tự cắt đứt mối liên hệ với Trời. Như thế, con người sẽ mất sự sáng tâm linh, tâm thức bị mù loà như loài vật, sẽ sống trong đau khổ nhục nhằn. Và còn đau khổ nhục nhằn hơn loài vật vì người là con vật có ý thức.

Do minh đức mà con người có những năng lực tốt lành làm cho chính mình và tha nhân được hạnh phúc. Nói khác đi, những năng lực tốt lành đó là những đức hạnh. Những đức hạnh phổ thông của con người theo phạm trù Nho giáo là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nhân: lòng yêu thương con người, muốn cho mọi người được tốt lành.

Nghĩa: sự cư xử có tình có lý, công bằng, thủy chung.

Lễ: các hình thức tạo nên mối tương giao tốt đẹp trong gia đình, xã hội.

Trí: sự hiểu biết sáng suốt giúp cho hành động đúng đắn.

Tín: tạo niềm tin nơi mọi người bằng lời nói về trung thực.

Xét về phương diện tề gia, trị quốc của người cai trị, những đức hạnh cần thiết phải thể hiện đã được đề cập ở phần trên là: hiếu, đễ, từ, lão, trưởng, tuất.

Nếu một xã hội hoàn toàn không có minh đức hiện diện trong mỗi người, không có những đức hạnh được phát huy và triển khai trong tương giao giữa người với người, chắc chắn đó không còn là một xã hội loài người nữa. Và dĩ nhiên, cũng đừng nói gì tới văn minh, văn hóa, văn hiến, văn nghệ, văn chương…

Bởi vì nói đến văn là nói đến vẻ đẹp có sự tham dự của những giá trị tinh thần có liên quan tới đức hạnh với sự chủ trì của minh đức trong tâm hồn. Một xã hội, gồm toàn những thành phần thiếu vắng minh đức là một xã hội còn tệ hơn xã hội loài vật! Có lẽ đành phải mượn tiếng bình dân mà chỉ: đó là xã hội loài quỉ! Bởi vì đó là một tập thể đầy rẫy những thói xấu, với những cách cư xử quỉ quái, tối tăm… thiếu sự hướng dẫn của ánh sáng tâm linh.

Tại sao phải xem của cải là phụ?

Xem của cải là phụ không có nghĩa là hoàn toàn không cần của cải, mà chỉ là đặt của cải xuống hàng thứ yếu, phụ thuộc. Dĩ nhiên, Trời sinh ra con người có hàm răng để nhai, có cái dạ dày biết đói, thì con người cần có của ăn; con người còn có cái thân biết lạnh, thì cần có của mặc…

Nhưng ai đã từng có kinh nghiệm nhiều trong đời sống sẽ thấy rằng : người nào không có đức, mà chỉ có của cải thì không thể có hạnh phúc được. Còn người có đầy đức mà chỉ có của cải ở mức tối thiểu, vẫn có hạnh phúc dồi dào.

Kìa như thiền sư Bashô ở Nhật, chỉ có một bộ áo trên mình, có một chiếc bát để xin cơm mà còn thấy là thừa; không nhà cửa, chùa chiền, tiện đâu ngủ đó, thế mà lòng luôn vui.

Trong nhân loại đã có người thậm chí không những bỏ của cải mà còn bỏ cả mạng sống mình để giữ lấy đức nữa, để tìm hạnh phúc vĩnh hằng!

Cổ nhân khuyên người ta xem của cải là phụ, tức là không thượng tôn của cải, không bao giờ nhắc nhở đến tiêu ngữ “tất cả vì của cải”. Tuy nhiên trong thực tế xã hội, đã không ít người tôn của cải lên bậc thần thánh. Đó là tục thờ “thần tài”. Thờ “thần tài” không chỉ là biểu thị quan niệm trọng của cải trong ngôn ngữ thông thường mà thôi. Người ta còn tạc tượng, vẽ tranh “thần tài” để tôn thờ bằng cách hằng ngày dâng hương cùng với hoa quả, xôi thịt và lời khẩn cầu. Người ta thờ như thế để xin đắc tài, đắc lợi (một vốn bốn lời).

Dĩ nhiên, chẳng có thần tài nào cả để ban và để xin. Đó không phải cái gì khác hơn là hiện tượng phóng ngoại tâm thức của những người ham của. Cả Công giáo, Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo, Ấn giáo, Hồi giáo đều không có thần tài. Và hầu như tôn giáo nào trong các tôn giáo kể trên cũng đều lên án của cải. Của cải làm băng hoại con người. Riêng đối với Công giáo lên án tiền bạc, của cải lại càng nặng nề.

Về của ăn, Cựu Ước nói: “Người ta sống không nguyên bởi bánh…” (Thứ Luật: 8,3).

Về ăn, uống, mặc, Tân Ước nói: “Vậy các ngươi chớ áy náy mà rằng: chúng ta sẽ ăn gì, sẽ uống gì, sẽ lấy gì mà mặc? Đã hẳn các điều đó, dân ngoại nong nả kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, rõ biết là các ngươi cần hết những điều đó. Tiên vàn, hãy tìm kiếm Nước (Trời), cùng sự công chính của Người, và mọi điều đó sẽ được ban thêm cho các ngươi.” (Matthêu: 6, 31- 33).

Giữa Thiên Chúa và của cải, Đức Giêsu nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc chuộng chủ này mà khinh chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.” (Matthêu: 6, 24). Dưới kiến giải của Tân Ước thì làm tôi Thiên Chúa tức là đi con đường đức hạnh.

Trong suốt Cựu Ước, đặc biệt là qua sách các tiên tri, đâu đâu cũng thấy Thiên Chúa lên án những kẻ giàu có từ bỏ đức nghĩa. Trong khoản luật dành cho vua có điều sau: “và nó đừng chuốc cho có nhiều vàng bạc một cách vô độ” (Thứ Luật: 17, 17).

Phật giáo thì cho rằng một trong ba thói xấu mà người tu cần từ bỏ là lòng tham. Tham lam tiền bạc, của cải làm cho con người lệ thuộc vào thế giới vô thường. Tham cùng với sân, si là ba thứ lửa nung nấu tâm thức, khiến cho con người không thể giải thoát được. Để giải trừ lòng tham, người ta cần sống với tâm thức vô cầu và tu hạnh bố thí.

Nói chung, các tôn giáo lớn đều xem nhẹ của cải. Sở dĩ phải xem nhẹ bởi vì của cải là đầu mối làm cho con người mất sự bình an nội tâm, xã hội mất ổn định và an ninh. Đức hạnh càng nhiều càng tốt vì làm cho người ta trở nên tốt đẹp; trái lại, của cải càng nhiều thì càng làm cho người ta dễ trở nên xấu xa.

Đành rằng tục ngữ nói: “Có thực mới vực được đạo” hoặc là “Bần cùng sinh đạo tặc”. Hai câu này nói lên giá trị của tiền của trong đời sống.

Điều đó không sai. Quả thực trong một chừng mực nào đó, của cải nuôi sống con người, tạo nên hoà khí giữa người với người (Phú quí sinh lễ nghĩa). Tuy nhiên, ham thích của cải quá mức lại làm hư hỏng người ta. Lòng ham của tạo nên những nết xấu như: ích kỷ, bất công, ghen tuông, sa đọa, trụy lạc… Ngoài ra, của cải dưới hình thức thực phẩm cao lương mỹ vị còn gây ra vô số bệnh tật. Như vậy, vai trò tiền của chỉ là phương tiện, không thể là cứu cánh của đời sống được. Do đó, cổ nhân trong phần Truyện này đã xem của cải là phụ, là ngọn.

Sau khi đã xác định vị trí của đức hạnh và tiền của trong bậc thang giá trị, người viết phần Truyện nói: “Ngoại bản, nội mạt, tranh dân, thi đoạt: gốc đặt ở ngoài, ngọn đem vào trong, ấy là tranh giành với dân, bày ra việc cướp giật.”

Gốc đặt ở ngoài” tức là đức hạnh bị đẩy ra ngoài, đóng vai phụ; “ngọn đem vào trong” tức là tiền của được ôm ấp vào lòng, đóng vai chính. Tiền của chi phối toàn thể tâm lý con người.

Đâylà một trường hợp giả định đặt ra cho người cai trị. Nếu người cai trị xa rời minh đức, coi rẻ đức hạnh, chịu sự cuốn hút của tiền bạc, của cải, ắt sẽ xảy ra tình trạng máu tham làm mờ mắt, ra sức vơ vét của dân chất đầy vào kho lẫm của mình. Ngoài việc đặt ra các sắc thuế nặng nề, người làm vua, làm quan còn tạo nên cả một hệ thống sách nhiễu từ thấp lên cao để thu vén cho hết vàng bạc, châu báu, quí phẩm trong dân. Làm như thế tức là người cai trị đã tranh giành với dân về của cải. Hậu quả là dân không còn coi người cai trị là cha mẹ của mình nữa. Bấy giờ họ coi vua quan là giặc cướp. Ca dao Việt Nam đã nói:

Con ơi, nhớ lấy lời này:

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.”

Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đã cực tả cảnh tượng quan quyền sai lính tráng đi vơ vét của dân như sau:

“Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh

Rụng rời khung cửi, tan tành gói may.

Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.”

Họ vu vạ cho dân lành tội nọ tội kia, nhưng lý do chính vẫn là tranh giành của cải với dân:

“Một ngày lạ thói sai nha,

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.”

Họ vơ vét rồi lại còn bắt giam, hành hạ người; muốn được tha thì phải thêm tiền vào:

“Tính bài lót đó luồn đây,

Có ba trăm lượng việc này mới xuôi.”

Cảnh tượng vua quan thời phong kiến dưới triều Minh (Trung Hoa) tranh của với dân đó xem ra vẫn tái diễn trong thời Nguyễn và thời Pháp thuộc cuối thế kỷ 19 ở Việt Nam. Cho nên Nguyễn Khuyến trong một bài thơ Vịnh Kiều đã nói bóng gió:

“Muốn yên phải biện ba trăm lượng,

Đời trước làm quan cũng thế a?!

Một khi đã coi vua quan là quân cướp ngày, thì dân phải ra sức giành giựt lại của cải đã bị mất. Vì thế trong nước diễn ra hiện tượng giặc giã nổi lên như ong. Vua quan đã bày ra sự cướp giật, thì dân chúng cũng đua nhau cướp giật; nếu không cướp giật được của vua quan thì cướp giật lẫn nhau.

Bọn cướp giật nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc chuyên cướp của vua quan và bọn nhà giàu, bọn cường hào, ác bá, tay sai vua quan… là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc. Đi ăn cướp mà được dân chúng mến mộ, tôn làm anh hùng; về sau chuyện được viết thành tiểu thuyết (Thủy Hử), được soạn thành phim, đã làm say mê hàng triệu độc giả, khán giả xưa nay, đủ biết dân chúng căm ghét cay đắng những nhà cai trị “tranh dân, thi đoạt” như thế nào!

Về nghĩa hai chữ “tranh dân”, vào thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu đã giải thích theo một hướng khác: “tranh cho được dân”. Có lẽ cụ Phan, với tâm thức của một chí sĩ cách mạng, đã bị ám ảnh về đường lối cai trị của thực dân Pháp, đã từng đương đầu với vũ lực của Pháp cho nên đã giải thích như vậy. Ông viết:

“Bởi vì không trau về đức mà chỉ đua về tài, đức mỏng tất nhiên dân không theo, dân không theo nên phải tranh cho được dân; muốn tranh cho được dân, tất nhiên phải dùng đến võ lực. Một phương diện đã thua kém vì đức, còn một phương diện lại tham lam vì của, tất bên này cướp bên nọ, bên nọ cướp bên này, diễn thành ra tấn tuồng đạo tặc (tranh dân, thi đoạt).

“‘Tranh dân’, nghĩa là muốn dân về mình mà dùng bằng cách chiến tranh. Thi đoạt’, nghĩa là muốn của về mình mà dùng bằng ngón cướp bóc. Bốn chữ ấy chính là chính sách thực dân địa của đế quốc đời nay.”

(Khổng học đăng, Quyển II, trang 294).

Xem chừng, cụ Phan cả giận thực dân đế quốc thì nói thế; chứ thực ra hiện tượng “tranh dân, thi đoạt” (Tranh giành với dân, bày ra cướp giật) đã từng diễn ra trong thời phong kiến từ lâu rồi. Xưa nay, đâu đâu trên thế giới cũng có hiện tượng ấy. Đã đành thực dân đế quốc là những người ngoại bang chẳng thương dân mình cho cam! Ngay đến đồng bào ruột thịt, cùng một quốc tổ mà tranh đoạt như vậy, mới thật là đáng trách và đáng tiếc!

