Trang chủ » Mạnh Tử – Chương 2 – Lương Huệ Vương Hạ

Mạnh Tử – Chương 2 – Lương Huệ Vương Hạ

by Hậu Học Văn
1074 views

LƯƠNG HUỆ VƯƠNG, PHẦN SAU

1. Trang Bạo đến thăm Mạnh Tử nói: “Bạo vào chầu vua. Vua bảo Bạo rằng ngài thích nhạc. Bạo chưa có lời đáp lại được. Xin thưa: thích nhạc là thế nào?”

Mạnh Tử trả lời: “Vua rất thích nhạc, đó là điềm báo nước Tề thịnh vượng đấy.”

Ngày khác, vào chầu vua, Mạnh Tử nói: “Vua từng bảo ông Trang rằng ngài thích nhạc, có vậy chăng?”

Vua đổi sắc, nói: “Quả nhân chẳng phải có khả năng thích nhạc của các tiên vương, chẳng qua là thích nhạc tầm thường thế gian thôi.”

Mạnh Tử nói: “Vua rất thích nhạc, đó là điềm báo nước Tề thịnh vượng đấy. Nhạc thời nay là do nhạc thời xưa mà ra vậy.” Vua nói: “Có thể được nghe chăng?”

Mạnh Tử hỏi: “Vui nhạc một mình, vui nhạc với người, đằng nào vui hơn?”

Vua đáp: “[Vui một mình] không bằng vui với người.”

Hỏi: “Vui nhạc với ít người, vui nhạc với nhiều người, đằng nào vui hơn?”

Đáp: “[Vui với ít người] không bằng với nhiều người.”

“Bề tôi xin vì vua mà nói về nhạc: Nay vua tấu nhạc ở bên ấy; trăm họ nghe thấy tiếng chuông trống, âm thanh tiêu sáo của vua, bèn lắc đầu nhăn mũi cùng bảo nhau rằng: ‘Vua ta thích tấu nhạc. Ôi, sao mà khiến bọn ta khổ cực đến thế này? Cha con chẳng được thấy nhau; anh em, vợ con chia lìa tan tác!’

Nay vua săn bắn ở bên ấy, trăm họ nghe thấy tiếng xe ngựa của vua, nhìn thấy cờ lông chim, lông thú đẹp đẽ, bèn lắc đầu nhăn mũi cùng bảo nhau rằng: ‘Vua ta thích săn bắn. Ôi, sao mà khiến bọn ta khổ cực đến thế này? Cha con chẳng được thấy nhau; anh em, vợ con chia lìa tan tác.’ Điều đó chẳng có gì khác: ấy là không cùng vui với dân vậy.”

“Nay vua tấu nhạc ở bên ấy; trăm họ nghe thấy tiếng chuông trống, âm thanh tiêu sáo của vua, bèn hớn hở với sắc mừng, cùng kháo nhau rằng: ‘Vua ta có điềm thịnh vượng không bệnh tật chăng? Sao mà có thể tấu nhạc được?’

“Nay vua săn bắn ở bên ấy, trăm họ nghe thấy tiếng xe ngựa của vua, nhìn thấy cờ lông chim, lông thú đẹp đẽ, bèn hớn hở với sắc mừng, cùng kháo nhau rằng: ‘Vua ta có điềm thịnh vượng không bệnh tật chăng? Sao mà có thể săn bắn được?’ Điều đó chẳng có gì khác: ấy là cùng vui với dân vậy.

“Nay vua cùng vui với dân, thì nên nghiệp vương.”

BÌNH GIẢI:

Lần trước, Mạnh Tử đã không thành công trong việc thuyết phục vua Tề xây dựng nghiệp vương, mặc dầu đã phí nhiều tâm cơ, đã mất nhiều lời biện luận hùng hồn.

Lần này, nhận thấy Trang Bạo, một ông quan trong triều đình nước Tề, nói chuyện về Tề Vương thích nhạc, Mạnh Tử lại nỗ lực vận dụng sự hiểu biết của mình về tương quan giữa âm nhạc và vương đạo để thuyết phục Tề Vương. Đề tài ở đây là: xây dựng nghiệp vương trên cơ sở âm nhạc.

Vua Tề thích nhạc chỉ là thích loại nhạc tầm thường thế gian ở ngoài phố chợ hay trong nhà dân dã; đâu phải là loại nhạc cổ điển của các bậc tiên vương đời trước. Các tiên vương ngày xưa như vua Thuấn, Văn Vương, Vũ Vương tấu nhạc để ổn định lòng người; khiến cho xã hội an vui, đất nước thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có nhạc Thiều, du dương, êm ái, dịu dàng, tươi sáng như ánh nắng mùa xuân (thiều quang); khi tấu lên thì mát mẻ như ngọn Nam phong hiu hiu thổi. Đó là khúc Nam Huân giải trừ được cơn nóng bức oi ả của mùa hè. Văn Vương, Vũ Vương có nhã nhạc, khiến cho mọi người từ trên chí dưới biết sống trong lễ nghĩa trật tự.

Tuy vua Tề thích loại tục nhạc, nhưng Mạnh Tử cũng an ủi cho rằng đó là điềm báo nước Tề thịnh vượng; vì tục nhạc ngày nay ít nhiều cũng có nguồn gốc tương quan với nhã nhạc của các thánh vương xưa. Phải tâng bốc như vậy, Mạnh Tử mới kích thích vua Tề chú ý muốn nghe về âm nhạc.

Mạnh Tử nắm rất vững về triết lý âm nhạc như trong thiên Nhạc Ký viết: “Thẩm nhạc dĩ tri chính – xét kỹ âm nhạc để biết chính trị.” (Lễ Ký). Do đó, Mạnh Tử chất vấn vua Tề để tìm ra manh mối mà thuyết phục.

Mạnh Tử hỏi: “Vui nhạc một mình, vui nhạc với người đằng nào vui hơn?”

Giá như vua Tề thích “vui nhạc một mình”; điều đó biểu hiện vua Tề là người ích kỷ, một người có tâm lý khép kín, thích tìm niềm vui một mình. Người đó có thể là một nghệ sĩ lớn nhưng không thể xây dựng nghiệp vương được, vì không muốn hoà vui với mọi người.

Sau khi biết được vua Tề thích “vui nhạc với người”, Mạnh Tử lại hỏi xem vua Tề thích vui nhạc với ít người hay thích vui nhạc với nhiều người. Nhận biết được vua Tề thích vui nhạc với nhiều người, Mạnh Tử đã thấy rằng có điều kiện để thuyết phục tiếp.

Bí quyết xây dựng nghiệp vương nằm ở chỗ “cùng vui với dân” (dữ dân đồng lạc). “Cùng vui với dân” nghĩa là cho dân được dự vui với mình; hoặc là “vui sau cái vui của dân”, nói một cách khác, khi dân không được vui thì mình chẳng tìm lấy niềm vui riêng.

Mạnh Tử đưa ra hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: vua tấu nhạc, săn bắn. Âm thanh chuông trống, tiêu sáo, xe ngựa, cờ xí làm cho dân thấy đau đầu, nhức tai, nhăn mặt, than thở, trách móc.

Trường hợp thứ hai: vua tấu nhạc, săn bắn. Cũng bằng ấy âm thanh rộn ràng, thế mà dân lại hớn hở vui mừng, khen ngợi.

Tại sao vậy?

Điều đó chẳng có gì khác hơn là:

– Ở trường hợp thứ nhất, vua không cùng vui với dân (bất dữ dân đồng lạc).

– Ở trường hợp thứ hai, vua cùng vui với dân (dữ dân đồng lạc).

Vua đã không cùng vui với dân thì dân bất mãn, khó chịu, than oán đủ điều. Vua cùng vui với dân, chia ngọt sẻ bùi với dân, đồng cam cộng khổ với dân, thì dân quên hết mệt nhọc; dẫu cho cha con phải xa nhau, anh em vợ chồng phải ly tán, người ta cũng không than oán vì biết rằng đó là bổn phận bảo vệ đất nước, chứ chẳng phải vua muốn như vậy.

Bí quyết xây dựng nghiệp vương, đem lại thịnh trị thái bình an vui cho dân chúng được trình bày qua khía cạnh âm nhạc chỉ đơn giản có như thế. Vua biết lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, thì đất nước mới được an vui thực sự.

2. Tề Tuyên Vương hỏi rằng: “Vườn nuôi thú của Văn Vương vuông bảy chục dặm, có chăng?”

Mạnh Tử đáp: “Trong truyện ký có như thế.” Hỏi: “Như thế thì lớn chăng?”

Đáp: “Dân chúng còn lấy làm nhỏ đấy.”

Hỏi: “Vườn nuôi thú của quả nhân vuông bốn chục dặm, dân chúng còn lấy làm lớn. Tại sao vậy?”

Đáp: “Vườn nuôi thú của Văn Vương vuông bảy chục dặm, mà những người cắt cỏ, kiếm củi đi lại được, những kẻ bắn trĩ thỏ đi lại được. Hoà đồng với dân, thì dân lấy làm nhỏ, lại chẳng đúng ư?

“Ban đầu bề tôi đến bờ cõi [này], hỏi về những điều cấm lớn trong nước, rồi sau mới dám vào. Bề tôi nghe nói rằng bên trong cửa ô ngoài thành có vườn nuôi thú vuông bốn chục dặm; người nào giết một con nai, con hươu xem như mắc tội giết người. Thế thì vuông bốn chục dặm thành ra hầm hố trong nước. Dân chúng lấy làm lớn, cũng chẳng đúng ư?”

BÌNH GIẢI:

Vườn nuôi thú của Tề Tuyên Vương vuông bốn mươi dặm, so với vườn nuôi thú của Chu Văn Vương thuở xưa vuông bảy mươi dặm thì còn nhỏ hơn nhiều. Thế mà sao dân chúng lại cho là quá lớn? Tề Tuyên Vương đem vấn đề này chất vấn cùng Mạnh Tử.

Mạnh Tử giải thích đại ý rằng: vườn nuôi thú của Văn Vương tuy vuông bảy mươi dặm nhưng dân chúng được thong thả đi lại trong đó; người cắt cỏ, kiếm củi, kẻ săn trĩ bắn thỏ được ra vào tự do. Như vậy, vườn của Văn Vương là của chung dân chúng; mọi người được cùng Văn Vương thưởng thức niềm vui, hưởng thú thiên nhiên. Do đó, vườn ấy được coi là quá nhỏ; người ta còn mong muốn Văn Vương mở rộng thêm ra để vua cùng với thần dân được thảnh thơi thưởng thức hơn nữa.