Của cải tuy được các nhà đạo đức coi là phụ thuộc, nhưng chính nó lại gây nên những biến động lớn trong lịch sử thế giới. Ở đây, việc thu gom của cải vào tay những nhà cai trị được gọi là hiện tượng “tài tụ”; việc chuyển của cải san sẻ vào tay dân chúng được gọi là hiện tượng “tài tán”. “Tụ” hay “tán” đều gây những hậu quả nghiêm trọng. Người viết phần Truyện nêu ra qui luật về những hậu quả này như sau:

Thị cố, tài tụ, tắc dân tán; tài tán, tắc dân tụ: Vậy nên, của họp lại, thì dân tán ra; của tán ra thì dân họp lại.”

Tài tụ” là tình trạng của cải trong dân bị vơ vét hết hoặc vào vua, vào quan, hoặc vào các hào phú tay chân của vua quan. Thế mà vua quan và tay chân chỉ là một thiểu số trong nước so với đại đa số là dân chúng. Tài tụ thì dân chúng nghèo xơ xác, thiếu cơm ăn, áo mặc, thiếu cả nhà cửa trú ngụ. Do đó, dân chúng chẳng những bị lầm than, mà còn phải tha phương cầu thực, tản lạc khắp nơi, bỏ hoang ruộng đất, trở thành những kẻ ăn mày nơi đất khách quê người. Đó là hiện tượng “dân tán”. Dân đã lưu tán đó đây, thì vua quan còn cai trị ai nữa; cho nên sớm muộn gì, triều đại có những người cai trị tranh đoạt đó cũng phải sụp đổ. Triều đại sụp đổ sẽ diễn ra hiện tượng ngược lại: đó là của cải tản ra, không còn gom vào tay một thiểu số nữa; hoặc của cải do dân mới làm ra không còn bị thu gom nữa. Vì thế, dân chúng sẽ bảo nhau họp lại, cùng nhau tái thiết đất nước (Tài tán, tắc dân tụ).

Quả thực “tài tụ, tắc dân tán; tài tán, tắc dân tụ” là một qui luật lịch sử từ ngàn xưa đến ngàn sau, không bao giờ sai chạy.

Vào khoảng thế kỷ 13, Khmer là một vương quốc giàu mạnh, văn minh rực rỡ. Thế mà sau 60 năm, tập trung sức của, sức người vào việc xây đế đô Angkor Watt (Đế thiên Đế thích), dân chúng Khmer đã tản lạc hết, bỏ lại sau lưng một hoàng cung nguy nga tráng lệ, vua quan đêm ngày truy hoan trong những vũ điệu mê hồn. Chẳng bao lâu, vương triều sụp đổ vì không có dân ủng hộ. Thế rồi, dân chúng cũng quên luôn cả Angkor Watt trong rừng sâu, không còn bén mảng tới nữa, khiến nơi này trở thành phế tích. Và sau đó, dân chúng lại tụ hội ở Phnom Pênh (Nam Vang) để mở ra một vận hội mới cho dân tộc Khmer.

Ai đã từng đọc Kinh Thánh Cựu Ước đều biết chuyện các vương triều Samari Juda vào thế kỷ 8 trước Công nguyên, chỉ lo thu tích của cải, ăn chơi xa xỉ, không thiết gì đến hạnh phúc của dân. Đến khi đại quân Assur tiến vào, không có dân ủng hộ, quyết tử đương đầu, cả Samari và Juda trước sau kế tiếp nhau đại bại. Các vương hầu, khanh tướng, quí tộc… đều phải lưu đày sang đế quốc Balylone làm thân nô lệ. Quốc đô Jêrusalem bị tàn phá, dân Do Thái bị xiêu tán khắp nơi, gần 100 năm sau mới tái lập được đất nước.

Thời nay, qui luật “tụ, tán” này đã được một số nhà tư tưởng hé thấy, trong đó phải kể đến sử gia Hoa Kỳ Will Durant. Trong bộ Lịch Sử Văn minh, sau khi nghiên cứu cẩn thận các nền văn minh trên thế giới từ cổ đại, ông nhận thấy rằng của cải có khuynh hướng tụ, tán theo từng chu kỳ. Nếu của cải “tụ” vào tay một thiểu số người (vua, quan, phú hào…) thì sẽ gây nên một cuộc khủng hoảng lớn trong xã hội. Cuộc khủng hoảng sẽ dẫn tới một cuộc xô xát mà người ta thường mệnh danh là một cuộc cách mạng. Thế là của cải phải “tán” ra. Sau một thời gian “tán” ra, của cải lại được thu hom vào tay một thiểu số tư bản, tài phiệt mới: hiện tượng “tụ” tái xuất hiện. Và lại xảy ra một cuộc cách mạng mới trong xã hội. Chu kỳ này thường kéo dài trong khoảng trên dưới 100 năm!

Karl Marx cũng đã nhận thấy như vậy; cho nên vào thế kỷ 19 ông mới đưa ra “biện chứng” tư bản và vô sản; đồng thời kêu gọi giới vô sản đứng lên làm cách mạng giải quyết hiện tượng “tài tụ”!

Nếu hiện tượng “tụ, tán” cứ tái diễn như một qui luật của lịch sử thì cuộc đời chẳng đáng bi quan lắm sao? Có phương thế nào để giải quyết trọn vẹn hiện tượng ấy hay không?

Về phương diện kinh tế, hiện nay các nước tư bản Tây phương đã cố gắng giải quyết tình trạng “tài tụ” bằng cách thiết lập những đại công ty kinh doanh có sự tham gia dưới hình thức “cổ đông” của rất nhiều người, kể cả các thợ thuyền làm việc trong công ty, xí nghiệp… Các cổ đông này hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia việc kinh doanh của công ty để được chia phần lợi nhuận. Nơi diễn ra thường xuyên sự trao đổi, góp vốn của các “cổ đông” là thị trường chứng khoán. Biện pháp này tương đối đã tránh được sự thu gom của cải vào tay một thiểu số phú hào tài phiệt, đồng thời cũng tương đối tránh được tệ nạn “người bóc lột người”.

Trong tương lai, chưa biết các chế độ chính trị và kinh tế thế giới còn dẫn nhân loại tới đâu; nhưng hiện nay biện pháp này đã tạm hóa giải được biện chứng “tư bản và vô sản”, đã từng gây ra sự tranh chấp khắc nghiệt trong nhiều thế kỷ của nhân loại.

Tuy nhiên, sự giải quyết rốt ráo nhất phải diễn ra trong tâm hồn con người mà sách Đại học đã đề cập tới trong chương Truyện này. Đó là mọi người phải nhìn nhận “Đức là gốc, của cải là ngọn.” (Đức giả bản dã, tài giả mạt dã.). Lý do chính yếu tạo nên hiện tượng “tài tụ” là người ta đã thượng tôn của cải; xem của cải là gốc, là chính; và đã thờ ngẫu tượng “thần tài” như chúa tể!

Từ xưa đến nay, việc thu gom của cải về mình hầu hết được thực hiện theo đường lối ngang trái (chiếm đoạt, bóc lột, lừa lọc, bịp bợm…).

Theo luật nhân quả, gieo nhân ngang trái sẽ gặt quả ngang trái. Người viết phần Truyện diễn giải qui luật ấy ở đây như sau:

“Thị cố, ngôn bội nhi xuất giả, diệc bội nhi nhập; hóa bội nhi nhập giả, diệc bội nhi xuất: Vậy nên, có lời ngang trái đưa ra, cũng có điều ngang trái theo vào; tiền của vào theo cách ngang trái cũng đi ra theo cách ngang trái.”

Trước hết, cổ nhân nêu ví dụ về lời nói. Thực tế cho thấy rằng ai dùng lời nói dịu dàng, thân mật với người thì cũng được người đáp lại bằng lời nói dịu dàng, thân mật tương xứng. Ai mắng nhiếc xỉ vả người thì người cũng đáp lại bằng những ngôn ngữ tương tự. Qui luật về ngôn ngữ phản hồi trong cõi nhân sinh cũng tương tự như qui luật phản hồi ánh sáng. Trừ trường hợp người bị mắng nhiếc là một hiền nhân, hoặc nhất thời người ấy quá thua kém người kia về quyền hành địa vị thì đành phải nhịn; nhưng gặp một cơ hội thuận tiện nào đó, người ấy sẽ mắng lại.

Đối với tiền của cũng không khác. Nếu tiền của được thu gom vào theo cách ngang trái (hóa bội nhi nhập), nghĩa là tiền của chiếm được bằng sự chiếm đoạt, bằng sự lừa bịp… bằng đường lối bất nghĩa, trái đạo lý; thì tiền của ấy sẽ được chi tiêu (đi ra) theo lối bất nghĩa, hoặc có ngày bị người khác tước mất cũng theo lối trái đạo lý. Thực tế cho thấy rằng những người cai trị (vua quan…) vơ vét tiền của của dân chúng thì chính họ, hoặc vợ con họ sẽ tiêu những tiền của ấy theo lối bất chính, và chính gia đình của họ sẽ bị băng hoại (hư hốt, bệnh tật, mất hạnh phúc…). Những đồng tiền vào nhà bằng cách ngang trái như: cờ bạc, trộm cắp, trấn lột, buôn ma túy… sớm muộn gì cũng ra đi một cách ngang trái, và gây nên những tai họa, hệ lụy không ít cho người sử dụng. Cổ nhân gọi những đồng tiền ấy là “của phù vân”, của không có mồ hôi nước mắt, của phi nghĩa. Các ngài đã dạy con cháu:

Tiền cờ bạc để ngoài sân, tiền phù vân để ngoài ngõ.” Nghĩa là người có đạo đức không lý đến những tiền ấy, không bao giờ kiếm tiền theo đường lối trái đạo lý. Nói đi nói lại thì sách Đại học ở đây vẫn khuyên người ta trọng đức hạnh, khinh tiền của. Có như vậy xã hội mới ổn định, đất nước mới trị an, thiên hạ mới thái bình.

Để biện minh cho quan điểm của mình, người viết phần Truyện trích dẫn cổ thư: “Duy mệnh bất vu thường: Riêng mệnh không ở mãi.” Đây là lời vua Vũ Vương nói với em là Khang Thúc (tên Phong) do Chu Công thuật lại, trích trong thiên Khang Cáo (Kinh Thư). Mệnh trong câu này chỉ đến cái phận sự trị dân mà Trời trao cho một người nào. Mệnh đó thật là to tát và cao quí nhưng không được trao vĩnh viễn cho ai, hay cho một dòng họ nào.

Nói cho rõ lẽ là người nào có đức, đi trong đường thiện hảo thì nhận được mệnh; người nào không có đức, không sống thiện hảo thì mất mệnh (Đạo thiện tắc đắc chi; bất thiện, tắc thất chi hỹ.). Muốn biết mệnh Trời hướng về ai, thì cứ xem ý dân. dân theo ai, người ấy có mệnh cai trị; dân bỏ ai, tức là Trời bỏ người ấy.

Bàn về điều thiện, Sở thư nói rằng: “Sở quốc vô dĩ vi bảo; duy thiện dĩ vi bảo: Nước Sở không lấy gì làm quí, riêng lấy điều thiện làm quí.”

Câu này được trích trong sách Quốc Ngữ, vốn là lời của một sứ thần nước Sở trả lời cho một vị quan nước Tấn, khi ông ta hỏi về giá một dây đai ngọc có tiếng là vật báu của nước Sở.

Sở là một nước nằm ở Hoa Nam thuộc Nam phương là chư hầu của nhà Chu vào thời Xuân Thu Chiến quốc. Trong sách Trung Dung, Khổng tử có nói với Tử Lộ về sức mạnh của người phương Nam: “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo (Lấy khoan dung, mềm dẻo để dạy dỗ, không báo thù kẻ vô đạo.) (Trung Dung: chương 10). Như thế, Khổng tử có ý cho rằng người phương Nam (trong đó có nước Sở) hướng về điều thiện. Một lần khác, có người kể cho Khổng tử nghe về việc vua Sở đi săn, bị mất cái cung; những kẻ hầu cận tâu vua, xin cho người đi tìm. Vua nói: “Vua nước Sở mất cung, người nước Sở bắt được, chứ đi đâu mà tìm.” Khổng tử cho rằng câu nói ấy đã hay, nhưng nếu nói: Người này mất đi, người khác bắt được, chứ đi đâu mà tìm” mới thật là hoàn toàn.

Những điều đó chứng tỏ rằng nước Sở hướng về điều thiện. Thiện là hành vi của đức.

Để cũng cố thêm cho lập trường trọng đức, người viết phần Truyện lại nêu ra một chứng cứ nữa:

Cữu Phạm nói: “Vong nhân vô dĩ vi bảo; nhân thân dĩ vi bảo: Người mất nước chẳng lấy gì làm quí, lấy việc yêu người thân làm quí thôi.”

Cữu Phạm tức là Quốc cữu Tử Phạm, cậu của công tử Trùng Nhĩ (sau này là Tấn Văn Công), chính tên là Hồ Yển, một trong những bầy tôi tòng vong của Trùng Nhĩ. Sau khi xảy ra việc tiếm đoạt trong Tấn triều, công tử Trùng Nhĩ lánh nạn sang nước Tần. Trước lời khuyên của vua Tần hãy trở về dẹp loạn và giành lấy ngôi vị. Hồ Yển đã thay cháu mình là Trùng Nhĩ trả lời vua Tần bằng câu nói trên: “Vong nhân” tức là “Vong quốc chi nhân” (người mất nước) chỉ Trùng Nhĩ.

Với câu này, Hồ Yển (Cữu Phạm) muốn thể hiện đức độ của công tử Trùng nhĩ, không màng ngôi báu, châu ngọc, quyền bính… mà chỉ lấy lòng yêu người thân hay đức nhân từ và thân ái làm của quí thôi. Cũng vì công tử Trùng Nhĩ và đám cận thần tòng vong có lòng nhân đức, cho nên đi đến nước nào cũng được mọi người mến mộ, ân cần tiếp đãi tử tế. Chung cuộc, Trùng nhĩ đã về được nước, phục hồi vương vị và làm cho nước Tấn trở nên hùng mạnh, ngang hàng với các cường quốc Tề, Sở, Tống, Tần thời Xuân Thu.

Nhân thân” là lòng yêu người thân, trong đó thân nhất phải kể đến cha mẹ, rồi đến anh em. Có yêu thương người thân thì mới biết yêu dân chúng là đồng bào ruột thịt và yêu non sông, đất nước. Nếu ai không yêu người thân, sẵn sàng bỏ người thân chạy theo của cải, người ấy không thể hy sinh vì dân nước được.

Thế thì, trong câu nói của Cữu Phạm, “nhân thân” cũng là điều thiện; Trùng Nhĩ quí điều thiện tức là quí gốc. Ở đây, câu này và câu trong Sở thư được dùng để làm sáng tỏ quan điểm điều thiện là gốc, là chính, là điều đáng ôm ấp ở trong lòng. Ôm ấp điều thiện tức là thượng tôn đức. Đó là điều kiện cần thiết để làm cho đất nước được trị an, xã hội ổn định, thiên hạ thái bình.

Đoạn 4: Thiên Tần thệ nói rằng: “Ví bằng có một người bầy tôi nào đó, thật là thành khẩn, không có tài năng nào khác, mà lòng thì thảnh thơi cởi mở, dường như có khả năng bao dung. (Thấy) người có tài năng, coi như mình có, (thấy) người tốt đẹp thông tỏ, lòng thấy ưa thích, dường như chẳng những nói ra miệng, còn thật lòng bao dung, dùng người ấy có thể giữ gìn được con cháu và dân đen của ta, ngõ hầu cũng có lợi biết bao!

“(Thấy) người có tài năng, ghen tuông ghét bỏ; (thấy) người tốt đẹp thông tỏ, thì ngăn trở, khiến cho không thăng tiến được, thật chẳng có lòng bao dung; dùng người ấy không thể giữ gìn được con cháu và dân den của ta, cũng là nguy hại biết bao!”

Chỉ có người nhân mới biết trục xuất kẻ đó, đuổi đi bốn xứ mọi rợ, không cho cùng ở trong nước. Như thế thật là chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người.

BÌNH GIẢI:

Tần Thệ là một thiên sách được đặt cuối phần Chu Thư, và cũng là cuối Kinh Thư. Người ta đã từng cho rằng khi sắp xếp như vậy trong lúc san định Kinh Thư, có lẽ Khổng tử đã đoán trước được nhà Tần sắp hưng vượng, nhà Chu sắp suy tàn; và sau này chính nhà Tần sẽ thay thế nhà Chu thống nhất Trung quốc. Nếu sự sắp xếp ấy không phải do chính Khổng tử mà được thực hiện sau khi nhà Tần đã thay thế nhà Chu, thì sự sắp xếp ấy cũng hợp lẽ.

Tần Thệ là lời thề bảo của vua Tần Mục Công đối với các sĩ phu, quần thần. Vào thời Xuân Thu, Kỷ tử xin vua Tần Mục Công cho xuất quân đánh nước Trịnh. Hiền thần Kiển Thúc và Bách Lý Hề đều khuyên không nên xuất quân. Mục Công không nghe, sai con trai bách Lý Hề là Mạnh Minh, một võ tướng hiếu thắng, thống lĩnh đại binh đi đánh Trịnh. Việc không thành. Khi đại quân Tần về qua đất Hào bị phục binh nước Tấn đánh tan, cầm tù các võ tướng. Cả nước Tần mang một nỗi nhục nhã, đau thương. Vua Mục Công hối lỗi, vì thế mà có thiên Tần Thệ này.

Bản văn Tần Thệ trong Kinh Thư (bản do Thẩm Quỳnh dịch) so với đoạn văn Tần Thệ ở sách Đại Học có sai khác vài chữ, nhưng không quan hệ. Tần Mục Công nói:

“Nhược hữu nhất cá thần, đoán đoán hề, vô tha kỹ, kỳ tâm hưu hưu yên, kỳ như hữu dung yên. Nhân chi hữu kỹ, nhược kỷ hữu chi; nhân chi ngạn thánh, kỳ tâm hiếu chi; bất thí nhược tự kỳ khẩu xuất, thật năng dung chi, dĩ năng bảo ngã tử tôn lê dân; thượng diệc hữu lợi tai!

Ví bằng có một người bầy tôi nào đó, thật là thành khẩn, không có tài năng nào khác, mà lòng thì thảnh thơi cởi mở, dường như có khả năng bao dung. Người có tài năng, coi như mình có; người tốt đẹp thông tỏ, thì lòng thấy ưa thích, dường như chẳng những nói ra miệng, còn thật lòng bao dung; dùng người ấy có thể giữ gìn được con cháu và dân đen của ta, ngõ hầu cũng có lợi biết bao!”

Người bầy tôi nào đó” được vua Tần mơ ước ở đây là một đại thần đóng vai Tể Tướng, thay vua điều khiển trăm quan cai trị đất nước. Ý tứ của vua Tần tỏ rõ rằng khi chọn một bầy tôi rường cột không nhất thiết phải cần một người có tài, nhưng cần nhất phải có đức. Có tài mấy mươi mà kiêu căng, phách lối, không được nhiều người tài năng khác góp sức, một mình cũng chẳng làm nên việc. Những đức hạnh được vua Tần nêu ra là:

Thành khẩn.

Thảnh thơi cởi mở.

Bao dung.

Không ghen tài (người có tài năng, coi như mình có).

Yêu mến người hiền (người tốt đẹp… lòng thấy ưa thích).

Không giả dối (miệng và lòng như nhau).

1. Thành khẩn (đoán đoán).

Đó là thành thật nhìn nhận những ưu, khuyết điểm của mình. Từ chỗ biết nhìn nhận, người thành khẩn có thể phát triển ưu điểm và sửa sai khuyết điểm. Trong đức tính này, Khổng Tử nói: “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. 知之為知之,不知為不知,是知也。” (Biết thì nói là biết, không biết nói là không biết, ấy là biết vậy.) (Luận Ngữ: Vi chính). Thành khẩn còn đưa tới đức tính khiêm nhượng, một đức rất cần thiết cho người lãnh đạo.

2. Thảnh thơi cởi mở (hưu hưu).

Thảnh thơi cởi mở thể hiện một tâm trạng bình an, không thành kiến, không mặc cảm. Người nặng thành kiến, tư tưởng tình cảm dễ bị thiên lệch về một bên, chỉ ưa thích một loại người hợp với thành kiến của mình. Người nặng mặc cảm hoặc tự tôn, hoặc tự ti dễ xa cách mọi người, khó lòng hoà đồng. Thảnh thơi cởi mở là tâm hồn của bậc đại nhân, thích hợp với địa vị của một tể tướng thay vua tiếp xúc với quần thần.

3. Bao dung:

Bao dung là khả năng chấp nhận những khuyết điểm của người, sẵn sàng tha thứ, độ lượng, quảng đại, không chấp nhất chuyện nhỏ nhặt; là khả năng lắng nghe, thu nạp, bênh vực những kẻ kém may mắn. Có đức bao dung mới có thể thu gom được những anh tài có tính khí khác thường, trái ngược nhau để rồi đặt đúng chỗ cho họ thi triển được sở trường. Bởi vì, tục ngữ nói: “Dụng nhân như dụng mộc” (Dùng người như dùng gỗ). Nhà chính trị tài ba cũng tương tự như người thợ mộc giỏi vậy.

4. Không ghen tỵ:

Người không ghen tỵ luôn luôn bình thản, khi thấy người có tài hơn mình thì vui vẻ như mình có. Chẳng những không gièm pha, vùi giập, lại còn tạo điều kiện và cơ hội cho tài năng ấy được phát huy. Thấy người thành công cũng như mình thành công, cùng hoan hỉ chia sẻ niềm vui với người.

5. Yêu mến người hiền:

Thấy người có tài đức, thông minh, nhân hiền, tốt đẹp (ngạn thánh) thì ưa thích, muốn gần gũi để bắt chước, học hỏi, hoặc mời cộng tác để cùng lo việc ích quốc lợi dân.

6. Không giả dối:

Người giả dối và có tâm địa nham hiểm thì miệng nói và tấm lòng trái nhau (khẩu Phật tâm xà). Ở đây, lòng yêu mến biểu hiện ở môi miệng qua lời ngợi khen, cùng với tấm lòng bao dung sẵn sàng tiếp thu, dung nạp.

Người nào gồm đủ 6 đức tính trên mà được trọng dụng ở ngôi vị tể tướng (thủ tướng) mặc dầu không có tài gì đặc biệt vẫn có đủ khả năng cai trị đất nước thành công, bảo vệ được dân chúng, giữ yên bờ cõi. Bởi vì với những đức tính ấy, người này sẽ thu phục được nhân tâm, sẽ khiến cho những kẻ sĩ anh tài trong nước mến mộ, sẵn sàng đến phục vụ dưới trướng để vui lòng chịu sai khiến.

Nếu xét theo Dịch lý thì vị đại thần trong niềm mơ ước của Tần Mục Công, thay vua trị nước, ứng với hào Lục Ngũ trong quẻ Tổn:

Quẻ Cấn Quẻ Đoài Quẻ Tổn gồm thượng quái là quẻ Cấn (núi), hạ quái là quẻ Đoài (đầm). Đó là tượng núi cao và đầm sâu bên nhau. Làm chính trị cũng khó khăn và nguy hiểm như đứng bên núi cao, đầm sâu; không khéo thì bị té ngã, sự nghiệp sụp đổ. Người quân tử làm việc nước phải nghĩ cách ngăn ngừa. Trong lòng người, núi cao là sự tự cao, sự tức giận, sự khinh người.., đầm sâu là dục vọng, là sự giả dối với những âm mưu độc hiểm…

Muốn trị nước thành công, người làm chính trị phải biết vận dụng quẻ Tổn, giảm trừ tính tự cao, sự tức giận… giảm trừ dục vọng, âm mưu độc hiểm, mới được lòng dân.

Hào từ Lục ngũ nói:

Hoặc ích chi thập bằng chi qui, phất khắc vi, nguyên cát. (Ví như thêm cho con rùa đáng giá, chẳng được chối, rất tốt.”

Trong thời đất nước gặp suy thoái (thời Tổn), vị đại thần Lục ngũ (thay vua ở ngôi nguyên thủ) này lại âm nhu, nghĩa là biết khiêm nhường, thành khẩn, từ bỏ tính cứng rắn cường bạo, cao ngạo thường có ở các nhà cai trị. Người này chắc chắn được dân chúng ngưỡng mộ, tuân phục ví như được một con rùa lớn đáng quí. (Rùa là loài âm tính, chỉ dân chúng là những người thụ động đối với nhà cầm quyền). Khi mọi người, nhất là những kẻ sĩ hoàn toàn qui phục, làm sao có thể từ chối không lãnh đạo. Vì thế, việc trị nước ắt tốt đẹp, quốc gia sẽ hưng thịnh.

Thực ra 6 đức tính trên có thể gom về một đức nhân. Nhân là biết chinh phục lấy mình, tuân theo tiết điệu uyên nguyên của trời đất. (Khắc kỷ, phục lễ vi nhân: Luận ngữ, Nhan Uyên) Nhân cũng là yêu người (ái nhân). Nhân còn là tổng hợp của các đức tính: cung kính, khoan hoà, trung tín, chăm chỉ, sáng suốt (cung, khoan, tín, mẫn, huệ. (Luận ngữ, Dương Hóa).