Trái lại, vườn nuôi thú của Tề Tuyên Vương tuy chỉ có bốn mươi dặm vuông, nhưng đặc biệt dành riêng cho vua thưởng ngoạn, chẳng ai dám lai vãng. Vì có luật cấm; hễ ai ra vào mà lỡ làm chết một con nai, con hươu trong đó thì người ấy bị kết tội sát nhân. Theo luật thời ấy, “sát nhân giả tử”: giết người thì phải chết. Vì thế, vườn của vua Tề hoá ra nơi đầy rẫy hầm hố, cạm bẫy hại người trong nước. Nào ai còn dám bén mảng đến nữa! Hầm hố, cạm bẫy mà rộng tới bốn mươi dặm vuông, chẳng là quá lớn hay sao?

Nhỏ hay lớn, yêu hay ghét là những vấn đề tương đối thuộc tâm lý con người. Tục ngữ nói: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu” hay “Yêu nhau quả ấu cũng tròn”. Quả ấu vốn là quả có hình thù méo mó, nhưng vì yêu nó cho nên khen nó là tròn. Vườn nuôi thú của Văn Vương tuy lớn nhưng dân chúng yêu thích nó thì cho nó là nhỏ, muốn mở rộng thêm ra. Vườn nuôi thú của Tề Tuyên Vương tuy nhỏ hơn vườn của Văn Vương nhiều, nhưng dân chúng ghét nó thì cho nó là quá lớn, muốn thu hẹp lại.

Vườn của Tuyên Vương bị dân chúng chê bai, ghét bỏ như vậy, thì Tuyên Vương xây dựng nghiệp vương sao được?!

3. Tề Tuyên Vương hỏi rằng: “Giao thiệp với các nước láng giềng có đường lối nào không?”

Mạnh Tử đáp: “Có. Chỉ riêng bậc nhân mới có khả năng đem nước lớn của mình đối đãi khéo với nước nhỏ. Vì thế nên vua Thang đối đãi khéo với nước Cát; Văn Vương đối đãi khéo với nước Côn Di. Chỉ riêng bậc trí mới có khả năng đem nước nhỏ của mình đối đãi khéo với nước lớn. Thế nên, Thái Vương đối đãi khéo với nước Huân Dục; Câu Tiễn đối đãi khéo với nước Ngô.

“Đem nước lớn đối đãi khéo với nước nhỏ, là an vui mệnh Trời. Đem nước nhỏ đối đãi khéo với nước lớn, là tâm phục mệnh Trời. An vui mệnh Trời thì bảo vệ được thiên hạ. Tâm phục mệnh Trời thì bảo vệ được nước mình.

“Kinh Thi rằng: ‘Tâm phục uy Trời, theo thời thì bảo vệ được.’”

Vua nói: “Những lời nói vừa rồi lớn lao thay! Quả nhân có tật: quả nhân thích dũng mãnh.”

Đáp rằng: “Xin vua đừng thích cái dũng mãnh nhỏ mọn. Này, tuốt gươm, trừng mắt mà nói: ‘Ngươi dám chống đối ta sao?’ Đó là cái dũng mãnh của kẻ tầm thường, chỉ địch được một người thôi. Xin vua hãy có cái dũng mãnh lớn lao.

“Kinh Thi rằng: ‘Văn Vương đùng đùng nổi giận, bèn chỉnh đốn binh đội, ngăn chặn quân Cử đến; dốc lòng với nền phúc hậu nhà Chu, đáp ứng hướng về thiên hạ.’ Đó là cái dũng mãnh của Văn Vương. Một cơn giận của Văn Vương làm cho dân chúng trong thiên hạ được an vui.

“Kinh Thư nói: ‘Trời sinh ra dân chúng, thì tạo nên bậc vua, tạo nên bậc thầy, riêng để giúp Trời. Do đó Thượng Đế yêu mến khác thường các bậc ấy trong bốn phương. Có tội hay không tội; chỉ tại một mình ta (vua) mà thôi. Thiên hạ sao dám quyết chí vượt qua được?’ Một kẻ làm càn (vua Trụ) giữa thiên hạ, mà Vũ Vương lấy làm xấu hổ. Đó là cái dũng mãnh của Vũ Vương, vì thế cũng một cơn giận của Vũ Vương mà làm cho dân chúng trong thiên hạ được an vui.

“Nay cũng một cơn giận của vua mà an dân trong thiên hạ, nhưng dân chỉ sợ vua không thích cái dũng mãnh (lớn lao) mà thôi.”

BÌNH GIẢI:

Mạnh Tử trước sau vẫn trung thành với Vương đạo, là đường lối chính trị đem an vui cho dân chúng. Vì thế, trả lời cho Tề Tuyên Vương về đường lối giao thiệp với các nước láng giềng, Mạnh Tử đưa ra hai tôn chỉ: nhân và trí. Cả nhân và trí đều đem lại an vui, hạnh phúc, thịnh vượng cho toàn dân thiên hạ. Nhân là tôn chỉ của nước lớn đối với nước nhỏ. Trí là tôn chỉ của nước nhỏ đối với nước lớn.

Trong Hán tự, chữ sự (事) ở vị trí danh tự là công việc, ở vị trí hay chức năng động tự thì có nhiều nghĩa, tùy theo mạch văn mà dịch cho thích hợp:

– “sự thiên” là thờ phượng Trời.

– “sự phụ mẫu” là tôn kính, phụng dưỡng cha mẹ.

– “sự quân” là tôn trọng vua, thờ vua.

– “đại sự tiểu” là nước lớn đối đãi tốt với nước nhỏ.

– “tiểu sự đại” là nước nhỏ đối đãi tốt với nước lớn.

Đạo lý đối đãi của nước lớn đối với nước nhỏ là đức nhân (thương yêu): nâng đỡ, bảo bọc, ban thưởng…

Đạo lý đối đãi của nước nhỏ đối với nước lớn là đức trí (sáng suốt cư xử): tôn trọng để nương tựa, để tránh nạn xâm lược…

Cả hai đạo lý nhân và trí đều là những cách cư xử tốt và khéo, nhằm đem lại an lạc thái bình cho dân chúng cả hai nước lớn và nhỏ.

Hai đạo lý nhân và trí ấy đều là mệnh Trời, là qui luật tự nhiên để cho mọi người được tồn tại; cũng tương tự loài thực vật trong thiên nhiên: cây lớn che bóng mát cho cây nhỏ, cây nhỏ nương vào cây lớn, leo quanh cây lớn để tránh gió bão và nắng gắt. Nếu cư xử khác đi (bất nhân hoặc bất trí, hai nước sẽ xảy ra chinh chiến; dân chúng đau khổ, chết chóc, đói rét.

Nước lớn theo mệnh Trời thì toàn dân thiên hạ được an vui. Nước nhỏ theo mệnh Trời thì gìn giữ được nước mình khỏi xâm lăng, thiệt thòi, khỏi bị diệt vong. Đó là chân lý mà Kinh Thi, cuốn sách thu gom những kinh nghiệm dân gian của người Trung Hoa từ ngàn xưa đã công nhận: “Úy thiên chi uy, vu thời bảo chi – 畏天之威,于時保之。 (Tâm phục uy Trời, theo thời thì bảo vệ được.)

Nghe Mạnh Tử thuyết minh như trên, Tề Tuyên Vương phải công nhận đó là những lời nói có giá trị lớn lao thể hiện truyền thống Vương đạo. Tuy nhiên, Tề Tuyên Vương thú nhận mình có tật thích sự dũng mãnh. Mạnh Tử hiểu ngay sự dũng mãnh của Tuyên Vương là dũng mãnh nhỏ mọn cá nhân không nhịn được trước bất bình, vô lễ của kẻ khác. Cho nên Mạnh Tử đã khéo léo khích lệ Tuyên Vương, hướng dẫn ông bỏ qua sự dũng mãnh nhỏ mọn để bước sang sự dũng mãnh to lớn của bậc vương giả. Đó là sự dũng mãnh đem lại an lạc, thịnh vượng, thái bình cho dân chúng.

Kìa như Kinh Thi cho biết, Văn Vương ngày xưa vì cơn giận lôi đình mà chỉnh đốn binh đội, chặn quân nước Cử, ra sức xây dựng nền phúc hậu nhà Chu, đáp ứng nguyện vọng hạnh phúc của toàn dân.

Kìa như Kinh Thư cho biết, Trời sinh ra dân thì tạo ra vua, ra thầy để giúp Trời cai trị, dạy bảo dân chúng. Vì thế, các bậc vua, bậc thầy đã được Thượng Đế sủng ái khác thường. Nhưng các bậc ấy lại chịu trách nhiệm trước Thượng Đế; dân có tội hay không có tội đều quy trách nhiệm về vua.

Vì nhận trách nhiệm trước Thượng Đế mà Vũ Vương cảm thấy xấu hổ khi có kẻ ngang ngược như vua Trụ nhà Ân làm càn giữa thiên hạ, đem sinh mạng hiền thần và dân chúng treo đầu ngọn giáo. Do đó, một cơn giận của Vũ Vương đã xoá bỏ ách cai trị hà khắc của vua Trụ để đem an vui cho thiên hạ.

Mạnh Tử cho rằng nếu ngày nay Tề Tuyên Vương mà có được cơn giận dũng mãnh lớn lao như Văn Vương, Vũ Vương để đem lại thái bình an lạc cho toàn dân thiên hạ thời Xuân Thu thì hay biết bao! Dân chúng chỉ e rằng Tề Tuyên Vương không có nổi tinh thần hiếu dũng mãnh liệt như thế mà thôi.

Hiếu dũng, giận dữ mà biết hướng về hạnh phúc của dân chúng không kể nước lớn nước nhỏ, thật là đức dũng đức nộ của bậc vương giả bao hàm cả đức nhân, đức trí vậy.