Ngoài mẫu người đại thần lý tưởng nói trên, Tần Mục Công cũng nêu ra mẫu người đối lập, không thể đảm nhiệm chức vụ điều khiển việc nước được:

“Nhân chi hữu kỹ, mạo tật dĩ ố chi; nhân chi ngạn thánh, nhi vi chi, tỷ bất thông, thật bất năng dung; dĩ bất năng bảo ngã tử tôn lê dân; diệc viết đãi tai!: Người có tài năng, thì ghen tuông ghét bỏ; người tốt đẹp thông tỏ thì ngăn trở, khiến cho không thăng tiến được, thật chẳng có lòng bao dung; dùng người ấy không thể giữ gìn được con cháu và dân đen của ta, cũng là nguy hại biết bao!”

Loại người này có tâm địa nhỏ nhen, thấy người tài giỏi hơn mình thì ghen tuông, ganh ghét, có khi còn trù dập, hãm hại để tránh sự cạnh tranh với mình sau này. Thấy người có đức hạnh, thông minh, người này cản trở không cho tiến thân, không cho người ta có cơ hội phát huy tài năng (tỷ bất thông). Đây là loại tiểu nhân nham hiểm, nếu được ở địa vị cao thì rất nguy hại cho quốc gia.

Chẳng những không có lượng bao dung được các anh tài, người này còn khiến kẻ sĩ phải xa lánh, không hợp tác. Ngoài ra, để tạo vây cánh cho mình, người này còn thu thập những tên côn đồ thất dức vô hạnh khác làm tay sai, thiết lập nên một tập đoàn đầy thế lực có thể khuynh đảo chính quyền, gây tai hại không ít cho dân nước. Do đó, làm một minh quân không thể dùng loại người này ở ngôi tể tướng thay mình trị nước được. Người này không bảo bọc được dân chúng, trái lại vì quyền lợi của mình còn có thể nướng dân đen trong biển lửa!

Trong bản văn Tần Thệ ở Kinh thư, còn có thêm lời kết luận của Tần Mục Công như sau:

Bang chi ngột niết, viết do nhất nhân. Bang chi vinh hoài, diệc thượng nhất nhân chi khánh. ”Sự nghiêng đổ của đất nước là do một người. Đất nước vẻ vang; an bình cũng tại chuộng được một người có phúc lành.”

Người có phúc lành là đại thần có đức; người làm cho đất nước nghiêng đổ là đại thần thất đức. Đối với kẻ thất đức ấy, người viết phần Truyện đưa ra giải pháp sau:

Duy nhân nhân phóng lưu chi, bỉnh chư tứ di, bất dữ đồng trung quốc: Chỉ có người nhân mới biết trục xuất kẻ đó, đuổi đi bốn xứ mọi rợ, không cho cùng ở trong nước.”

Xưa nay, nhiều người cứ hiểu nhầm rằng người nhân là người có lòng từ ái, hay thương xót, sẵn sàng tha thứ, thông cảm cho kẻ có tội. Thực ra nhân từ, thương xót, tha thứ là những tính tốt; nhưng nếu xử lý việc quốc gia mà quá nhân từ lại hóa ra nhu nhược, lẫn lộn kẻ có tội với người có công, kẻ xấu với người tốt thì hỏng việc. Hậu quả là một mặt không khích lệ được người có đức, có công; một mặt lại khiến cho kẻ xấu, kẻ có tội khinh nhờn, không chịu hoán cải. Vì thế, người nhân đích thực phải sáng suốt nhận định tốt xấu, phải trái, lợi hại; nhất là lợi hại không phải cho cá nhân mình, mà lợi hại cho cả toàn dân. Cho nên, một khi đã nhận định ai là người có hại cho nước thì phải thẳng tay khai trừ. Biện pháp khai trừ được đưa ra ở đây rất nhân đạo: không phải là giết chóc công khai hoặc ám sát, không phải là tru di tam tộc, thập tộc; mà chỉ là đày kẻ ấy đi xa, tống xuất ra ngoài biên ải. Sở dĩ phải làm như vậy vì tránh cho kẻ xấu không có cơ hội tụ tập bè đảng làm loạn, hoặc tạo sự lây nhiễm tính xấu cho những người trong nước. Do đó, người viết phần Truyện đúc kết ý này:

Thử vị duy nhân nhân, vi năng ái nhân, năng ố nhân: Như thế thật là chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người.”

Người nhân đích thực chỉ yêu người trung chính và ghét kẻ bất trung, bất chính. Tuy nhiên ghét cái tính xấu để rồi tìm phương thế giáo dục, khuyên răn, hòng hoán cải kẻ xấu nên tốt; bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện pháp cách ly (cầm tù) hoặc phóng trục (đày đi xa).

Người nhân yêu người trung chính nhưng không để nâng niu chiều chuộng, mà cất nhắc người ấy vào địa vị tương xứng, ngõ hầu có chỗ phát huy tài năng, đức hạnh, mưu ích cho đời.

Thế là ở phần trên, cổ nhân viết Truyện đề cao “đức là gốc”, thì ở đây, người viết để cho sáng tỏ hơn, lại dùng thiên Tần Thệ nhằm trình bày rõ sự lợi hại của đức và thất đức trong việc trị nước như thế nào.

Đoạn 5: Thấy người có tài đức mà không chịu cất nhắc, cất nhắc mà không chịu đưa ra trước, là khinh thường vậy. Thấy kẻ chẳng lành mà không chịu bỏ đi, bỏ đi mà không chịu đày đi xa, lầm lỗi vậy.

Ưa thích cái thứ người ta ghét, ghét cái thứ người ta ưa thích, ấy gọi là trái với tính con người. Tai họa ắt theo đến thân. Vậy nên bậc quân tử có đường lối lớn này: hễ trung thành tín thực thì được, kiêu căng xa xỉ thì mất.

Việc làm ra của cải có đường lối lớn này: làm ra thì nhiều, ăn tiêu thì ít; làm thì mau mắn, chi dùng thì thư thả; như vậy của cải thường xuyên đầy đủ.

Người nhân lấy của cải phát triển thân mình; kẻ bất nhân lấy thân mình phát triển của cải.

Chưa từng có người trên ưa thích điều nhân mà người dưới không ưa thích điều nghĩa. Chưa từng có sự ưa thích điều nghĩa mà việc không thành tựu. Chưa từng có của cải trong kho tàng mà chẳng phải là của cải của người trên vậy.

BÌNH GIẢI:

Tư tưởng của đoạn văn này vẫn nằm trong sự nhất trí của toàn chương “trị quốc bình thiên hạ”, cho nên người viết Truyện nói về việc tiến cử người ra đảm đương việc nước. Với chủ trương trọng đức, cổ nhân nói:

Kiến hiền nhi bất năng cử, cử nhi bất năng tiên, mệnh dã: Thấy người có tài đức mà không chịu cất nhắc, cất nhắc mà không chịu đưa ra trước, là khinh thường vậy.”

Hiền là người có tài đức. Đó là vốn quí của đất nước. Làm một người lãnh đạo đất nước ở ngôi vua hay ở ngôi tể tướng, kể cả người cai trị ở bậc dưới, thấy người hiền thì phải cất nhắc, tiến cử ngay. Chẳng những thế còn phải ra công tìm kiếm người hiền, khao khát người hiền như khát nước. Đã cất nhắc thì phải đặt người hiền vào đúng chỗ xứng với tài năng của họ. Không đúng chỗ, sở trường của họ không thể phát huy được. Thế mà người hiền đâu dễ có và dễ kiếm? Làm cho người hiền không thi triển được tài năng là làm uổng phí mất tài nguyên quốc gia.

Có trường hợp, vì sợ mang tiếng với quốc dân về việc không biết chuộng hiền tài, người lãnh đạo cũng cất nhắc, tiến cử. Nhưng cất nhắc một cách bất đắc dĩ; hoặc là chậm chạp trong sự bổ nhiệm, hoặc đặt vào địa vị thấp kém khiến người hiền tủi hổ, bất mãn, phẫn chí mà không chịu trổ tài. Đó là trường hợp “cử nhi bất năng tiên”, không chịu đưa ra trước mình, hoặc đề bạt lên địa vị trên mình, làm mất chỗ đứng của mình. Cất nhắc như thế là khinh thường người hiền. Chẳng những khiến cho người hiền không trổ tài được, mà vô tình hoặc cố ý chứng minh cho mọi người biết người ấy bất tài.

Chữ “mệnh” () trong câu văn này làm cho nhiều học giả lúng túng. Có thể ngày xưa cổ nhân dùng một chữ khác; nhưng lâu ngày, tam sao thất bản, chữ “mệnh” () mới được thay thế vào. Hoặc vốn là chữ “mệnh” () nhưng không có nghĩa như ngày nay. Xét theo ý tứ trong mạch văn, đa số các học giả xưa nay đều cho rằng chữ “mệnh” () tương đương với chữ “mạn” () có nghĩa là khinh thường. Trình tử lại cho rằng nên là chữ “đãi” ( : chểnh mảng).

Đối với người hiền thì như thế, việc trị nước còn đòi hỏi phải có thái độ dứt khoát với kẻ xấu:

Kiến bất thiện nhi bất năng thối, thối nhi bất năng viễn, quá dã: Thấy kẻ chẳng lành mà không chịu bỏ đi, bỏ đi mà không chịu đày đi xa, lầm lỗi vậy.”

Kẻ chẳng lành tức là kẻ xấu. Kẻ ấy có thể làm hỏng việc nước, gây nguy hại cho cá nhân, đoàn thể. Kẻ xấu vì mưu lợi cho riêng mình có thể gièm pha, xúi bẩy, gây nên cảnh tương tàn tương sát trong nước. Cho nên thấy kẻ xấu trong tập đoàn cai trị, người lãnh đạo phải tìm cách loại bỏ ngay; lại phải đẩy xa khỏi đoàn thể để tránh di họa. Nếu người lãnh đạo nhu nhược, cả nể hay vì lòng nhân không đúng chỗ, chỉ hạ tầng công tác của người đó mà không đẩy đi, có thể do tính không dứt khoát đó, kẻ xấu lại tìm cách nịnh bợ và dùng những âm mưu, những thủ đoạn độc hiểm để khuynh đảo chính quyền. Nếu để xảy ra việc tày đình như vậy, không phải chỉ là lầm lỗi mà thôi. Phải gọi đó là tội nặng của người cai trị.

Trong mạch văn ở đây, câu trên dành cho người lãnh đạo đất nước (vua, quan). Nhưng đối với người thường, câu trên có thể được dịch là: “Thấy điều chẳng lành mà không chịu bỏ đi, bỏ đi mà không chịu xa lánh, lầm lỗi vậy.”

Trong việc tu thân để trở nên người công chính, đây là một lời khuyên rất hay. Phải dứt khoát đoạn tuyệt với điều xấu mới tự lột xác được.

Để thành tựu đại sự quốc gia, nhà cai trị phải hiểu tâm lý quần chúng và thuận theo quần chúng:

Hiếu nhân chi sở ố, ố nhân chi sở hiếu, thị vị phất nhân chi tính. Tai tất đãi phù thân: Ưa thích cái thứ người ta ghét, ghét cái thứ người ta ưa thích, ấy gọi là trái với tính con người. Tai họa ắt theo đến thân.”

Cổ nhân dùng chữ “sở” ở đây rất thâm thúy vì nó chỉ định nhiều loại: người, vật, chỗ, sự, điều… “Sở ố” là thứ đáng ghét, “sở hiếu” là thứ ưa thích.

Bản tính chung của con người, đặc biệt là của một đám đông (quần chúng) là ưa thích người tốt (hiền), ghét kẻ xấu (bất thiện); ưa thích chỗ ổn định, ghét chỗ rối loạn; ưa thích sự công chính (thanh liêm), ghét sự tham nhũng…

Nếu người cai trị mà ưa thích kẻ xấu, ưa thích rối loạn, ưa thích tham nhũng, đồng thời ghét người hiền, ghét ổn định, ghét thanh liêm… tức là người ấy có khuynh hướng trái ngược với tính tự nhiên của mọi người. Đã có khuynh hướng trái thì sẽ làm trái. Làm trái ý dân chúng, khiến cho dân chúng khốn cùng là áp bức dân. Ở đâu có áp bức thì ở đấy có đấu tranh; đó là qui luật. Có đấu tranh thì nổ ra cách mạng.

Nói theo Kinh Dịch, trong thiên nhiên khi có một sự oi bức khắc nghiệt, tức là có một sự trái nghịch về nhiệt độ, thì sẽ xảy ra một trận phong lôi; gió dậy sấm ran, cát bay đá chạy… làm thiệt người, thiệt của. Về phương diện chính trị, cuộc cách mạng nổ ra thì dân chúng phải xuôi ngược và tai họa ắt phải đến với người cai trị.

Trên nguyên tắc, xét về mặt tình cảm, ngoại trừ phải yêu thương cha mẹ, vợ con, anh em… người ta có quyền ưa thích hay ghét bỏ cái gì tùy tâm lý của mình. Tuy nhiên, một khi đã ở ngôi vị người cai trị, người ấy không có quyền ưa, ghét theo ý riêng mình; mà phải ưa, ghét theo ý kiến chung của dân chúng. Bởi vì sự ưa, ghét của người cai trị có liên hệ mật thiết với sinh mệnh và hạnh phúc của toàn dân.

Người cai trị ưa thích người hiền thì dân được hạnh phúc; ưa kẻ xấu thì dân bị khốn cùng. Người cai trị thích thanh liêm thì dân ấm no; thích tham nhũng thì dân bị bóc lột.

Vì thế, phần Truyện được viết tiếp:

Thị cố quân tử hữu đại đạo, tất trung tín dĩ đắc chi, kiêu thái dĩ thất chi: Vậy nên bậc quân tử có đường lối lớn này: hễ trung thành tín thực thì được, kiêu căng xa xỉ thì mất.”

Bậc quân tử ở đây chỉ người lãnh đạo đất nước. Đường lối lớn và phương thế rất quan trọng, là khuôn vàng thước ngọc trong việc cai trị. Đó là: trung thành với lý tưởng phục vụ dân chúng; tuyên bố, hứa hẹn lời nào thì phải thực hiện cho được; đừng có nuốt lời, đừng có làm trái lời đã hứa; và phải làm cho nhanh, không nên chần chừ trì hoãn. Đã làm cha mẹ của dân thì không bao giờ bỏ dân bơ vơ, đói khát; đã hứa với dân cũng như đã hứa với con cái. Cha mẹ không nỡ dối gạt con thì người cai trị cũng không được dối gạt dân. Nếu không trung tín mà lại kiêu căng, khinh bỉ dân; ngoài ra còn ăn mặc xa xỉ, chi tiêu hoang phí; người cai trị như thế là sâu mọt của dân. Trung tín thì được lòng dân và giữ được địa vị của mình. Kiêu căng xa xỉ thì mất lòng dân, từ đó sẽ mất địa vị của mình; và có khi còn dẫn đến tình trạng mất nước vào tay ngoại bang nữa.

Trong công cuộc trị nước, bình thiên hạ, quan trọng hàng đầu là vấn đề kinh tế, khiến cho dân chúng có lương thực, của cải đầy đủ. Vào thời Xuân Thu, dân cư chưa được đông đúc, Khổng tử chủ trương việc chính trị có 3 điều hệ trọng: thứ, phú, giáo.

Thứ là làm cho dân đông. Phú là làm cho dân giàu. Giáo là dạy dân biết lễ nghĩa. Trả lời cho Tử Cống về việc chính trị, Khổng tử nói: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ. ” (Đủ ăn, đủ binh, dân tin mình vậy.) (Luận Ngữ: Nhan Uyên). Việc lo cho dân đủ ăn, rồi sau đó tiến đến mức giầu là việc của nhà cai trị phải tính toán.

Ở đây, đường lối làm cho của cải được sản xuất ra nhiều gọi là “sinh tài.” Phần Truyện viết.

“Sinh tài hữu đại đạo: sinh chi giả chúng, thực chi giả quả, vi chi giả tật, dụng chi giả thư; tắc tài hằng túc hỷ: Việc làm ra của cải có đường lối lớn này: làm ra thì nhiều , ăn tiêu thì ít; làm thì mau mắn, chi dùng thì thư thả; như vậy của cải thường xuyên đầy đủ.”

Dĩ nhiên, mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh xã hội, có một đường lối phát triển kinh tế khác nhau, hoặc bằng thủ công, hoặc bằng cơ khí hóa, hoặc bằng phương pháp cá thể, hoặc bằng phương pháp dây chuyền… Ở đây, sách Đại Học vẫn đứng tại ví trí “đạo lược” là bàn đến đường lối cốt lõi có thể áp dụng cho mọi nơi, mọi thời và làm kim chỉ nam cho mọi người.

Để có của cải nhiều thì phải sản xuất nhiều (sinh chi giả chúng). Phần trên đã nói: “Hữu nhân, thử hữu thổ; hữu thổ thử hữu tài… 有人此有土,有土此有 … (Có người ấy là có đất; có đất ấy là có của.) Đất là tài nguyên thiên nhiên. Đất sản sinh ra thực vật, động vật; khoáng vật (bao gồm các mỏ than, sắt, đồng, chì, kẽm, vàng, bạc, đá quí…). Con người thêm vào đó trí khôn ngoan và sức lao động thì sinh ra của cải (lương thực, đồ dùng…). Làm nhiều ắt sinh ra nhiều của cải. Hẳn là nếu biết cải tiến kỹ thuật, biết cơ khí hóa lại càng tạo ra của cải nhiều hơn, nhanh hơn. Nhưng phải cần một điều kiện đi kèm: ăn tiêu ít (thực chi giả quả). Ăn tiêu ít mới dư của cải. Nếu làm nhiều mà ăn tiêu phung phí, thì có đến đâu hết đến đó. Nghèo vẫn hoàn nghèo. Nếu ai đó “bóc ngắn cắn dài” hoặc “vung tay quá trán”, tức là tiêu xài hoang phí vượt quá khả năng làm ra thì sẽ nghèo mạt. Vậy đạo lý ở đây là: cả nhà nước và toàn dân phải thực hành chính sách tiết kiệm.

Ngoài ra, mọi người dân phải mau mắn trong việc làm (vi chi giả tật). Mau mắn trong công việc, tranh thủ thời gian thì của cải được sản xuất ra nhiều. Nếu chậm chạp và lười biếng, việc sản xuất sẽ bị trì trệ, của cải sẽ ít đi. Để tránh sự hao hụt của cải, tài nguyên, thì việc chi dùng, việc sử dụng các tiện nghi phải thư thả, từ từ. Có theo những đường lối này, của cải mới thường được đầy đủ.

Ngày nay còn một vấn đề được đặt ra liên hệ tới việc sản xuất và tiêu thụ: nếu tiêu thụ nhiều và quá vội vã, chất thải sẽ ra nhiều, gây ô nhiễm cho môi trường sinh thái. Như thế, con người tự đào hố chôn mình sớn. Không tiêu thụ nhiều, con người cũng không cần phải làm việc quá bức bách; do đó chữ nhàn mới có cơ hội hiện diện trên trái đất.

Khi bàn đến đường lối sản xuất ra của cải (sinh tài), lại có một vấn đề khác được đặt ra: đó là mối tương quan giữa của cải và con người (tài thân).

Của cải phát triển con người (tài phát thân), hay con người phát triển của cải (thân phát tài), theo cách nào thì con người được thăng tiến, theo cách nào thì con người bị suy thoái? Theo cách nào là đường lối của người nhân? Theo cách nào là đường lối của kẻ bất nhân? Cổ nhân viết phần Truyện nói:

Nhân giả dĩ tài phát thân; bất nhân giả dĩ thân phát tài: Người nhân lấy của cải phát triển thân mình; kẻ bất nhân lấy thân mình phát triển của cải.”

Câu Truyện này đã tạo nên mấy hướng giải thích. Có học giả cho rằng “người nhân” và “kẻ bất nhân” chỉ hai loại nhà cai trị. Có học giả lại cho rằng đó là hai loại người trong xã hội. Về chữ “thân”, có học giả bảo đó là “thân mình”; có học giả cho “thân” chỉ đến “người ta”.

Các học giả như: Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Trọng Dường, Đoàn Trung Còn, Phan Bội Châu, Couvreur, James Legge… đều hiểu chữ “thân” chỉ “thân mình”, tức là thân của nhà cai trị. Riêng linh mục Bửu Dưỡng thì muốn hiểu đó là “thân thể người khác” hay là “chính con người của kẻ khác” hoặc “người ta” nói chung. Ông viết:

“Hiểu được theo nghĩa sau này, thấy ý tưởng rõ ràng, sâu xa, xác đáng về luật khôn ngoan và trong đường kinh tế. Tùy theo địa vị trách nhiệm, người ta dùng tiền của hay sử dụng đến thân thể hoặc con người của kẻ khác. Người có nhân thì đem tiền của giúp cho đời sống người ta được đầy đủ xứng đáng; còn người bất nhân thì bắt người ta làm việc mệt nhọc, có khi lại hủy hoại thân thể, bán cả thân thể sức lực người ta, để cho mình được nhiều tiền của.” (Tứ thư giải luận: I. Đại Học, Bửu Dưỡng, trang 255).

Hiểu như thế tức là linh mục Bửu Dưỡng đã có cái nhìn tương tự như các nhà xã hội học đầu thế kỷ 20 khi quan sát cách thu gom tài sản của các nhà tư bản tài phiệt (các chủ đồn điền, chủ xí nghiệp) hoặc các chính quyền thực dân, vắt sức lao động của quần chúng.

Ở đây, chúng ta hãy xét đoạn văn này trong khuôn khổ của chương “trị quốc, bình thiên hạ” dưới thời vua quan cai trị ngày xưa, và trong một chừng mực nào đó, đặt mối liên hệ với cách cai trị của mọi nơi, mọi thời.

Người nhân là người biết tự chinh phục lấy mình, sống theo đạo trời và yêu thương người khác (khắc kỷ phục lễ vi nhân ). Trong cương vị một nhà lãnh đạo đất nước, một ông vua, ông quan nhân từ luôn luôn trung tín, không kiêu thái, không thâu tóm của cải cho riêng mình; trái lại biết yêu dân, đem tiền của giúp dân trong những lúc hoạn nạn. Thuế má thu vào có hạn lượng, không ép buộc dân đóng quá mức. Tiền thuế thu được lại đem dùng vào những công trình ích quốc lợi dân như phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế, đầu tư vào việc giáo dục để mở mang dân trí, hoặc để nuôi quân, tăng cường binh bị, giữ yên đất nước… Vào những năm hạn hán, hoặc lụt lội mất mùa, người cai trị nhân từ lại xuất tiền của trong kho để chẩn cấp cho dân. biện pháp đó gọi là “tán tài” (san sẻ của cải) để thu phục lòng dân. Dân được chăm sóc sẽ quay lại biết ơn người cai trị mà phục tòng, ủng hộ, tôn vinh. Đó là cách dùng của cải để giữ yên thân mình hay phát triển thân mình. Đem của cải ra phát triển dân, chính là cách hay nhất để phát triển bản thân nhà cai trị, khiến cho sự nghiệp của nhà cai trị được vững như bàn thạch (dĩ tài phát thân).

Thoán truyện quẻ Ích trong Kinh Dịch nói:

Ích, tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương, tự thượng há hạ, kỳ đạo đại quang.(Quẻ Ích, bớt trên thêm dưới, dân chúng vui vẻ không giới hạn, từ trên xuống dưới, đường lối ấy rất rạng rỡ.)

Quẻ Bĩ

Biến

Quẻ Ích

Quẻ Ích vốn do quẻ Bĩ chuyển sang; trong đó, hào cửu tứ thượng quái được đem xuống thay cho hào sơ lục hạ quái mà thành. Quẻ Bĩ gồm có thượng quái là quẻ Kiền, hạ quái là quẻ Khôn. Kiền tượng trưng cho trời, cho nhà cai trị; Khôn tượng trưng cho đất, cho dân. Trời trên đất dưới; nhà cai trị ở trên, dân chúng ở dưới, ly cách nhau, không có sự giao hoà cảm thông, dân chúng thiếu thốn, nhà cai trị cũng bỏ mặc; vì thế tạo nên sự bế tắc (Bĩ).

Sự chuyển dịch hào dương từ trên xuống dưới và hào âm từ dưới lên trên thay chỗ cho nhau đó gọi là “bớt trên thêm dưới” (tổn thượng ích hạ – 損上益 ). Bớt trên là bớt của cải của nhà cai trị, của giới cầm quyền dư dật mà thêm cho dân chúng thiếu thốn; do đó dân chúng được vui vẻ vô hạn (dân duyệt vô cương – 民悅無疆). Như thế, không còn sự ly cách giữa nhà cai trị và dân chúng nữa; sự bế tắc giải quyết (quẻ Bĩ chuyển thành quẻ Ích).[59]

Kẻ bất nhân chỉ biết có mình; mọi hoạt động đều qui hướng vào mục đích ích kỷ; từ đó nảy sinh ra những tội ác và tật xấu. Trong cương vị một nhà lãnh đạo đất nước, ông vua, ông quan bất nhân không tha thiết gì tới nguyện vọng, hạnh phúc của dân chúng; mọi nỗ lực chỉ cốt vinh thân phì gia. Thay vì san sẻ của cải ra cho dân chúng (tán tài) bằng những biện pháp cải thiện đời sống của dân, thực hiện công bằng xã hội; nhà cai trị bất nhân không từ bỏ những cơ hội thuận tiện, những thủ đoạn tàn nhẫn để thu tích của cải (tài tụ). Dĩ nhiên cách cai trị như vậy sẽ tạo nên sự bất mãn trong dân chúng, khiến cho nhà cai trị phải dùng những biện pháp trấn áp. Do đó, hố ngăn cách giữa chính quyền và dân chúng mỗi ngày một bị đào sâu cho tới lúc gây nên một cuộc đổ vỡ không thể cứu vãn được. Chung cuộc nhà cai trị sẽ gặp nguy cơ bị sát thân. Tình thế ở trên ứng vào lời Truyện: “Kẻ bất nhân lấy thân mình phát triển của cải (Bất nhân giả dĩ thân phát tài). Lấy thân phát triển của cải, cuối cùng lại bị họa sát thân, không được hưởng của cải trọn đời. Đó là điều đáng tiếc cho kẻ bất nhân.