4. Tề Tuyên Vương đến thăm Mạnh Tử ở Tuyết cung. Vua nói: “Người hiền cũng cảm thấy vui ở đây chứ?”

Mạnh Tử đáp: “Có chứ. Nhưng người thường dân chẳng được hưởng sẽ chê bai cấp trên của họ. Chẳng được hưởng mà chê bai cấp trên thì không đúng. Làm bậc trên của dân mà chẳng chung vui với dân, cũng không đúng. Vui với niềm vui của dân, thì dân cũng vui với niềm vui của mình; buồn với nỗi buồn của dân thì dân cũng buồn với nỗi buồn của mình. Vui cùng thiên hạ, buồn cùng thiên hạ, thế mà không thịnh vượng, chưa hề có vậy.

“Xưa kia, Tề Cảnh Công hỏi Yến Tử rằng: ‘Ta muốn đi chơi ở Chuyển Phục, Triều Vũ, rồi lần theo biển xuống miền nam, xuôi tới xứ Lang Da. Ta phải sửa sang sao mà có thể sánh được với cuộc đi chơi của các bậc tiên vương?’

“Yến Tử đáp: ‘Câu hỏi khéo thay! Bậc Thiên tử đến với vua chư hầu gọi là tuần thú. Tuần thú nghĩa là đi coi khắp cả địa hạt của mình. Vua chư hầu vào chầu Thiên tử gọi là thuật chức. Thuật chức nghĩa là bày tỏ công việc của mình làm. Chẳng có việc gì thì không đi. Mùa xuân thì coi xét việc cày cấy mà ban thêm cho chỗ không đủ (lúa giống); mùa thu thì coi xét việc thu gặt mà trợ giúp cho nơi không đủ dùng. Tục ngữ nhà Hạ nói: ‘Vua ta chẳng dạo chơi, ta nào được tốt lành? Vua ta chẳng dự vui ta nào được giúp đỡ?’ Một cuộc dạo chơi, một cuộc dự vui (của Thiên tử) là làm phép tắc cho các chư hầu.

“Ngày nay không được như thế. Một đám đông ra đi phải dùng lương thực. Đói lại chẳng được ăn; mệt lại chẳng được nghỉ: đành nghé mắt nhìn (ngó lơ) mà gièm pha. Dân chúng bèn nảy âm mưu chống đối. Đã trái lệnh trên (Thiên tử), lại còn tàn ác với dân, ăn uống dường như nước chảy; say sưa, rong ruổi, phóng túng, tàn hoại, làm cho các chư hầu phải lo buồn.

“Buông thả xuôi dòng mà quên trở lại, gọi là say sưa. Buông thả ngược dòng mà quên trở lại, gọi là rong ruổi. Đuổi săn theo thú vật không chán, gọi là phóng túng. Vui say rượu chè không chán, gọi là tàn hoại. Các bậc tiên vương không say sưa, rong ruổi và không có hành vi phóng túng, tàn hoại. Vua hãy mưu nghĩ về hành động của mình.’

“Vua Cảnh Công vui vẻ, loan báo rộng rãi cho cả nước biết, rồi ra đi, trú đóng ở chỗ đất xa kinh thành; thế là bắt đầu khiến cấp thêm cho những nơi không đủ. Vời quan thái sư, nói rằng: ‘Hãy vì ta mà sáng tác một bản nhạc vua tôi cùng hoà vui.’ Thế là bản Chủy Thiều, bản Giốc Thiều được đặt ra. Lời nhạc nói rằng: ‘Vực dậy vua sao mà lầm lỗi? Vực dậy vua là khéo yêu mến vua vậy.’”

BÌNH GIẢI:

Tuyết Cung là một biệt điện của nước Tề dành cho bậc thượng khách. Tề Tuyên Vương rất trọng vọng Mạnh Tử cho nên đã mời ông nghỉ ngơi ở cung này. Tuyên Vương muốn hỏi xem Mạnh Tử có được vui khi nghỉ chân tại cung điện đẹp đẽ này không.

Mạnh Tử là một bậc hiền, có lòng nhiệt thành với dân chúng và luôn luôn mong ước thiên hạ thịnh vượng thái bình; cho nên ông không bỏ lỡ cơ hội nào mà không khuyến khích vua nghĩ đến hạnh phúc của dân chúng.

Theo Mạnh Tử, người làm vua được hưởng cung điện đẹp đẽ mà dân chúng không được hưởng như vậy, họ sẽ oán trách vua. Tuy rằng việc oán trách ấy không đúng đạo lý, nhưng người làm vua mà chẳng chung vui với dân thì cũng không đúng đạo lý nốt. Nếu vua biết cùng chia vui sẻ buồn với thiên hạ, dân chúng sẽ phấn khởi hợp sức với vua xây dựng nghiệp vương, thì đất nước ắt hưng thịnh.

Nhân đáp lời vua, Mạnh Tử đem tấm gương Tề Cảnh Công xưa biết nghe theo lời khuyên của Yến Tử mà thuyết Tề Tuyên Vương.

Tề Cảnh Công là vua nước Tề vào thời Xuân Thu, có Yến Anh làm tể tướng trong triều. Yến Anh là một hiền nhân đồng thời với Đức Khổng Tử, khiêm cung, liêm khiết, thanh bần, rất được lòng dân và được các vua chư hầu kính nể.

Khi thấy Tề Cảnh Công tỏ ý muốn đi tuần thú các miền Chuyển Phục, Triều Vũ, Lang Da nhưng phải làm sao cho vẻ vang sánh được với chuyến du hành của các bậc tiên vương. Các bậc tiên vương danh tiếng thường được hiểu là các vua Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Hạ Vũ, Thành Thang và Văn Vương, Vũ Vương đời xưa.

Tể Tướng Yến Anh phân giải rằng:

Các bậc vương giả ngày xưa ra đi tuần thú là có công việc đáng phải đi, chứ chẳng phải dạo chơi suông. Vào mùa xuân, các ngài đi xem xét dân cày cấy; nơi nào thiếu lúa giống thì cấp phát cho đầy đủ. Vào mùa thu, các ngài đi xem xét dân thu gặt mùa màng; nơi nào thiếu thóc lúa thì ban thêm cho đủ dùng, khỏi đói. Vì vậy, dân chúng nhà Hạ đã khao khát mong vua đi chơi để được vua giúp đỡ. Như thế, một cuộc dạo chơi, một cuộc dự vui xem phong cảnh đất nước mà làm lợi cho dân, xứng đáng là mẫu mực, phép tắc cho các vua chư hầu.

Ngày nay, vua đi chơi là tạo thêm gánh nặng cho dân. Với một đoàn người đông đảo theo hầu vua, tiền hô hậu ủng, thì phải tốn nhiều lương thực. Dân đã đói chẳng đủ ăn, đã mệt chẳng được nghỉ, lại phải cung phụng lương thực cho một đoàn người đông đảo như thế. Cho nên ai cũng chán ngán, nghé mắt mà nhìn, miệng không ngớt gièm pha trách móc. Do đó, trong dân nảy ra những âm mưu khởi loạn, chống đối. Vua đi tuần thú chỉ cốt ngoạn cảnh như vậy đã trái mệnh lệnh Thiên tử (nhà Chu), lại còn đem đến tai họa cho dân; dân không cung phụng đủ thì bị hành hạ.

Một đoàn người đông đảo hộ tống vua ăn uống ào ào như nước chảy; lại thêm say sưa rượu chè, đàn hát, rong ruổi dục tình, phóng túng săn bắn, phế bỏ đạo đức, tàn hoại quốc phong. Những điều đó khiến cho các chư hầu láng giềng phải lo buồn vì chịu ảnh hưởng gần xa.

Các bậc tiên vương như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương đâu có say sưa, mê man, phóng túng vô hạnh như vậy. Vua hãy nghĩ lại hành động của mình xem có theo được những cuộc dạo chơi hữu ích của các tiên vương chăng, hay là lại bắt chước các vua chư hầu ngày nay?

Được nghe lời phân giải trung thực của Yến Anh, Tề Cảnh Công đã vui vẻ tiếp nhận; đi tuần thú mà trú đóng ở miền đất xa kinh thành để tránh phiền lụy đến dân, lại bắt đầu phân phát, chu cấp thêm cho những nơi dân chúng thiếu thốn. Trong chuyến du hành tốt đẹp đó, vua đã sai quan Thái sư phụ trách âm nhạc sáng tác một bản nhạc mới để nói lên sự hoà vui giữa vua và bề tôi. Bản nhạc Chủy Thiều, Giốc Thiều ra đời từ đó. Chủy và Giốc là hai cung bậc cao trong ngũ cung (Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ). Giốc là tiếng mạnh mẽ cao vút của sừng. Chủy là tiếng chim hót lảnh lót. Cả hai khúc Chủy và Giốc này đều được viết trên nền giai điệu nhạc Thiều của vua Thuấn, là giai điệu đầm ấm, hài hoà của một thời thái bình thịnh trị. Lời nhạc nhấn mạnh đến việc vực dậy vua, giúp vua xa lánh điều trái, giữ vua đi trong chính đạo là hết lòng yêu mến vua.

Quả thật, Mạnh Tử có lòng nhân ái biết bao! Ông toàn nghị luận những điều thiết thực có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc của dân chúng.

5. Tề Tuyên Vương hỏi rằng: “Người người đều bảo ta phá bỏ nhà Minh Đường. Nên phá hay đừng?”

Mạnh Tử đáp: “Này, Minh Đường là nhà của bậc vương giả. Vua muốn tiến hành nền chính trị vương đạo, thì đừng phá bỏ.”

Vua nói: “Nền chính trị vương đạo có thể được nghe chăng?”

Đáp: “Xưa kia, Văn Vương cai trị đất Kỳ, việc cày cấy theo phép ‘chín một’ (một phần chín); các quan được nối đời hưởng lộc; nơi cửa ô, chợ búa có xét hỏi mà không đánh thuế; chốn hồ đập không cấm đoán; kẻ phạm tội thì vợ con không bị phạt.

“Già cả không vợ gọi là quan (goá vợ); già cả không chồng gọi là quả (goá chồng); già cả không con gọi là độc (lẻ loi); trẻ con không cha gọi là cô (mồ côi). Bốn loại người đó là những dân khốn cùng không biết nương tựa vào ai. Văn Vương phát khởi việc cai trị thi thố nhân đức thì ưu tiên cho bốn loại người đó. Kinh Thi rằng: ‘Người giàu có thì khá giả; người lẻ loi côi cút thì đáng thương!’”

Vua nói: “Những lời nói vừa rồi tốt lành thay!”

Mạnh Tử nói: “Nếu như vua cho là tốt lành, sao lại chẳng làm đi?” Vua nói: “Quả nhân có tật: quả nhân ham của cải.”

Mạnh Tử đáp: “Xưa kia, ông Công Lưu ham của cải. Kinh Thi rằng: ‘Bèn dành dụm, bèn chứa vào kho, bèn đóng gói lương khô vào túi, vào bao. Nghĩ rằng gom dân để rỡ ràng (cơ nghiệp), cung tên giương ra, mộc giáo phô ra, bèn mới ra đi.’ Cho nên người ở nhà có kho lẫm chất chứa, kẻ ra đi có lương thực gói theo. Rồi sau mới có thể ra đi được. Nếu như vua ham của cải, hãy hoà chung của cải với trăm họ (như ông Công Lưu). Vậy sao không thịnh vượng?”

Vua nói: “Quả nhân có tật: quả nhân ham sắc đẹp.”

Mạnh Tử đáp: “Xưa kia, Thái Vương ham sắc đẹp nên yêu vợ mình. Kinh Thi rằng: ‘Cổ Công Đản Phủ, một sớm lên ngựa chạy: noi theo bến nước phía tây đến tận chân núi Kỳ; cặp kè Khương nữ (vợ ông), đến được không gian sẵn chờ.’ Đương thời bấy giờ, bên trong chẳng có con gái nào than oán, bên ngoài chẳng có đàn ông nào không vợ. Nếu như vua ham sắc đẹp, hãy giúp trăm họ được chung hưởng (tình vợ chồng). Vậy sao không thịnh vượng?”

BÌNH GIẢI:

Minh Đường (căn nhà sáng láng) là ngôi nhà đầy ý nghĩa minh triết do các vua đầu nhà Chu xây cất ở chân núi Thái Sơn, thuộc địa phận nước Tề. Minh Đường được kiến trúc theo khung Ngũ hành (thủy, hỏa, mộc, kim, thổ), là biểu tượng cho sự thăng tiến tâm thức của con người trong đức nhân từ thấp lên cao, biểu thị bằng ba bước, tương ứng với ba căn phòng: huyền đường, minh đường, thái thất.

– Huyền đường: chỉ tâm thức con người bắt đầu bước vào cõi đạo, tức là tập luyện nhân đức trở nên người quân tử. (Theo sách Luận Ngữ, đây là trình độ của Tử Lộ.)

– Minh đường: chỉ tâm thức con người đã sáng tỏ, trở nên bậc hiền nhân (trình độ của Nhan Hồi), xứng đáng làm mẫu mực cho thiên hạ, xứng đáng ở chức vụ cai trị thiên hạ. Bậc này không còn bị thối chuyển trở lại con người phàm tục nữa.

– Thái thất: biểu thị con người trở nên bậc thánh nhân, tâm thức huyền đồng với Trời (siêu việt thể), trở nên tài nhân trong Tam tài (Thiên Địa Nhân). Cho nên căn phòng dành cho bậc này gọi là Thái thất (căn nhà rộng lớn bao la, có chiều kích vũ trụ). Con người ở căn phòng này có tâm thức đạt tới trình độ phi không thời gian.

Nhà Minh Đường thiết kế theo khung Ngũ hành

Để thành tựu ba bước thăng tiến trên, nhà Minh đường còn hai căn phụ ở bên trái và bên phải là: Thanh dương và Tổng chương.

Thanh dương: chỉ sự thanh lọc tâm hồn cho trong sáng.

Tổng chương: chỉ sự tìm hiểu tổng quát thấu đáo sự vật.

Các vua nhà Chu thiết kế nhà Minh Đường tại chân núi Thái Sơn với ý nghĩa nền chính trị Vương đạo phải được đặt nền trên đức nhân vững vàng như núi. Đức Khổng Tử về sau thâm hiểu ý này nên mới nói: “Nhân giả nhạo sơn: người nhân vui ngắm núi.”(Luận Ngữ).

Mỗi khi vua nhà Chu đi tuần thú, đều đến nghỉ ngơi tại nhà Minh Đường, chiêm niệm ý nghĩa minh triết để từ đó phát lệnh đi các nước chư hầu. Ý nghĩa là thế, nhưng càng về sau, các vua nhà Chu càng say sưa tọa hưởng sự thành công của tổ tiên (Văn Vương, Vũ Vương), bỏ quên trách nhiệm cao trọng của một Thiên tử; cho nên thể chế Minh Đường chỉ còn là cái vỏ, bị mất cái ruột là nhân chủ tính (tính tình có đức nhân làm chủ); vì thế mà suy vong. Kể từ lúc nhà Chu suy, mệnh lệnh không được các chư hầu tôn trọng nữa; vua nhà Chu cũng không còn đi tuần thú. Do đó, nhà Minh đường bị bỏ hoang.

Mọi người thấy nhà Minh đường cũ kỹ, hoang phế như vậy mới khuyên Tề Tuyên Vương cho phá đi. Tuy nhiên Mạnh Tử cho rằng nếu Tề Tuyên Vương muốn xây dựng nền chính trị vương đạo thì phải giữ lại. Giữ lại và tu sửa Minh đường, đồng thời chiêm niệm ý nghĩa minh triết của Minh đường mới có thể tạo nên sự nghiệp hưng vượng thái bình cho thiên hạ được.

Nhân nói đến nhà Minh đường và nền chính trị Vương đạo, Tề Tuyên Vương muốn được nghe Mạnh Tử nói về nền chính trị ấy. Thật là một cơ hội tốt để cho Mạnh Tử trình bày.

Nền chính trị Vương đạo đã được Văn Vương ngày xưa thi hành tại đất Kỳ (Thiểm Tây). Trong đó có những điểm chính như sau:

1. Việc chia đất cho dân được mô phỏng theo khung Hồng phạm cửu trù, gọi là phép “cửu nhất” (chín một) hay phép tỉnh điền (ruộng đất hình chữ tỉnh: 井 )

Triều đình vạch ra ranh giới chia đất thành từng khu vuông 900 mẫu,[18] bao gồm chín khoảnh mỗi khoảnh 100 mẫu. Tám khoảnh chung quanh gọi là tư điền, dành cho dân; cứ 8 người (từ 20 đến 60 tuổi) được một khoảnh. Khoảnh ở giữa thuộc về nhà vua, gọi là công điền. Các nông dân ở 8 khoảng chung quanh phải hợp sức canh tác khoảnh công điền để nộp thuế cho vua. Đất ruộng để trồng lúa và các hoa màu phụ; đất chung quanh nhà ở mới được trồng dâu, rau và cây ăn trái.

2. Về quan chế, có lệ thế tập và thế lộc; nghĩa là các quan được truyền chức tước và lợi lộc cho con cháu. Đây chính là thể chế phong kiến (phong tước, kiến địa). Các quan có công với nước được vua phong tước (công, hầu, bá, tử, nam) và được cấp một mảnh đất (kiến địa) để hưởng lợi. Vào thời xa xưa ấy (12 thế kỷ trước Công nguyên), trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, phong kiến là chế độ tiến bộ; bởi vì chỉ có con cháu các quan mới có điều kiện học tập phép cai trị để thay thế cha ông.[19]

3. Về kinh tế, nơi cửa ô các đô thị và chợ búa có xét hỏi để phòng ngừa gian phi, nhưng không đánh thuế; dân chúng được tự do di chuyển hàng hoá và buôn bán.

4. Về hình pháp, kẻ nào phạm tội thì kẻ ấy bị phạt, vợ con không bị phạt lây. (Như vậy, luật tru di tam tộc, cửu tộc xuất hiện ở các chế độ quân chủ chuyên chế về sau, không có trong Vương đạo).

5. Về xã hội, bốn loại người: quan (goá vợ), quả (goá chồng), độc (không con), cô (không cha), không nơi nương tựa, được nhà nước ưu tiên săn sóc.[20]

Tề Tuyên Vương nghe Mạnh Tử nói về chính trị Vương đạo phải khâm phục là tốt lành. Tuy nhiên ông cảm thấy không theo được vì có tật ham của cải và tật ham sắc đẹp.

Dĩ nhiên Mạnh Tử tìm cách hoá giải ngay. Ham của cải và ham sắc đẹp nếu chỉ biết vị kỷ, mới có hại cho Vương đạo. Nếu ham của cải và ham sắc đẹp mà biết vị tha, tức là hoà đồng với dân chúng trăm họ thì vẫn phù hợp với Vương đạo, ham của cải mà tích lũy của cải cho cả nước để có lương thực đủ dùng hằng ngày và đủ dùng khi xảy ra việc chinh chiến như ông Công Lưu (thủy tổ của nhà Chu) là điều tốt. Ham sắc đẹp và yêu quý vợ mình rồi biết giúp cho con gái, con trai trong nước có gia đình chồng vợ đẹp đôi, được hưởng tình gia thất như việc làm của Cổ Công Đản Phủ (Thái Vương: ông nội của Văn Vương) cũng là điều tốt. Mọi người được có của cải, đủ ăn đủ mặc; được vui vẻ trong tình gia đình thì sự nghiệp Vương đạo ắt thành tựu, đất nước ắt thịnh vượng, thái bình.

6. Mạnh Tử nói với Tề Tuyên Vương rằng: “Có một bề tôi của vua ủy thác vợ con cho bạn mà sang chơi nước Sở. Ví như lúc trở về, thấy vợ con mình bị đói rét, thì nên như thế nào?”

Vua nói: “Bỏ đi.”

Mạnh Tử nói: “Một quan tư pháp mà không thể điều khiển quan chức của mình, thì nên như thế nào?”

Vua nói: “Cách chức đi.”

Mạnh Tử nói: “Bên trong bốn cõi mà rối loạn, thì như thế nào?” Vua trông bên trái bên phải mà nói lảng (sang chuyện khác).

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn văn này, Mạnh Tử đã dùng cách “nói trâu cho ngựa nghe” để gián tiếp cảnh tỉnh Tề Tuyên Vương. Tề Tuyên Vương vô tình bị Mạnh Tử gài bẫy, liên tiếp trả lời theo tình lý tự nhiên. Đến câu hỏi thứ ba, mới biết Mạnh Tử ám chỉ mình, Tuyên Vương đành phải nói lảng sang chuyện khác.

Lẽ ra, trả lời cho câu hỏi: “Bên trong bốn cõi mà rối loạn, thì như thế nào?”, Tuyên Vương phải đáp: “Truất phế ông vua cai trị bốn cõi đó đi.”