Khác với đường lối của người nhân, nhà cai trị bất nhân lấy của dân đắp thêm vào kho tài sản vốn nhiều của mình. Kinh Dịch gọi đó là hiện tượng “tổn hạ ích thượng” (bớt dưới thêm trên). Thoán truyện quẻ Tổn nói:

Tổn, tổn hạ ích thượng, kỳ đạo thượng hành.” (Quẻ Tổn, bớt dưới thêm trên, đường lối ấy hướng lên trên.”

Quẻ Tổn vốn do quẻ Thái biến thành; trong đó hào cửu tam hạ quái được đem lên thế chỗ cho hào thượng lục thượng quái mà nên. Sự trao đổi hào dương từ dưới lên trên thay chỗ cho hào âm đó, gọi là “tổn hạ ích thượng” (bớt dưới thêm trên). Đem hào dương lên trên nghĩa là “đường lối ấy hướng lên trên.” Tổn vừa có nghĩa là giảm bớt vừa có nghĩa là tổn hại, hao hụt. Điều gì đang xấu mà tổn, ấy là giảm bớt (giảm bớt tính nóng giận…). Điều gì đang tốt mà tổn, ấy là tổn hại. Ví dụ, dân chúng đang no đủ mà bị thu vét, gọi là tổn hại.

Quẻ Thái gồm có thượng quái là quẻ Khôn, hạ quái là quẻ Kiền. Khôn trên Kiền là thể âm trên dương (tượng của Hậu thiên bát quái). Về mặt chính trị, âm trên dương chỉ tình trạng giới cai trị ở trên sống thanh liêm, dân chúng ở dưới được phong túc. Về mặt y lý trong cơ thể con người, âm trên dương thị tình trạng đầu mát, chân ấm, thể hiện sự khỏe khoắn. Vì thế, Khôn trên Kiền được gọi là Thái (tốt đẹp an lành). Đó là lý do tại sao trong sự áp dụng của Đạo học Đông phương vào phần thực hành trong cõi nhân sinh, các đạo sĩ dùng Hậu thiên bát quái (Âm nghi trên dương nghi) của Văn Vương chứ không dùng Tiên thiên bát quái của Phục Hy.

Sự chuyển dịch hào dương từ dưới lên trên thay chỗ cho hào âm ở thượng quái, đó gọi là hiện tượng “bớt dưới thêm trên” (tổn hạ ích thượng). Sau khi đổi chỗ như vậy, quẻ Thái (tốt đẹp) biến thành quẻ Tổn (tổn hại).

Quẻ Tổn gồm thượng quái là quẻ dương, hạ quái là quẻ âm. Dương trên âm dưới là âm dương ly cách. Xét về cơ thể con người, hào dương từ dưới lên chỉ hỏa khí từ phần dưới thượng thăng làm cho mặt đỏ, trán nóng; cơ thể bị bệnh. Âm dương ly cách cũng là âm dương nghịch đảo, làm cho ở trên thì đầu choáng váng xây xẩm, dưới thì chân lạnh; sinh mệnh có thể bị lâm nguy.

Xét về mặt chính trị, bớt dưới là xén bớt của cải của dân chúng để đắp vào kho lẫm của giới cai trị vốn đã dư ăn, dư mặc ở bên trên. Quẻ Tổn có tượng là núi (sơn) ở trên đầm (trạch). Núi cao và đầm sâu bên nhau thể hiện thế chông chênh sẵn sàng sụp đổ (núi cao sụp xuống hầm sâu). Đó là cái tượng chỉ sự sụp đổ của chính quyền cai trị sau khi xảy ra một cuộc cách mạng đổi đời; và người cai trị có thể bị thiệt thân.

Vì thế, ở vai lãnh đạo đất nước, người cai trị phải là một bậc nhân thì mọi sự mới tốt đẹp an lành. Cổ nhân viết Truyện nói:

Vị hữu thượng hiếu nhân, nhi hạ bất hiếu nghĩa. Vị hữu hiếu nghĩa, kỳ sự bất chung giả dã. Vị hữu phủ khố tài, phi kỳ tài giả dã: Chưa từng có người trên ưa thích điều nhân, mà người dưới không ưa thích điều nghĩa. Chưa từng có sự ưa thích điều nghĩa mà việc không thành tựu. Chưa từng có của cải trong kho tàng mà chẳng phải là của cải của người trên vậy.”

Xưa nay, việc đời thường diễn tiến theo qui luật: nhân nghĩa không bao giờ rời nhau. Người trên thi thố điều nhân với người dưới, sẽ nhận được điều nghĩa do người dưới đáp trả lại. Người cai trị thương yêu dân chúng, chẳng những đã không bóc lột mà còn chia sẻ tiền của, chia sẻ tình thương với dân chúng; ắt hẳn dân chúng sẽ dùng ân tình và có khi còn dùng sinh mệnh để báo đền.

Vào thời Hậu Tam quốc, Dương Hổ là quan cai trị thuộc Tấn triều, được trao nhiệm vụ giữ vững biên giới tiếp cận Đông Ngô. Dương Hổ chỉ một lòng yêu dân; không muốn dân bị vất vả cực nhọc; thế là mọi người dưới quyền cai trị của ông đều được an lạc, không có trộm cắp trong dân, không có quân thù xâm lấn. Quân dân bên Đông Ngô vì kính nể Dương Hổ mà chẳng hề dám động binh, chẳng dám lấn một tấc đất; vì thế không có việc chinh chiến trong thời gian ông cai trị. Đến lúc qua đời, ai đi qua mộ ông cũng rơi nước mắt khóc thương. Người đời bấy giờ đã xây một tấm bia kỷ niệm. Tục gọi là Trụy lệ bi (bia rơi nước mắt).

Xem thế, điều nhân của người cai trị đã thấm vào lòng dân còn sâu sắc, thấm thía hơn nước ngấm vào đất, muôn đời chẳng quên. Cho dù người cai trị chẳng còn sống mãi để nhận của lễ đền bồi thì vẫn thơm tiếng nghìn thu, muôn người tiếc nhớ.

Một khi dân chúng đã được kích thích bởi điều nhân của người trên mà yêu thích điều nghĩa, thì sẽ kết thành một khối; và không có một ý nguyện nào của người trên mà không được thực hiện. Bởi vì dân chúng hiểu rằng người trên đã có nhân, thì công việc gì do người trên muốn làm đều nhằm phục vụ quyền lợi của dân chúng. Do đó, nhân nghĩa giữa người trên và người dưới đã kết với nhau, thì không có một công việc nào, dù khó khăn mấy mà chẳng hoàn thành, chẳng có trở ngại nào mà không san bằng được.

Bấy giờ, của cải trong kho tàng của nhà nước là của người trên (Vị hữu phủ khố tài, phi kỳ tài giả dã: Chưa từng có của cải trong kho tàng mà chẳng phải là của cải của người trên vậy.” Chẳng có ai cướp đi được. Thực ra, nói kho tàng của người trên (người cai trị, giới cầm quyền) chỉ là nói trên danh nghĩa, chứ kho tàng của người trên tức là kho tàng của nhà nước, là của cải chung của cả người trên lẫn người dưới. Đó là của cải chung của toàn dân, dùng để chi tiêu trong những việc công ích. Hơn nữa, có thể nói chẳng những của cải trong kho tàng mà thôi, đến của cải trong dân chúng cũng là của nhà nước nữa. Nước là dân, dân là nước; làm gì còn có sự phân biệt cái gì là của nước, cái gì là của dân! Miễn sao của cải được chi tiêu, được sử dụng chính đáng, hợp tình, hợp lý mà thôi.

Quan điểm cho rằng của dân tức là của vua, của nước đã được Luận ngữ đề cập đến như sau:

Ai Công vấn ư Hữu Nhược. Viết: “Niên cơ, dụng bất túc, như chi ?” Hữu Nhược đối viết: “Hạp triệt hồ?” Viết: “Nhi ngô do bất túc, như chi hà kỳ triệt dã?” Đối viết: “Bá tánh túc quân thục dữ bất túc? Bá tánh bất túc, quân thục dữ túc?(Vua Ai công [nước Lỗ] hỏi Hữu Nhược [môn đệ Đức Khổng]: “Năm nay mất mùa, chẳng đủ dùng, làm sao được?” Hữu Nhược trả lời: “Sao chẳng dùng phép triệt?” Vua nói: “Gấp hai rồi, ta còn chẳng đủ, huống chi là triệt (một phần)? Hữu Nhược đáp rằng: “Dân chúng đủ; vua không đủ với ai? Dân chúng không đủ, vua đủ với ai?)”

Lấy thuế gấp hai số lượng thuế cho nhà Chu qui định, thế là bóc lột dân rồi; thế mà không đủ dùng, chứng tỏ vua quan và hệ thống cai trị ở nước Lỗ thời ấy đã hoang phí xa xỉ quá lắm. Câu nói của Hữu Nhược có ý muốn nói rằng: một khi dân chúng no đủ, ắt là có của cải góp cho vua, vua hẳn cũng dư đủ; nếu dân thiếu thốn, đói khát, không có gì nộp thuế cho vua, vua còn sống với ai?

Vì thế, làm nhà cai trị cần phải lấy dân làm gốc, phải lo cho dân được no đủ thì đất nước mới tồn tại được. Có vậy mới ứng với niềm mong ước của giới bình dân:

“Ở đời muôn sự của chung,

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.”

Trên thế gian này, của cải và mọi công việc đều là của chung, là bổn phận chung của mọi người; ai cũng phải gánh vác, ai cũng được hưởng. Những người nào xuất sắc, đạo đức đặc biệt thì được mọi người kính ngưỡng, tôn xưng làm anh hùng hay thánh nhân, lưu tiếng ngàn thu, nêu gương muôn thuở. Không ai có quyền thu góp riêng cho mình, làm lệch mất thế thăng bằng của xã hội.

Đó là một xã hội lý tưởng: “xã hội đại đồng”. Tuy nhiên để có thể đạt được lý tưởng như vậy, không thể dùng bất cứ một thế lực nào, một biện pháp bạo tàn nào mà ép uổng được. Hiền triết Trang Chu thời Chiến quốc đã từng chế giễu các biện pháp cố gắng thực hiện “đại đồng” (Tề vật) bằng cách làm cho giò hạc và chân vịt bằng nhau!

Chỉ có một cách duy nhất là kết hợp “nhân nghĩa”; nhưng không phải là thứ nhân nghĩa hình thức, nhân nghĩa môi mép của đám Nho gia hương nguyện, đã từng bị học phái Lão Trang lên án. Nhân nghĩa có thể làm cho xã hội đạt đến “đại đồng” là nhân nghĩa chân thật. Mọi người cư xử nhân nghĩa với nhau như thân tình giữa cha mẹ và con cái. Nhất là người cai trị và hệ thống chính quyền phải có “nhân” với dân. Được như thế, dân sẽ đem “nghĩa” đáp lại. Nhân nghĩa kết hợp thì mọi sự sẽ tốt lành, mọi người sẽ an vui. Và thế gian không còn là bể khổ, không còn là thung lũng đầy nước mắt, thế gian biến thành Nước Trời tại thế vậy.

Đoạn 6: Ông Mạnh Hiến tử nói rằng: “Nuôi ngựa kéo xe, không xét đến gà, heo. Nhà có chứa nước đá không nuôi bò dê. Nhà có trăm cỗ xe không nuôi bầy tôi vơ vét. Ví thử có bầy tôi vơ vét, thà rằng có bầy tôi trộm cắp.”

Như thế gọi là “Nước không lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi vậy.”

Đứng đầu quốc gia mà chăm chắm vào việc dùng tiền của, ắt là do kẻ tiểu nhân, cho đó là ngay lành. Sai khiến kẻ tiểu nhân điều khiển quốc gia, thì tai họa, tổn hại đều đến. Dẫu có bậc ngay lành, cũng không biết làm như thế nào. Như thế gọi là “Nước không lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi vậy.”

Trên đây là chương thứ mười, giải rõ [ý nghĩa của] “trị quốc bình thiên hạ”.

BÌNH GIẢI:

Ở trên, phần Truyện đã nói đến tương quan giữa nhân nghĩa, giữa nhân nghĩa tài (của cải) để rồi đạt đến kết quả tài của nước (vua) cũng là tài của dân, tài của dân cũng là tài của nước. Ở đây, Truyện lại nói đến tương quan giữa nghĩa lợi.