Nếu theo tình lý tự nhiên mà trả lời như vậy, hoá ra Tề Tuyên Vương tự hại mình; bởi vì nước Tề lúc bấy giờ không được cai trị tốt.

Mạnh Tử quả có tư tưởng cách mạng, lý luận mạch lạc, chặt chẽ; tính khí thẳng thắn, trung thực, không biết tâng bốc, nịnh hót; lại không biết sợ cường quyền. Rõ ràng Mạnh Tử có khí hạo nhiên của một bậc hiền nhân, xứng đáng được đời sau tôn là Á thánh trong đạo thống Nho giáo. Ông ta không được trọng dụng là phải trong cái thời Chiến Quốc loạn lạc, nhiễu nhương như thế!

7. Mạnh Tử ra mắt Tề Tuyên Vương, nói: “Cái gọi là đất nước cũ chẳng phải có những cây cao lớn, mà có các bề tôi đời nọ sang đời kia. Vua không có các bề tôi thân tín như thế. Xưa kia, những người được cất dùng, ngày nay chẳng biết họ mất đâu cả rồi.”

Vua nói: “Ta làm sao biết được kẻ nào bất tài mà sa thải?”

Mạnh Tử nói: “Một vị vua cai trị đất nước (quốc quân) cất dùng người tài đức, dường như chẳng đặng đừng. Nếu khiến người thấp hèn vượt lên người tôn quý, người xa vượt lên người thân, có thể không cẩn thận sao?

“Những kẻ bên trái bên phải đều nói là tài đức, chưa đáng tin. Các quan đại phu đều nói là tài đức cũng chưa đáng tin. Mọi người trong nước đều nói là tài đức, sau đó hãy xét lại. Thấy là tài đức thật, rồi sau mới dùng.

“Những kẻ bên trái bên phải đều nói không được, thì đừng nghe. Các quan đại phu đều nói không được, đừng nghe. Mọi người trong nước đều nói không được, sau đó hãy xét lại. Thấy là không được, rồi sau mới bỏ đi.

“Những kẻ bên trái bên phải đều nói đáng giết, thì đừng nghe. Các quan đại phu đều nói đáng giết, đừng nghe. Mọi người trong nước đều nói đáng giết, sau đó hãy xét lại. Thấy đáng giết, sau đó hãy giết. Cho nên nói là mọi người trong nước giết kẻ ấy. Như thế, rồi sau mới có thể làm cha mẹ của dân.”

BÌNH GIẢI:

Cố quốc (đất nước cũ) là tiếng chỉ đất nước của tổ tiên truyền từ đời nọ sang đời kia; có một truyền thống cai trị tốt đẹp, một nền văn hoá rực rỡ, dồi dào sức sống và đạo đức. Với một cố quốc như vậy, chẳng ai muốn phản bội hoặc bỏ đi tha phương cầu thực; vạn bất đắc dĩ mà phải đi xa, ai ai cũng thấy nhớ và muốn trở về.

Trong ý đó, cố quốc đồng nghĩa với cố hương (quê cũ), thường xuyên tạo nên tình non nghĩa nước đối với mọi người đã được sinh ra và lớn lên tại đó.

Mạnh Tử cho rằng để cố quốc duy trì được cái nghĩa tốt đẹp như vậy, chẳng phải cố quốc có những cây cao bóng cả, những danh lam thắng cảnh tuyệt vời, mà phải có những bề tôi rường cột từ đời nọ sang đời kia. Đó là những vị đại thần đức cao, hạnh trực, tài năng xuất chúng, đã từng ngồi ở triều đình giúp rập đắc lực cho vua cha, vua con và thậm chí cả vua cháu. Chính các vị đại thần ấy với kinh nghiệm cai trị nhiều năm của mình, mới giữ yên được giềng mối trị an đất nước, giữ cho triều đại có nền tảng vững vàng, tạo được mối an tâm tín nhiệm cho toàn dân.

Trước mắt Mạnh Tử, bấy giờ Tề Tuyên Vương không có những đại thần thân tín như thế. Điều đó chứng tỏ Tề Tuyên Vương đã không đủ ân đức để giữ chân được các đại thần tài đức trong triều; hoặc Tuyên Vương đã coi rẻ các vị ấy mà sa thải lâu rồi. Chẳng những trong triều đã không có các cựu thần cột trụ ấy, đến cả những đại phu mới tham chính khi Tuyên Vương lên ngôi cũng không còn vị nào. Phải chăng Tuyên Vương đã thay các quan khanh như thay áo? Cách thức cai trị ngẫu hứng như vậy hẳn mất tín nhiệm đối với dân và nền hành chính không thể vững vàng được. Hành chính đã không vững vàng thì đất nước bất an, không thể hưng thịnh.

Thấy Mạnh Tử phê phán gắt gao, Tề Tuyên Vương chỉ còn cách đánh trống lảng: “Ta làm sao biết được kẻ nào bất tài mà sa thải?”

Mạnh Tử nhận xét rằng: một vị vua cai trị đất nước (quốc quân) cất dùng người hiền tài nhiều khi phải làm một việc xem ra trái lẽ thường (bất đắc dĩ). Đó là đem người thấp hèn đặt trên người tôn quý, đem người ở xa, chẳng thân thích sắp trên người thân cận. Muốn có người hiền tài đảm đương việc nước thì phải hành động như vậy, nhưng phải thật cẩn thận mới được. Tức là phải xét người một cách kỹ lưỡng. Không nên vì lời khen chê của những kẻ thân tín bên trái bên phải (tả hữu) hay vì lời khen chê của các quan đại phu trong triều mà vội vàng sử dụng, cất nhắc hay thải bỏ một người nào. Chớ vội tin những lời khen chê chủ quan, thiên lệch đó. Hãy theo dõi dư luận của mọi người trong nước. Nếu đại chúng nhân dân đều nhất loạt khen hoặc chê một người nào đó, thì vua hãy xét kỹ lại; sau đó, mới có một quyết định chung cuộc: sử dụng hay thải bỏ.

Giả như một người nào đó bị những kẻ thân tín của vua và các quan đại phu trong triều lên án đáng giết, vua chớ vội nghe ngay. Phải thăm dò ý tứ mọi người trong nước. Nếu dân chúng đều nói đáng giết, bấy giờ vua hãy xét lại kỹ lưỡng những hành vi của người ấy; thấy người ấy đáng tội chết mới đem ra xử. Thế là người ấy không phải bị vua giết oan, mà đã bị thọ hình vì quyết định của toàn dân.

Nếu vua cẩn thận trong cách tuyển dụng nhân tài và biết nghe theo nguyện vọng dân chúng mà xử lý những việc trong triều; lúc đó, vua mới thật xứng đáng ở ngôi cha mẹ của dân. Một vị quốc quân mà điều khiển đất nước cẩn thận như thế, ắt là bận bịu suốt ngày; chẳng có dư thời giờ để say sưa rượu chè, du hí, sa đọa, trác táng cho được.

8. Tề Tuyên Vương hỏi rằng: “Vua Thang đuổi vua Kiệt, vua Vũ Vương đánh vua Trụ, những điều đó có chăng?”

Mạnh Tử đáp: “Trong sách truyện có những điều đó.” Vua nói: “Có thể là bề tôi giết vua chăng?”

Đáp: “Kẻ làm hại điều nhân gọi là giặc; kẻ làm hại điều nghĩa gọi là tàn ác; những kẻ giặc hại, tàn ác ấy là người tầm thường. Có nghe nói việc giết một người tầm thường là Trụ thôi, chưa từng nghe nói giết vua.”

BÌNH GIẢI:

Kiệt là vua cuối đời nhà Hạ (khoảng 1800 năm trước Công nguyên); Trụ là vua cuối đời nhà Ân-Thương (khoảng 1150 trước Công nguyên). Trong sách truyện có chép vua Thành Thang đuổi Kiệt, lập ra nhà Thương; vua Vũ Vương hội binh các chư hầu thanh toán Trụ sau khi đại thắng ở trận Mục Dã, lập ra nhà Chu.

Tề Tuyên Vương đem những chuyện đó hỏi Mạnh Tử xem như thế có phải Thành Thang và Vũ Vương là những bề tôi giết vua chăng. Theo đạo lý truyền thống, những bề tôi mà giết vua của mình là những kẻ có tội bất trung.

Mạnh Tử giải thích rằng: kẻ làm hại điều nhân, điều nghĩa không phải là vua đúng danh hiệu, mà chỉ là một người thường, một kẻ giặc hại, tàn ác thôi. Mạnh Tử chỉ được nghe nói về chuyện giết một kẻ tầm thường tên là Trụ, chứ không được nghe nói về chuyện giết một vị vua.

Theo học thuyết chính danh của Đức Khổng Tử thì “vua phải cho ra vua, bề tôi mới ra bề tôi…” (quân quân, thần thần… ). Một vị vua xứng đáng với danh hiệu vua phải là người hết lòng phục vụ hạnh phúc của dân chúng, một người đạo đức gương mẫu. Có vua xứng đáng như thế, mới có bề tôi một dạ trung thành, hợp sức với vua để phục vụ dân chúng. Người nào giết một vị vua như thế mới gọi là kẻ có tội bất trung. Nếu một người nào ở ngôi vua tôn quý mà làm hại điều nhân, điều nghĩa, không lấy hạnh phúc của dân chúng làm trọng; trái lại, còn đem tai họa đến cho dân chúng, người ấy là giặc hại, tàn ác, chứ đâu xứng đáng danh hiệu là vua?

Đối với kẻ giặc hại, tàn ác, thì trong dân có người đứng lên vì quyền lợi của dân mà tiêu diệt kẻ ấy, đó là điều phải, không thể gọi người ấy là bề tôi giết vua được. Đó là người làm cách mạng, cứu dân khỏi ách bạo ngược, lầm than.

Người này hành động vì đại nghĩa mới xứng đáng được tôn làm vua, là Thiên tử (con Trời).

9. Mạnh Tử ra mắt Tề Tuyên Vương, nói: “Để làm một cái nhà to tát, ắt phải khiến công trình sư đi tìm gỗ lớn. Công trình sư tìm được gỗ lớn rồi, vua mừng rỡ, vì đã có khả năng làm nên việc. Người thợ mộc mà đem đẽo gọt cho nhỏ đi, vua sẽ giận dữ, vì không thể nên việc được nữa. Ôi, người ta lúc còn nhỏ đi học, lớn lên chỉ mong muốn đem ra thi hành. Vua lại nói: “Hãy bỏ sở học của ngươi đi mà nghe theo ta.” Như thế sẽ ra sao? Nay có viên ngọc thô ở đây, đáng vạn dật vàng, ắt phải sai thợ ngọc chạm trổ, mài giũa nó đi. Đến việc cai trị quốc gia, lại nói: “Hãy bỏ sở học của ngươi đi mà nghe theo ta.” Thế sao lại xử khác với việc ra lệnh cho thợ ngọc chạm trổ, mài giũa ngọc như vậy?”

BÌNH GIẢI:

Để chỉ trích việc vua muốn Tể tướng và các quan khanh trong triều phải làm theo ý riêng của mình mà bỏ mất khả năng chuyên môn của họ, Mạnh Tử đã nêu ra hai ví dụ.

Thứ nhất, muốn cất một đại sảnh đường (cự thất), vua giao cho công trình sư (kiến trúc sư phụ trách xây dựng) đi kiếm cây gỗ lớn làm cột cái. Có cây gỗ lớn mới có sức nâng nổi cái mái to rộng. Nay kiếm được cây gỗ lớn rồi, nếu thợ mộc lỡ đẽo gọt cho nó nhỏ đi, nó sẽ không còn nâng đỡ được cả mái nhà nữa.

Tương tự như thế, một người đi học từ nhỏ, trau dồi tài đức; lớn lên người đó có đủ tài năng chuyên môn để đảm đương chức Tể tướng hay chức quan khanh. Tể tướng là chức quan nhất phẩm có đủ tài năng chuyên môn và đức hạnh để điều khiển trăm quan, cai trị cả nước (ví như cây gỗ lớn). Thế mà, vua lại khiến ông ta bỏ tài năng chuyên môn (sở học) của mình để chỉ nghe theo ý riêng của vua (ví như thợ mộc đẽo cây gỗ lớn cho nhỏ đi). Như vậy, việc nước (cự thất) sẽ hỏng mất!

Thứ hai, ví như có một viên ngọc quý còn ẩn trong đá (ngọc thô). Theo lẽ thường, vua phải trao viên ngọc thô ấy cho thợ ngọc, phá đá, trau chuốt; mới có được viên ngọc đáng giá vạn dật vàng.

Thợ ngọc là hình ảnh tiêu biểu cho một vị Tể tướng đại thần, đủ tài năng chuyên môn về chính trị, có thể đưa đất nước đến thịnh trị thái bình. Viên ngọc quý biểu tượng cho tài nguyên đất nước, cho hạnh phúc của dân chúng. Nay vua lại bảo vị Tể tướng hãy bỏ tài năng chuyên môn của mình, một mực tuân theo ý chỉ của vua để thoả mãn tham vọng riêng tư của vua.

Biết trao ngọc thô cho thợ ngọc trạm trổ, mà vua lại không biết trao quyền lãnh đạo đất nước cho Tể tướng cai trị theo sở học của ông. Xử trí sai khác như thế là vua đã tự mâu thuẫn, không biết lẽ phải trái ở đời vậy. Do đó, đất nước không thể hưng thịnh, thái bình được.

10. Người nước Tề đánh thắng nước Yên. Tuyên Vương hỏi rằng: “Có người bảo quả nhân đừng chiếm, có người bảo quả nhân chiếm lấy. Đem nước vạn cỗ xe đánh một nước vạn cỗ xe, năm mươi ngày mà lấy được, sức người không đến được như thế. Không chiếm lấy, ắt gặp tai vạ của Trời. Chiếm lấy có nên chăng?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Chiếm lấy mà dân nước Yên vui vẻ thì nên chiếm. Người xưa đã có người làm rồi: đó là Vũ Vương. Chiếm lấy mà dân nước Yên chẳng vui, thì đừng chiếm. Người xưa đã có người làm rồi: đó là Văn Vương.

Đem nước vạn cỗ xe đánh nước một vạn cỗ xe, có cơm giỏ nước bầu đem ra đón binh đội của vua, há chẳng có lòng kia khác sao? Đó là tránh nạn nước lửa vậy. Nếu như nước càng sâu, lửa càng nóng, thì cũng có sự vận động chống lại mà thôi.”

BÌNH GIẢI:

Ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở Trung Hoa, người ta có thói quen xét nhân lực, vật lực của một nước bằng số cỗ xe trận. Nước có một vạn (mười ngàn) cỗ xe là nước lớn. Nước có một ngàn cỗ xe là nước nhỏ. Nước có một trăm cỗ xe trận là nước phụ dung, phải lệ thuộc vào một nước lớn nào đó. Nước Tề và nước Yên cùng có một vạn cỗ xe trận là hai nước lớn tương đương .

Tề Tuyên Vương sai binh đội đi đánh thắng nước Yên chỉ trong có 5 tuần (50 ngày).[21] Tuyên Vương cho rằng riêng sức người, không nhanh được như thế, mà do sức Trời hỗ trợ. Vì vậy, ông mới bảo: “Không chiếm lấy, ắt gặp tai vạ của Trời” nghĩa là nếu nước Tề không chiếm lấy nước Yên thì trái mệnh Trời, sẽ bị Trời phạt. Tuy nhiên, ông vẫn phân vân vì có hai lập trường trái ngược trong triều đình: người bảo chiếm lấy, kẻ bảo đừng chiếm. Do đó, ông mới hỏi ý kiến Mạnh Tử.

Mạnh Tử luôn lấy dân làm trọng, trên căn bản ý dân là ý Trời. Đánh thắng nước Yên trong có 5 tuần, với binh lực hai nước tương đương, đúng là có Trời giúp thật. Trời giúp thể hiện qua hành động của dân Yên đem cơm giỏ nước bầu ra đón; lý do là dân Yên đã chán chính sách cai trị của triều đình nước Yên. Mới có như thế, đâu đã quyết chắc được rằng Trời muốn cho nước Tề chiếm lấy nước Yên. Do vậy, Mạnh Tử mới phân giải: nếu dân Yên vui lòng chấp nhận thì nên lấy; nếu dân Yên chẳng vui thì không nên lấy. Ông nêu ra tấm gương nên lấy và tấm gương không nên lấy.

Vũ Vương thấy dân chúng nhà Ân và toàn thể các chư hầu đều ghê sợ chính sách bạo ngược của vua Trụ; cho nên, sau khi diệt Trụ, Vũ Vương đã chiếm lấy nhà Ân và xếp đặt việc cai trị hợp ý dân.

Văn Vương (cha của Vũ Vương) trước đó đã có thể thắng vua Trụ, nhưng thấy chính sách bạo ngược của vua chưa đến nỗi quá khắc nghiệt; dân chúng và các chư hầu chưa oán ghét Trụ quá đáng, tình hình chưa chín muồi; cho nên Văn Vương chấp nhận ngồi tù ở ngục Dữu Lý bảy năm để chờ thời; và nhường việc chiếm nhà Ân cho con là Vũ Vương.

Mạnh Tử phân tích thêm: Khi quân Tề tiến vào đất Yên, quả có hiện tượng dân Yên đem cơm giỏ nước bầu ra đón. Lý do chẳng qua là vua Yên cai trị hà khắc. Quân Tề vào đất Yên, lật đổ ách cai trị của vua Yên là một biến cố được coi như giúp dân Yên tránh được nạn nước sôi lửa bỏng, chứ chưa hẳn là dân Yên muốn người Tề cai trị. Giả như giờ đây chiếm lấy, chính sách của Tề Tuyên Vương lại còn tệ hại hơn (nước càng sâu, lửa càng nóng) cách cai trị của vua Yên; bấy giờ, trong dân chúng Yên ắt có sự vận động chống lại. Tình hình có thể diễn ra là: Hoặc trong nước Yên sẽ có một anh hùng nổi lên lãnh đạo dân chúng chống quân Tề xâm lược; hoặc sẽ có một cuộc chiến tranh du kích toàn diện, giằng dai diễn ra khắp nước Yên; hoặc dân Yên sẽ cầu viện một nước lớn khác (chẳng hạn như nước Sở hay nước Tần) đánh lại quân Tề. Như thế cái ơn cứu dân Yên sẽ mất; lại còn gây nên mối oán thù sâu nặng giữa hai nước Yên Tề.

11. Người nước Tề đánh nước Yên, rồi chiếm lấy. Các nước chư hầu cùng nhau toan tính cứu nước Yên. Tuyên Vương nói: “Nhiều nước chư hầu toan tính đánh quả nhân. Phải đối đãi làm sao?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Bề tôi nghe có bẩy mươi dặm mà cai trị được thiên hạ: đó là vua Thang. Chưa từng nghe có một ngàn dặm lại sợ người ta.

Kinh Thư nói: “Vua Thang chinh phạt lần thứ nhất khởi đầu từ nước Cát, thiên hạ tin tưởng. Quay mặt về Đông mà chinh phạt, dân Tây Di oán trách; quay mặt về Nam mà chinh phạt, dân Bắc Địch oán trách. Nói rằng: “Sao lại đến ta sau?”Dân chúng trông ngóng dường như lúc đại hạn trông ngóng mây và cầu vồng vậy. Người đến chợ không ngừng chân; người cày ruộng không thay đổi công việc. Tiêu diệt vua rồi thì thăm viếng đến dân. Dân chúng mừng rỡ như gặp lúc mưa đổ vậy.

“Kinh Thư nói: ‘Trông đợi vua ta; vua đến làm ta sống lại.’ Nay nước Yên bạo ngược với dân, vua đi chinh phạt. Dân cho là mình sẽ được cứu vớt khỏi dìm trong nước lửa. Bèn đem cơm giỏ nước bầu ra đón binh đội vua. Ví bằng lại giết cha anh họ, trói buộc phiền hà con em họ, phá hoại tông miếu của họ, dời những đồ quý trọng của họ đi, như vậy làm sao nên?

“Thiên hạ cố nhiên sợ nước Tề mạnh mẽ; nay lại tăng thêm đất mà không thi hành chính sách nhân đạo; thế là thiên hạ động binh vậy.

“Vua hãy nhanh chóng ra lệnh, trả lại người già con trẻ cho họ, ngưng việc chuyển dời các đồ quý trọng, toan tính cùng dân nước Yên, đặt lên một vị vua rồi sau đó rút quân đi, thì còn kịp đình chỉ cuộc động binh.”