Nghĩa là sự cư xử tương xứng, hết lòng theo tình. Lợi (lợi lộc) là của cải (hiểu theo một qui mô nhỏ hơn tài).

Để cho vấn đề nghĩa lợi được sáng tỏ, người viết phần Truyện trích dẫn câu nói của Mạnh Hiến tử thời Xuân Thu:

Súc mã thặng bất sát ư kê đồn. Phạt băng chi gia bất súc ngưu dương. Bách thặng chi gia bất súc tụ liễm chi thần; dữ kỳ hữu tụ liễm chi thần, ninh hữu đạo thần: Nuôi ngựa kéo xe, không xét đến gà, heo. Nhà có chứa nước đá không nuôi bò dê. Nhà có trăm cỗ xe, không nuôi bầy tôi vơ vét. Ví thử có bầy tôi vơ vét, thà rằng có bầy tôi trộm cắp.”

Đây là một cách nói rất tế nhị. Mạnh Hiến tử là quan đại phu nước Lỗ, một bậc hiền nhân khôn ngoan; cho nên bàn về việc chính trị, ông phải nói khéo léo, dùng cách nói ít hiểu nhiều, nói xa để hiểu sâu; sợ rằng đụng chạm đến các quan đồng triều và ngay cả tới vua. Đụng chạm thì lời nói của mình sẽ phản tác dụng, chẳng những không ơn ích gì mà còn có thể rước họa vào thân.

Do đó, ông dùng chữ rất bóng bẩy. Muốn nói đến hàng quan sĩ, ông dùng từ “nuôi ngựa kéo xe” (súc mã thặng). Nói đến hàng đại thần, khanh tướng, ông dùng từ “nhà có chứa nước đá” (phạt băng chi gia). Nói đến vua chư hầu, trong đó có vua nước Lỗ, bề trên của mình, ông dùng từ “nhà có trăm cỗ xe” (bách thượng chi gia). Đặc biệt hơn nữa, ông dùng những từ “gà, heo, bò, dê” (kê, đồn, ngưu, dương) để ám chỉ những mối lợi nhỏ nhoi của đại đa số dân chúng nghèo nàn. Nói đến những viên quan nhũng nhiễu chuyên bóc lột dân chúng đem tiền của, sản vật về dâng vua, ông dùng từ “bầy tôi vơ vét” (tụ liễm chi thần) cho nhẹ nghĩa.

Những điều Mạnh Hiến tử nói có ý nghĩa như thế này: Đã làm quan trong triều tùy theo cấp bậc trên dưới thì đã được hưởng lương vua, lộc nước, cùng các tiện nghi, các phí khoản phụ cấp, tức là đủ cho sự chi dùng rồi. Lương vua, lộc nước lại chính là tiền thuế do dân đóng góp; vì thế các quan không nên tham gia vào những việc thuộc kế hoạch “kinh tế nhỏ” như là: nuôi gà, heo, bò, dê… hay những công cuộc kinh doanh khác. Nói kế hoạch kinh tế nhỏ là có ý so sánh với việc quốc gia đại sự. Các quan chỉ nên để thời giờ lo toan việc nước, phục vụ dân chúng, đừng lo thu gom từng tí, lợi lộc nhỏ nhoi nữa! Bởi vì làm như vậy, dân nghèo còn sống bằng gì? Không những chỉ là “chăn nuôi gia súc” hay mở ra một cơ sở kinh doanh nào đó… mà còn là tranh giành thị trường của dân. Là một ông quan có nhiều tiền của, lại có thế lực thì có nhiều khả năng thao túng thị trường, hoặc nâng giá hoặc hạ giá, dân nghèo không thể nào đương đầu được.

Như vậy, nếu các quan cai trị mà chú trọng nhiều tới lợi thì sẽ đánh mất nghĩa, tức là làm hại dân, đẩy dân vào chỗ khốn cùng. Dân khốn cùng sẽ đưa đến những hậu quả như: trộm cướp, giặc giã, mại dâm, cư xử tàn nhẫn với nhau… Thế thì thiên hạ thái bình sao được!

Ở cấp độ cao hơn, làm một ông vua chư hầu (nhà có trăm cỗ xe) thì phải ra công cẩn thận hết mức trong việc kén chọn bầy tôi. Chữ “thần” ở đây vừa chỉ các quan lại dưới quyền vua, vừa chỉ những đầy tớ trong cung gồm cả thái giám…

Giá như không có những bầy tôi hiền đức mà bắt buộc phải chọn một trong hai loại tiểu nhân mạt hạng: “bầy tôi vơ vét” (tụ liễm chi thần) hay “bầy tôi trộm cắp” (đạo thần), Mạnh Hiến tử quyết liệt cho rằng thà chọn “bầy tôi trộm cắp” còn hơn. Bầy tôi trộm cắp chỉ là ăn cắp của vua. Ăn cắp vặt thì chẳng đáng kể; còn ăn cắp những vật dụng lớn, sớm muộn sẽ bị phát hiện, và ngăn chặn, khử trừ. Nhưng nếu nhà vua dùng phải hạng “bầy tôi vơ vét”, họ sẽ nhân danh vua để hù dọa dân chúng, sau đó vơ vét tiền của, quí phẩm trong dân chúng đem về dâng vua, đồng thời bồi đắp cho gia sản riêng tư của họ. Nhất thời, bầy tôi vơ vét làm lợi cho vua, tuy nhiên trong cái lợi ấy có mối họa tày đình. Họ đã đánh mất chính nghĩa của quốc gia. Như thế, quốc gia sẽ suy vong, và cơ nghiệp của vua sẽ sụp đổ trong sớm tối.

Vì thế, người viết phần Truyện mới nói:

Thử vị quốc bất dĩ lợi vi lợi, dĩ nghĩa vi lợi dã: Như thế gọi là nước không lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi vậy.”

Có lẽ ở đây cần tán thành cách phân biệt của linh mục Bửu Dưỡng về 2 chữ lợi với ý nghĩa khác nhau: lợi lộc lợi ích. Lợi lộc chỉ của cải thuần vật chất;

tự thân lợi lộc bao hàm cả tốt lẫn xấu. Lợi ích chỉ của cải cả vật chất lẫn tinh thần, giúp cho con người thăng tiến tốt đẹp toàn diện. Ý nghĩa câu này trở thành: “Nước không lấy lợi lộc làm lợi ích, mà lấy nghĩa làm lợi ích.

Làm việc nước mà nêu cao lợi lộc thì cả hệ thống chính quyền cấp trên, cấp dưới và dân chúng chỉ mờ mắt vì lợi lộc, đâm ra tranh giành lẫn nhau, làm cho nước loạn. Nếu nêu cao điều nghĩa, cả hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương đều chú trọng đến việc nghĩa, giữ tình nghĩa với nhau, giữ nghĩa lý trong mọi việc. Đạo nghĩa làm chủ đất nước. Đó mới thật là lợi ích cho đất nước; đất nước được vững bền, dân chúng được an lạc.

Lấy ý tưởng của Mạnh Hiến tử ở trên làm nền, người viết phần Truyện triển khai thêm:

Trưởng quốc gia nhi vụ tài dụng giả, tất tự tiểu nhân hỷ, bỉ vi thiện chi. Tiểu nhân chi sử vi quốc gia, tai hại tịnh chí! Tuy hữu thiện giả, diệc vô như chi hà hỹ: Đứng đầu quốc gia mà chăm chắm vào việc dùng tiền của, ắt là do kẻ tiểu nhân, cho kẻ đó là ngay lành. Sai khiến kẻ tiểu nhân điều khiển quốc gia, thì tai họa, tổn hại đều đến. Dẫu có bậc ngay lành, cũng không biết làm như thế nào.”

Đứng đầu quốc gia là người lãnh đạo đất nước (vua hay tổng thống, chủ tịch). Người lãnh đạo chăm chắm vào việc dùng tiền của, vật dụng tức là người ấy chỉ nghĩ đến lợi lộc và chi tiêu phục vụ cho riêng bản thân mình và cho gia đình mình, chứ không phục vụ dân chúng. (Trưởng quốc gia nhi vụ tài dụng giả). Nếu người ấy biết lo việc tài dụng cho toàn dân thì chẳng có gì đáng nói nữa. Sở dĩ xảy ra tình trạng như vậy là do kẻ tiểu nhân xúi giục, bày vẽ (tất tự tiểu nhân hỹ).

Trong lịch sử, trải qua các triều đại, không thiếu gì kẻ tiểu nhân gợi ý, bày vẽ, tập tành cho các vua chúa cách thức ăn chơi. Dĩ nhiên một khi người lãnh đạo đất nước đã vùi đầu vào việc “tài dụng” thì làm ngơ cho kẻ tiểu nhân dưới quyền làm bậy, tha hồ cho hắn tự tung tự tác trong vai “cáo mượn oai hùm”. Thấy kẻ tiểu nhân tỏ ra hết lòng vì mình, người lãnh đạo lại tưởng lầm hắn là người tốt lành (bỉ vi thiện chi), cho nên cứ tin dùng mãi. Bao nhiêu tin tức về sự lầm than, khốn khổ của dân đều bị kẻ tiểu nhân tay chân bưng bít hết, khiến người lãnh đạo không biết sự thật. Một khi người lãnh đạo đã hết lòng tin cẩn kẻ tiểu nhân mà trao quốc chính cho hắn điều khiển (làm tể tướng hay thủ tướng), thì vô số tai ương và họa hại cùng đến trên đất nước (Tiểu nhân chi sử vi quốc gia, tai hại tịnh chí). Trong triều, những bậc hiền tuấn bị sa thải, ám hại. Ngoài dân chúng, náo loạn diễn ra, giặc giã trộm cướp nổi lên, kỷ cương, đạo đức sa sút, bởi vì dân chúng bị túng quẫn nên sinh ra làm bậy và noi theo gương xấu của những kẻ tiểu nhân. Tiểu nhân trong dân vốn không thiếu. Lâu nay, tiểu nhân phải nép mình tuân theo pháp độ của quân tử như cỏ lướt theo gió. Nay quan đầu triều (tể tướng hay thủ tưởng) đã là kẻ tiểu nhân; dĩ nhiên các loại tiểu nhân trong dân phải vùng lên như nấm gặp mưa. Ngoài ra, các nước lân bang thấy cơ sự như vậy sẽ dòm ngó, tìm cơ hội xâm chiếm, lấn đất. Đó là những tình huống ứng với những chữ “tai hại tịnh chí”.

Trước tình thế rối loạn, suy đồi như vậy, giả sử có bậc ngay lành, tài cao đức trọng cũng không biết dùng phương thế nào để cứu nước, cứu dân. (Tuy hữu thiện giả, diệc vô như chi hà hỹ.)

Cũng chẳng khác gì chiếc xe đò đã bị mất thắng do người lái xe vụng về làm hư, đang khi đổ dốc với tốc độ cao, dù trong xe ấy có người giỏi lái cũng đành bó tay chịu trận, không làm gì được. Trong lịch sử cổ kim, không thiếu gì những bậc tài đức kiện toàn phải mai danh ẩn tích để giữ vẹn tấm thân trước những tình thế tương tự. Đến đức Khổng tử là một người chủ trương nhập thế hành đạo cũng đã từng khuyên các đệ tử: “nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư” (không bước vào nước đang nguy, không ở lại nước đang loạn); bởi vì có thương dân mà ở lại cũng không làm gì được!

Vào thời Xuân Thu, khi đang giữ chức Nhiếp tướng sự, cai trị nước Lỗ thành công, Đức Khổng thấy vua Lỗ nghe theo lời kẻ tiểu nhân là đại phu Quí Tôn Tư, muốn thu dụng cống phẩm “gái đẹp, ngựa quí” của nước Tề; ngài biết việc nước sẽ hỏng nên đã cùng các đệ tử bỏ nước Lỗ ra đi.

Tương truyền Lão tử có nói một câu đại ý: “Làm thầy thuốc sai lầm thì giết một người; làm tướng lãnh sai lầm thì giết ngàn người; làm chính trị sai lầm thì giết mấy thế hệ; làm văn hóa sai lầm thì giết muôn thế hệ.”

Việc điều khiển quốc gia đã nằm trong tay kẻ tiểu nhân tức là việc chính trị và văn hóa đã bị dẫn vào con đường lầm lạc, thì hậu quả của nó rất tai hại và lâu dài. Nếu con đường ấy chưa đi đến chỗ cùng, tài ba đến mấy cũng đành bó tay.