BÌNH GIẢI:

Tề Tuyên Vương, sau khi đánh xong nước Yên, đã chiếm lấy, lại còn thi hành chính sách tàn bạo làm mất lòng người Yên, không nghe theo lời khuyên của Mạnh Tử. Cho nên các nước chư hầu chung quanh toan tính đánh nước Tề để cứu nước Yên. Trước tình thế ấy Tề Tuyên Vương cầu kế cùng Mạnh Tử.

Mạnh Tử đem chuyện vua Thang chinh phạt các nước chư hầu ra nói. Ban đầu vua Thang (khoảng 1800 năm trước Công nguyên) chỉ có 70 dặm đất; nhờ lòng nhân đức mà sau đó cai trị được cả các nước chư hầu. Chinh phục nước Cát, bày tỏ chính sách nhân đạo, cứu dân khỏi cảnh lầm than, bạo ngược, vua Thang đã thu được lòng tin của thiên hạ. Thế là bốn phương đông, tây, nam, bắc đều trông ngóng vua Thang đem quân đến giải phóng cho họ. Chưa kịp đến, dân chúng đã trách móc sao quá trậm trễ. Người ta mong đợi binh đội vua Thang như trông ngóng mây và cầu vồng báo hiệu mưa lành giữa lúc trời đại hạn. Binh đội vua Thang là đoàn quân nhân nghĩa, đi đến đâu, không có hành vi nào khiến dân hãi sợ. Đâu đó chỉ có sự mừng rỡ hân hoan: chợ búa vẫn họp đều đặn, ruộng vườn vẫn có người canh tác. Thanh toán xong chế độ bạo tàn, vua Thang và các binh tướng của ngài đi thăm viếng, phủ dụ dân chúng an cư lạc nghiệp. Người ta coi vua Thang là vị cứu tinh, làm sống lại cuộc đời tàn tạ của dân chúng trong chế độ cai trị cũ.

Ngày nay, chiếm nước Yên, nước Tề được tăng thêm lãnh thổ gấp hai, lại thi hành chính sách tàn nhẫn với dân Yên, phá hủy tông miếu, chiếm đoạt những đồ quý trọng trong quốc khố nước Yên đem về Tề. Làm sao dân chúng Yên không oán hận? Làm sao các nước chư hầu chung quanh có thể ngồi yên mà không động binh chống lại?

Muốn cho thiên hạ ổn định, các nước chư hầu đình chỉ tiến quân, điều ấy không khó. Chỉ việc chấm dứt chính sách tàn bạo; bàn tính với dân Yên, đặt một vị vua mới được lòng người Yên lên ngôi, trao trả quyền bính cho vị vua ấy, rồi rút hết binh đội về. Thế là mọi sự yên ổn.

Cai trị một đất nước ngàn dặm, nếu biết duy trì chính nghĩa, thi hành chính sách nhân đạo, thì đâu có phải sợ nước nào xâm lấn?

12. Nước Trâu và nước Lỗ xô xát với nhau. Vua Mục Công hỏi rằng: “Các quan chức của ta chết tới ba mươi ba người, mà dân chẳng ai chết cả. Đem giết họ đi, thì không thể giết hết. Nếu không giết, họ sẽ có tật thấy các cấp trên của mình chết mà không cứu. Như thế nên làm sao?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Những năm mất mùa, đói kém, dân của vua, người già cả yếu đuối thì nằm quay ở ngòi rãnh, kẻ trai tráng thì bỏ đi bốn phương, gần tới ngàn người. Thế mà vựa lẫm của vua thì đầy ắp, kho tàng thì dư dật. Các quan chức chẳng ai báo cáo lên. Đó là cấp trên đã khinh thường, tàn hại cấp dưới.

“Thầy Tăng Tử nói: ‘Hãy đề phòng, hãy đề phòng; cái gì đưa ra ở ngươi, cái ấy sẽ trả lại ngươi.’ Ôi, dân nay được lúc trả lại sau vậy. Vua đừng trách móc làm gì. Vua thi hành chính sách nhân đạo thì dân sẽ thân yêu cấp trên, chịu chết cho bề trên.”

BÌNH GIẢI:

Nước Trâu là một nước nhỏ, quê hương của Mạnh Tử. Vua Mục Công nước Trâu, thấy dân chúng không chịu tiếp cứu các quan chức của mình khi xảy ra cuộc tranh chấp với nước Lỗ, đã có ý định muốn đem giết một số người. Nhưng dân chúng nhiều quá, giết làm sao xuể. Trong lúc phân vân, giết hoặc không giết, vua hỏi ý kiến Mạnh Tử.

Mạnh Tử đem quy luật nhân quả ra phân giải. Luật nhân quả là: Gieo nhân nào sẽ gặt được quả đó. Tục ngữ Trung Hoa nói: “Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu: trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.” Do luật nhân quả nên ai gieo nhân xấu sẽ gặp quả xấu. Vì thế, thầy Tăng Tử đã cảnh giác các học trò: “Hãy đề phòng, hãy đề phòng; cái gì đưa ra ở ngươi, cái ấy sẽ trả lại ngươi.”

Vào những năm mất mùa, đói kém, dân chúng chết đói, cơ cực. Vựa lẫm của vua đầy thóc lúa; kho tàng của vua dư dật tiền bạc; thế mà các quan chức không báo cáo tình hình lên vua để mở kho vựa cứu đói cho dân. Đó là các quan chức đã gieo nhân xấu. Nay bị quân địch tấn công, họ phải chịu chết mà không được dân tiếp cứu; đó là họ đã nhận quả xấu vậy. Quy luật nhân quả chi phối thiên nhiên và chi phối nhân sinh. Do vậy, vua không thể trách móc dân được.

Muốn cho dân thân yêu, xả thân vì cấp trên; trước đó, cấp trên phải thương dân, nhất là trong những lúc cơ hàn. Cấp trên cai trị dân mà bỏ mặc dân chịu đói khát, chỉ biết thu thuế cho nhiều; đó là thi hành chính sách vô nhân đạo. Cấp trên cai trị vô nhân đạo mà đòi hỏi dân phải cư xử nhân đạo với mình; điều đó trái lẽ thường.

Người ta chỉ hy sinh cho người thương yêu mình, chẳng ai chịu hy sinh cho kẻ ghét mình, ruồng bỏ mình bao giờ.

13. Đằng Văn Công hỏi rằng: “Đằng là nước nhỏ, ở giữa nước Tề, nước Sở. Thờ nước Tề chăng? Thờ nước Sở chăng?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Đó là toan tính chẳng phải tôi có khả năng đề cập tới. Không thế, thì có một cách. Đào hào, đắp thành, cùng dân gìn giữ. Đến chết, dân chẳng bỏ chạy. Điều đó có thể làm được.”

BÌNH GIẢI:

Đằng Văn Công là vua nước Đằng. Là vua một nước nhỏ (khoảng 50 dặm vuông), nằm xen giữa hai nước lớn Tề và Sở, Đằng Văn Công không biết nên thờ nước nào làm chủ; cho nên mới hỏi ý kiến Mạnh Tử.

Mạnh Tử bác bỏ cả hai: Không thờ Tề, cũng không thờ Sở.

Lý do là: thờ nước Tề thì phải lệ thuộc nước Tề, lại khiến cho nước Sở ghét. Thờ nước Sở phải lệ thuộc nước Sở, lại khiến cho nước Tề ghét. Lệ thuộc Tề, sẽ bị thiệt với Tề; khiến cho Sở ghét, sẽ bị Sở quấy phá. Lệ thuộc Sở, sẽ bị thiệt với Sở; khiến cho Tề ghét, sẽ bị Tề quấy phá.

Nếu không thờ cả hai nước Tề, Sở, chỉ còn một cách duy nhất là nước Đằng phải tự lập, tự cường. Tự lập, tự cường sẽ không phải phiền hà với nước nào mà lại còn được người ta trọng nể.

Muốn tự lập, tự cường thì phải đào hào cho sâu, đắp thành cho chắc; vua quan cùng với dân phải đoàn kết một lòng, phòng thủ cho thật vững.

Ví như Tề muốn đánh Đằng thì sợ Sở can thiệp, hỗ trợ Đằng. Ví như Sở muốn đánh Đằng thì sợ Tề giúp Đằng chống lại. Mình không phải lệ thuộc; lại còn được người ta trọng nể, giữ được thế cân bằng giữa hai cường quốc; còn kế sách nào hay hơn nữa?

Vả lại, cục diện thiên hạ đâu có yên bình mãi mãi. Nước càng lớn càng dễ sinh rối loạn, chia rẽ, biến động. Vào lúc nước Tề, nước Sở có biến động, nước Đằng ở thế độc lập, không bị dính bén vào bên nào, thảnh thơi nhìn xem thiên hạ đại sự diễn ra, chẳng là khôn hay sao?

14. Đằng Văn Công hỏi rằng: “Người nước Tề sắp xây đắp ở nước Tiết, ta sợ lắm. Như thế nên làm sao?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Ngày xưa Thái Vương ở đất Mân, người Địch xâm lấn, phải đi tới núi Kỳ mà ở. Chẳng phải ngài chọn lấy nơi ấy, chẳng đặng đừng thôi.

“Ví như làm điều thiện, con cháu đời sau ắt nên bậc vương giả. Người quân tử mở ra cơ nghiệp để lại giềng mối có thể nối dõi được. Còn như thành công, chỉ có Trời thôi. Vua sao bằng được kẻ kia (người Tề)? Cố gắng làm điều thiện mà thôi vậy.”

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn trên, Mạnh Tử đã bày mưu cho Đằng Văn Công đào hào sâu, đắp thành chắc, cùng dân chúng phòng thủ cẩn mật để duy trì chính sách tự lập, tự cường. Đó là kế hoạch thượng sách. Thực ra, khi nêu ra đường lối tự lập, tự cường, Mạnh Tử cũng không có ý muốn Đằng Văn Công tử chiến đến cùng. Bởi vì quyết tử không phải là đường lối biến thông.

Giờ đây, thấy nước Tiết bị nước Tề chiếm, Đằng Văn Công hoảng sợ. Mạnh Tử đem chuyện Thái Vương (nội tổ của Chu Văn Vương) bị người Địch phương Bắc xâm lấn, phải bỏ đất Mân đến xây dựng cơ nghiệp ở Kỳ Sơn; đó là Mạnh Tử kín đáo nói đến kế hoạch hạ sách, bất đắc dĩ Đằng Văn Công phải bỏ kinh đô chạy đi chốn khác.

Tuy nhiên, trước khi xảy ra tình huống xấu nhất ấy, Mạnh Tử vẫn khuyên vua cố gắng làm điều thiện, gieo nhân tốt để con cháu được gặt quả phúc mai sau, trở nên bậc vương giả, cai trị thiên hạ.

Trước khi con cháu thu được quả phúc, ít ra trong lúc này, vua ra sức làm điều thiện sẽ khích động dân chúng đoàn kết sau lưng vua. Giữa vua, quan và dân chúng đoàn kết chặt chẽ, không có kẽ hở chia rẽ nào, thì quân Tề cũng khó lòng tấn công và xâm nhập. Đó là kế hoạch trung sách vậy.

Dù sao, con người cần phải mưu tính cẩn thận trên căn bản đạo đức; còn có hoàn toàn thành công hay không là do ở Trời. Cổ nhân vẫn tin: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”(mưu việc ở người, nên việc ở Trời). Nhưng trước khi biết Trời hành động ra sao, con người vẫn cứ phải làm hết sức mình: “Tận nhân lực nhi qui thiên số” (làm hết sức người rồi hãy chấp nhận số Trời). Cái việc cần phải làm hết sức lúc bấy giờ đối với Đằng Văn Công là cố gắng làm điều thiện.

15. Đằng Văn Công hỏi rằng: “Đằng là nước nhỏ, có hết sức phụng thờ nước lớn, cũng chẳng khỏi (bị lấn). Như thế, nên làm sao?”

Mạnh Tử đáp rằng: “Ngày xưa Thái Vương ở đất Mân, người Địch xâm lấn. Đem da thú, lụa là, phụng tiến, mà chẳng khỏi bị lấn. Đem chó, ngựa phụng tiến mà chẳng khỏi được. Đem châu ngọc phụng tiến, cũng chẳng khỏi được. Ngài bèn dặn dò các cụ già lịch duyệt, báo cho họ rằng: ‘Lòng ham muốn của người Địch là đất đai của ta thôi. Ta có nghe: Người quân tử không lấy cái để nuôi người (đất đai) mà làm hại người. Các ông lo gì không có vua? Ta sắp bỏ đi.’ Bỏ đất Mân, vượt qua Lương Sơn, ngài lập ấp dưới núi Kỳ mà ở. Người Mân nói: ‘Người có đức nhân không thể bỏ được.’ Họ kéo theo ngài như đi chợ.

“Có người nói: ‘Coi giữ dòng tộc, chẳng được làm theo khả năng của mình; đến chết, cũng đừng bỏ đi.’ Xin vua chọn trong hai lập trường đó.”

BÌNH GIẢI:

Ở đoạn trên, Mạnh Tử đã nói tới trường hợp của Thái Vương nhà Chu, bỏ đất Mân đi lánh nạn. Ở đây, Mạnh Tử nhắc lại điều ấy một lần nữa khi Đằng Văn Công hỏi về cách xử trí vào lúc nước Đằng không thể đương đầu được với sự xâm lấn của nước lớn.

Như thế, rõ ràng lập trường của Mạnh Tử trước sau vẫn là: đến lúc cùng thì bỏ đất mà chạy để bảo toàn lực lượng. Điều đó phù hợp với sự khôn ngoan trong phép hành quân: “Tam thập lục kế, đào vi thượng sách”(Ba mươi sáu kế, bỏ trốn là kế sách trên hết). Dĩ nhiên kế này chỉ được sử dụng khi không còn kế nào hơn nữa. Đó là kế cuối cùng!

Mặc dầu, Mạnh Tử có nêu ra lập trường của người nào đó, “thà chịu chết, chứ không bỏ đất đai của tổ tiên”, để cho Đằng Văn Công tùy ý chọn lựa. Nhưng Mạnh Tử không chấp nhận lập trường ấy. Ông là một hiền triết, chủ trương biến thông, cố giữ lấy thân mình để tính kế lâu dài về sau; chứ không chấp nhận chết oan uổng, khư khư giữ lấy tiết tháo hư danh, vô ích.

16. Lỗ Bình Công sắp ra đi. Kẻ được sủng ái là Tang Thương thưa rằng: “Ngày nọ, vua ra đi, ắt có lệnh cho quan chức biết chỗ đến. Nay xe ngựa đã đóng, quan chức chưa được biết chỗ đến. Dám xin hỏi.”

Vua Bình Công nói: “Sắp đi thăm ông Mạnh Tử.”

Người ấy nói: “Tại sao vua coi nhẹ thân mình mà đến trước với kẻ tầm thường ấy? Cho là bậc hiền chăng? Lễ nghĩa do bậc hiền mà ra, nhưng Mạnh Tử tổ chức đám tang sau vượt hơn đám tang trước. Vua đừng đến thăm.”

Vua nói: “Ừ.”

Nhạc Chính tử vào chầu nói rằng: “Sao vua không đến thăm ông Mạnh Kha?”

Vua nói: “Có người báo cho quả nhân rằng: Mạnh Tử tổ chức đám tang sau vượt hơn đám tang trước. Thế nên không đi thăm nữa.”

Hỏi: “Sao vua bảo vượt hơn? Trước là kẻ sĩ, sau là quan đại phu; trước dùng ba vạc, mà sau dùng năm vạc chăng?”

Vua nói: “Không phải. Ta cho là dùng quan quách, áo quần tẩm liệm đẹp đẽ.”

Đáp lời: “Chẳng phải điều ấy là vượt hơn đâu. Nghèo giàu không giống nhau thôi.”

Nhạc Chính tử viếng Mạnh Tử nói: “Khắc này báo cáo với vua. Vua định đến thăm thầy. Kẻ được sủng ái là Tang Thương ngăn cản vua. Thế nên vua quyết không đến nữa.”

Mạnh Tử nói: “Thăng tiến, là có người tiến cử; dừng lại, là có người ngăn cản. Thăng tiến hay dừng lại chẳng phải khả năng của con người. Ta không gặp được Lỗ Hầu, là do Trời vậy. Người con cuả họ Tang sao có thể khiến ta không gặp được?”

BÌNH GIẢI:

Lỗ Bình Công nghe Nhạc Chính tử (tên là Khắc), một quan chức trong triều, tiến cử Mạnh Tử là bậc hiền; cho nên sửa soạn đến thăm để mời tham chính. Nhưng Tang Thương, kẻ được vua sủng ái, đã chê bai Mạnh Tử là kẻ tầm thường, hành động trái lễ nghĩa. Lý do là: Mạnh Tử tổ chức tang lễ sau cho mẹ lại long trọng hơn tang lễ cho cha ngày trước. Người Trung Hoa xưa trọng cha hơn mẹ; tổ chức tang lễâ cho mẹ lớn hơn cho cha là trái lễ nghĩa. Đã trái lễ nghĩa thì không thể là bậc hiền được. Bậc hiền bao giờ cũng giữ đúng lễ nghĩa để làm mẫu mực cho thiên hạ. Nghe Tang Thương nói như vậy, Lỗ Bình Công không đến thăm Mạnh Tử nữa.

Không thấy Lỗ Bình Công đến thăm Mạnh Tử, Nhạc Chính tử vào chầu vua để hỏi cho ra lý do. Nhạc Chính tử là học trò của Mạnh Tử, muốn vua dùng thầy mình vào việc cai trị đất nước.

Vua cho biết lý do không đi là vì thấy Mạnh Tử khiếm lễ, không xứng danh bậc hiền. Nhạc Chính tử thanh minh: trước kia, khi tổ chức lễ cúng cha, Mạnh Tử là quan sĩ; theo lễ, chỉ được dâng cúng ba vạc thực phẩm: một vạc cá, một vạc thịt heo, một vạc thịt khô. Về sau, khi mẹ mất, Mạnh Tử đã là quan đại phu; theo lễ thì được dâng cúng năm vạc thực phẩm: cá, thịt heo, thịt khô, thịt dê (trừu), nem chả.[22] Như thế, việc vượt hơn đó là hợp lễ.

Lỗ Bình Công không xét đến việc ấy. Vua cho rằng việc vượt hơn ở chỗ: dùng quan quách và quần áo tẩm liệm cho mẹ đẹp đẽ hơn.

Nhạc Chính tử phân giải thêm: Điều đó không phải khiếm lễ; chẳng qua là lúc tổ chức tang lễ cho cha thì Mạnh Tử còn nghèo; lúc an táng mẹ, Mạnh Tử đã khá giả hơn.

Sau khi ở triều về, Nhạc Chính tử đến thăm Mạnh Tử và cho biết rằng chỉ vì Tang Thương gièm pha, ngăn cản mà vua không đến thăm thầy.

Mạnh Tử không hề buồn giận, bình thản bày tỏ ý kiến của mình: Được thăng tiến địa vị để có cơ hội hành đạo, phải có người tiến cử. Bị chặn lại là do có người ngăn cản. Tuy nhiên, dù được thăng tiến hay bị ngăn chặn; điều đó không phải là do con người, mà do mệnh Trời. Không gặp được Lỗ hầu để thi hành ước nguyện cứu dân, cứu nước là do mệnh Trời thôi. Một người như Tang Thương không làm gì được. Cho nên chẳng trách Tang Thương làm gì.

Theo đạo thống chính truyền Nho giáo, Mạnh Tử cũng như Khổng Tử thuở trước, rất tin vào mệnh Trời. Khổng Tử đã từng nói: “Đạo chi tương hành giả dư, mệnh dã; đạo chi tương phế giả dư, mệnh dã – 道之將行也與, 命也;道 之將廢也與,命也。 (Đạo truyền ra được, mệnh vậy; đạo bị bỏ đi, mệnh vậy.” (Luận ngữ, Hiến vấn).

Những lúc bất như ý, tin vào mệnh Trời có cái lợi là người quân tử không phải buồn phiền, oán trách ai; lúc nào cũng được thảnh thơi tự tại, sống bình yên mà làm điều thiện: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh – 上不怨天,下不尤人。故居易以俟命。 (Trên không oán Trời, dưới không trách người, ở bình dị mà đợi mệnh.” (Trung Dung).

❁ ❁ ❁
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Luận Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung
LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x