Trong Kinh Dịch, tình thế đất nước ở trong tay những kẻ tiểu nhân và sự vùng lên của các tiểu nhân trong dân chúng đã được biểu diễn qua tượng quẻ Bác:

Đó là hào dương ở trên cùng bị 5 hào âm ở dưới bức phá. Hào dương biểu thị chính nghĩa, đạo đức hay người hiền. Hào âm biểu thị tà thuyết, vô luân hay kẻ tiểu nhân. Một hào dương ở trên biểu thị người hiền cùng chính nghĩa bị cô lập, 5 hào âm ở dưới biểu thị một đoàn lũ tiểu nhân đang hung hăng tiến lên. Tình thế ấy được gọi là Bác, là sự đẽo gọt tài nguyên, thực lực; bác là sự suy mòn của chính nghĩa, đạo đức, là tình trạng hiếm hoi người hiền. Với sức xâm phá mãnh liệt từ dưới lên như vậy, có yêu nước thương dân tới mấy cũng không thể toan tính gì được. Phải đợi cho sự xâm phá ấy đạt đến cùng độ của nó, dĩ nhiên trong đó nhiều người hiền bị chết oan, bấy giờ đoàn lũ tiểu nhân mới rã đám, băng hoại.

Lúc đó, quẻ Bác sẽ biến sang quẻ Phục:

Hào dương bị bức phá trong quẻ Bác di chuyển xuống dưới nằm ở vị trí nền tảng vững vàng. Thế là chính nghĩa được tái sinh, trong dân gian lại có khuynh hướng thích nói chuyện nhân nghĩa, đạo đức; người hiền mới có thể phục hồi được đạo đức, mới có cái thế để tái kiến thiết. Đạo Trời là như thế. Thoán truyện quẻ Phục viết:

Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ. Ở quẻ Phục, có thể thấy được cái tâm của trời đất.” Cái tâm của trời đất là dương khí làm chủ, nếu dương khí mất ngôi chủ thì mọi sự rối loạn. Có dương khí làm chủ, các tinh cầu mới vận động điều hoà được, loài người mới sinh hoạt tốt lành khỏe mạnh, đất nước mới ổn định.

Đức Khổng tử nói: “Quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ”: Quân tử ôm lấy đức, tiểu nhân ôm lấy chỗ ăn, chỗ ở (đất). Ngài lại nói: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi. ”: Quân tử hiểu rõ nghĩa lý, tiểu nhân hiểu rõ lợi lộc. (Luận ngữ: Lý Nhân 11 và 16).

Do đó nếu để cho tiểu nhân điều khiển quốc gia, mà kẻ ấy chỉ chú trọng tới lợi lộc, ăn uống, xài phí cho thoải mái thì việc nước sẽ hỏng mất. Vì thế, phần Truyện ở cuối chương 10 này nhấn mạnh lại một lần nữa:

Quốc bất dĩ lợi vi lợi, dĩ nghĩa vi lợi dã: Nước không lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi.” Việc điều khiển quốc gia nhất định phải được đặt vào tay bậc quân tử.

Chương “trị quốc bình thiên hạ” là chương dài nhất trong phần Truyện; tất cả các ý tưởng đã qui kết việc làm cho thiên hạ được thái bình vào chữ đức. Mở đầu chương, cổ nhân nói đến đức lão (tôn kính người già), đức trưởng (trọng vọng bậc đàn anh) và đức tuất (thương xót kẻ mồ côi). Có đức thì được lòng dân. Thế mà ý dân là ý Trời, cho nên được lòng dân cũng là được lòng Trời. Được lòng Trời tức là có thể kết hiệp với Trời. Người cai trị đã kết hiệp với Trời thì mọi hành động của người ấy và việc cai trị sẽ phù hợp với đạo Trời.

Việc chính trị tuy phức tạp nhưng không ngoài việc triển khai đức trong dân và làm cho dân được no đủ. Triển khai đức tức là phát triển đạo lý nhân nghĩa. Làm cho dân được no đủ là phát triển kế hoạch sinh tài (làm ra của cải).

Trong hai điều ấy, đức phải là gốc, tài hay lợi lộc chỉ là ngọn; hay nói khác đi, đức là chính, lợi lộc là phụ.

Nếu phải chọn một trong hai người để điều khiển quốc gia: một người có đức mà không có tài năng gì đặc biệt, một người có tài năng xuất sắc mà không có đức; thì phải chọn người có đức. Người có đức mới có lòng thương yêu dân chúng; do đó mới có thể trao phó vận mệnh dân chúng cho người ấy bảo quản.

Người lãnh đạo có đức biết thi hành điều nhân với dân chúng; tự nhiên dân chúng sẽ đem điều nghĩa đáp trả và cư xử nhân nghĩa với nhau. Nhân nghĩa kết hiệp thì việc nước sẽ thành tựu. Như vậy chữ đức khi đem vận dụng trong việc trị nước thì biến thành nhân nghĩa. Nói nhân nghĩa là nói sự đối đãi qua lại giữa hai bên: người trên và kẻ dưới hay chính quyền và dân chúng. Một khi người trên và kẻ dưới đã một lòng yêu mến nhau, thì cả hai sẽ nên một. Bấy giờ chỉ còn lại một chữ nghĩa là đủ qui kết cho cả hai đã nên một, đó là tình người.

Tóm lại, muốn cho nước được trị, thiên hạ được thái bình, người lãnh đạo phải cùng với dân chúng lấy nghĩa làm lợi ích. Trong lợi ích bao gồm cả lợi về vật chất (lợi lộc: cơm áo và tiện nghi) lẫn lợi về tinh thần (an vui, hạnh phúc).

Chương này, khởi đầu nói đến những đức tính của người cai trị là lão, trưởng, tuất. Những đức tính này lại được in đúc từ những đức tính thuộc nền đạo đức gia đình: hiếu, đễ, từ. Hiếu, đễ, từ là tình nghĩa trong gia đình. Tình nghĩa trong gia đình chuyển sang lãnh vực chính trị, quốc gia, xã hội biến thành nghĩa đồng bào. Nghĩa gia đình hay nghĩa đồng bào chỉ là đạo đức ở qui mô nhỏ hay qui mô lớn mà thôi. Như thế, ở cấp độ đạo lược, nền chính trị của Nho giáo đã hoàn toàn đặt trên nền tảng đạo đức.

Đoạn kết của Chu Hy: Tóm lại, phần Truyện có mười chương. Bốn chương trước bàn chung về ý chỉ của những điều cốt yếu. Sáu chương sau bàn kỹ về công phu các điều mục. Chương thứ năm làm cho sáng tỏ sự quan trọng của điều thiện. Chương thứ sáu làm cho thành tựu cái phần gốc của thân mình. Ở trình độ mới học, phải cần kíp chăm chú hơn trong việc học [hai chương ấy]. Người đọc không thể cho đó là thiển cận mà xao nhãng.

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn kết này, Chu Hy đưa ra một cái nhìn tổng quát về 10 chương Truyện giải thích phần Kinh văn Đại học. Bốn chương trước gồm: I. Minh Minh Đức. II. Tân dân. III. Chỉ ư chí thiện. IV. Bản mạt.

Theo Chu Hy, bốn chương trước bàn chung về ý chỉ của những điều cốt yếu, thường được quen gọi là “Cương lĩnh Đại học”. Thực ra, chỉ có 3 chương (minh minh đức, tân dân, chỉ ư chí thiện) bàn về cương lĩnh; còn chương 4 (Bản mạt) bàn về phương pháp: muốn thành công trong việc tìm đạo, phải biết phân biệt đâu là gốc ngọn (bản mạt); đâu là khởi đầu và kết thúc (chung thủy); phải biết việc gì cần tiến hành trước, việc gì nên tiến hành sau (tiên hậu). Chữ “đạo” ở đây có thể hiểu rất rộng rãi; đạo tu thân, đạo tề gia, đạo trị quốc, đạo bình thiên hạ. Nói chung đạo là đường lối làm cho con người trở nên công chính, để điều chỉnh gia đình tốt, để trị nước ổn định, để thiên hạ được thái bình. Đạo cũng có thể được hiểu là con đường dẫn đến Chân lý tối thượng.

Có điều, không rõ vì tam sao thất bản hay thế nào mà trong phần Kinh văn, cương lĩnh Đại Học nói đến “thân dân”, sang phần Truyện lại chuyển thành “tân dân”. Người viết phần Truyện chỉ toàn trích dẫn những câu trong cổ thư có chữ “tân” để giải thích. Đó là điều gây thắc mắc cho độc giả hậu sinh, chưa ai giải quyết được! Chuyện này có lẽ liên quan tới vấn đề những ai thực sự là người viết phần Truyện. Chính Trình tử và Chu Hy trong khi khảo duyệt các tài liệu cũ cũng chỉ biết một cách mơ hồ: Truyện là do các môn đệ của Tăng tử ghi chép lại lời giải thích của thầy mình. Nhưng sau đó, có ai bổ sung, sửa đổi hay không, cũng không được biết! Thực ra, tình trạng sai lệch này của kinh điển không phải là luật trừ cho bất cứ một nền tư tưởng nào. Các kinh điển cổ từ Đông sang Tây đều gặp tình trạng như vậy!

Chu Hy cũng nhận định rằng 6 chương sau bàn kỹ về công phu các điều mục. Công phu là nỗ lực được vận dụng để thực hành. Các điều mục gồm: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Trong 6 chương này, Chu Hy nhấn mạnh tới hai chương 5 và 6. Ông cho rằng chương thứ 5 làm sáng tỏ sự quan trọng của điều thiện. Đó là chương bàn về “cách vật trí tri”. Nhưng tiếc thay chương Cách vật gốc của môn đệ Tăng tử hoàn toàn đã thất truyền. Chẳng ai còn biết Khổng môn chân truyền nói về cách vật ra sao. Chương Cách vật đến tay hậu thế ngày nay là của Chu Hy, ông đã dựa theo ý kiến của Trình tử mà luận bàn. Thực ra, vì quá tiết kiệm lời, Chu Hy cũng không ghi lại ý kiến đích thực của Trình tử ra sao. Cho nên phần về cách vật ở chương 5 phải được coi là thuần ý của Chu Hy. Nội dung của chương 5 này không thấy nói đến điều thiện. Thế mà, ở đoạn kết đây, Chu Hy lại nói “làm cho sáng tỏ sự quan trọng của điều thiện” (minh thiện chi yếu); có lẽ ông muốn nói rằng: một khi đã “cách vật” đến chỗ cùng lý rồi, người ta nhân đó mới thấy điều thiện được sáng tỏ ra chăng?

Chu Hy cũng cho biết “Chương thứ sáu làm cho thành tựu cái phần gốc của thân mình” (Đệ lục chương nãi thành thân chi bản). Đó là chương bàn về “thành ý”. Thành ý tức là không tự lừa dối mình. Ý là một thể thuộc về tâm. Tâm là gốc của thân. Thành thật trong ý tưởng tức là thành tựu tâm. Thành tựu tâm có nghĩa là thành tựu cái gốc của thân. Tâm ý có thành thật thì thân thể mới được nhuần nhã, thư thái.

Ở trình độ sơ học, đối với những người mới bắt đầu bước vào ngưỡng cửa thành nhân, Chu Hy nhắc nhở rằng: phải cần kíp chăm chú hơn vào việc học hai chương này (5 và 6). Ngữ pháp được sử dụng ở đây rất là vắn gọn, kín đáo, lịch sự, tế nhị. Với hai chữ “vưu vi” (làm hơn), các học giả sau này hầu hết đều biết Chu Hy đề nghị có sự chú ý hơn tới hai chương vừa nói.

Tại sao Chu Hy mong muốn những người mới học sách Đại học nên chú trọng tới hai chương 5 và 6?

Ở phần đầu, chúng ta đã biết sách Đại học dành cho những lớp người trẻ vừa bước qua bậc Tiểu học. Đây là học chế ở Trung Hoa thời xưa. Họ là những người thường chưa có gia đình nên chưa cần chú trọng tới việc tề gia, chưa đảm đương các trách vụ về chính trị đối với quốc gia, cho nên chưa cần chú trọng tới việc trị quốc và bình thiên hạ. Trước và sau tuổi 20, là lứa tuổi dành cho việc tu thân. Vì thế, chú trọng hơn tới “cách vật” và “thành ý” là những việc cần thiết.

Chu Hy sợ rằng với tâm lý phổ thông, người mới bước vào Đại học thường có cao vọng nghĩ đến những kế hoạch kinh bang tế thế để lo “trị quốc, bình thiên hạ”, mà cho “cách vật” và “thành ý” là những điều đơn sơ, gần gũi (thiển cận), chẳng đáng quan tâm. Ông nhắc nhở để giúp cho họ đừng xao nhãng những điều tối quan trọng trong đường đi đến thành nhân sau này. Muốn đạt tới chí thiện, muốn trị nước an dân, người ta cần phải hiểu rõ sự vật (cách vật) và thành khẩn trong tư duy (thành ý).

Với sự tiểu tâm khẩn thiết như vậy, mặc dầu có thể có đôi bất điều cập trong sở học, Chu Hy cũng không hổ thẹn với danh hiệu “một bậc đại Nho của Tống triều”.

❁ ❁ ❁
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Luận Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung
LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x