Trang chủ » Thượng đế trong vạn hữu

Thượng đế trong vạn hữu

by Trung Kiên Lê
73 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại London, 27 tháng 10, 1896)

Chúng ta hiểu rõ rằng phần lớn đời sống đều chứa đầy điều xấu xa, đó là chuyện tất yếu, nhưng chúng ta phản kháng lại chuyện đó, và hiểu rằng khối lượng điều xấu xa này, trên thực tế, đối với chúng ta là vô tận.

Kể từ khởi thủy, chúng ta đã đấu tranh chống lại điều đó, thế nhưng mọi chuyện vẫn cứ y nguyên như cũ, chẳng có gì thay đổi. Chúng ta càng tìm ra thuốc chữa thì lại càng thấy mình bị bủa vây bởi những điều xấu xa tinh vi hơn.

Chúng ta thấy rằng mọi tôn giáo đều gợi ý một Thượng Đế, xem đó là biện pháp để thoát khỏi những vấn nạn này. Mọi tôn giáo đều bảo chúng ta rằng nếu đón nhận thế giới này đúng như thực trạng của nó – như phần lớn những người có đầu óc thực tế trong thời buổi hiện nay khuyên ta nên làm – thì chúng ta chẳng còn gì ngoài những điều xấu xa.

Họ còn đi xa hơn khi khẳng định rằng còn có một cái gì đó ở bên kia thế giới. Cuộc sống trong phạm vi giác quan, cuộc sống trong thế giới vật chất không phải là tất cả; mà nó chỉ là một bộ phận nhỏ, hời hợt bên ngoài. Đằng sau thế giới và bên kia thế giới là Cõi Vô Biên, nơi đó không hề có tội lỗi.

Một số dân tộc gọi đó là Chúa, là Thượng Đế, các dân tộc khác gọi là Allah, các dân tộc khác nữa gọi là Jehovah hay Jove, v.v… Còn những triết gia Vedānta thì gọi là Brahman. Ấn tượng đầu tiên đến từ những lời khuyên của tôn giáo là: tốt hơn hết thì chúng ta hãy từ bỏ cuộc sống này.

Đối với vấn đề làm thế nào để chữa trị những điều xấu xa của cuộc sống, câu trả lời hiển nhiên là: hãy từ bỏ nó. Nó gợi ta nhớ đến một câu chuyện cổ. Có một con muỗi đậu trên trán của một người nọ.

Một người bạn muốn giết con muỗi nên tống một quả đấm mạnh đến nỗi giết chết cả anh ta lẫn con muỗi. Phương thuốc chữa trị cho những điều xấu xa tựa hồ cũng gợi cho ta một điều như thế.

Cuộc sống đầy những điều xấu xa, thế giới đầy những điều xấu xa, đó là một sự kiện mà không một người chín chắn hiểu đời nào lại có thể phủ nhận. Nhưng phương thuốc chữa trị mà các tôn giáo đưa ra là gì? Đó là: thế giới này là hư không, chỉ bên kia thế giới mới là thực hữu.

Ở đây lại nảy sinh ra những vấn nạn. Phương thuốc chữa trị đó dường như phá hủy hết mọi thứ. Vậy thì làm thế nào nó có thể là phương thuốc chữa trị được? Không có con đường nào thoát ra chăng? Triết học Vedānta bảo rằng tất cả những gì các tôn giáo đề nghị đều hoàn toàn chân thực, nhưng cần phải hiểu cho đúng.

Thường thì điều đó bị ngộ nhận, bởi vì ý nghĩa của các tôn giáo không thật tường minh. Điều chúng ta cần là sự kết hợp giữa khối óc với trái tim. Trái tim thì thật sự vĩ đại, biết bao nguồn cảm hứng to lớn cho cuộc đời đã nảy sinh từ chính trái tim.

Tôi trăm ngàn lần mong muốn thà có một trái tim nhỏ bé và không có khối óc, còn hơn là có một khối óc vĩ đại mà không có trái tim. Cuộc sống sẽ dễ chịu, và sự tiến bộ sẽ đến được với người có một trái tim, còn những kẻ chỉ có khối óc mà không có trái tim sẽ phải chết trong sự khô cằn.

Đồng thời ta cũng biết rằng những người nào chỉ để mình cuốn theo tiếng nói của con tim sẽ phải gánh chịu những điều tồi tệ, bởi vì thỉnh thoảng anh ta rất có thể bị ngã hầm sụp hố. Sự kết hợp giữa khối óc và trái tim là điều mà chúng ta cần.

Tôi không có ý nói rằng một người nên đem trái tim thỏa hiệp với khối óc hay ngược lại, mà muốn rằng tất cả mọi người đều có những cảm xúc dạt dào vô tận, đồng thời lại có lý trí vô biên.

Có giới hạn nào cho những điều chúng ta mong đợi ở thế giới hay không? Thế giới này có vô biên hay không? Còn có chỗ cho khối lượng vô biên của cảm xúc, và cũng còn có chỗ cho khối lượng vô biên của kiến thức và trí năng.

Hãy để chúng đi bên nhau không giới hạn, hãy để chúng sánh vai cùng bước, như từ trước đến nay, theo thể điệu song hành. Phần lớn các tôn giáo đều hiểu điều đó, nhưng dường như chúng đều phạm phải một sai lầm như nhau, đó là chúng cứ để bị cuốn theo bởi trái tim và cảm tính.

Thế gian này đầy những điều xấu xa, hãy từ bỏ thế gian; đó là lời thuyết giảng vĩ đại, lời thuyết giảng vĩ đại duy nhất, không còn nghi ngờ gì cả.

Hãy từ bỏ thế gian. Không thể nào có hai quan điểm: để hiểu chân lý thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ điều lầm lạc. Không thể nào có hai quan điểm: để làm được điều tốt thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ điều xấu.

Không thể nào có hai quan điểm: để có được sự sống thì mỗi người trong chúng ta phải từ bỏ cái chết. Vậy thì ta còn lại gì, nếu như giáo lý này đề cập đến việc từ bỏ cuộc sống của giác quan – cuộc sống mà chúng ta đều biết rõ? Cái mà ta gọi là cuộc sống có phải là cái gì khác hay không? Nếu từ bỏ nó thì ta còn lại gì?

Sau đây, ta sẽ hiểu điều này rõ hơn, khi đến với những giáo lý đượm màu triết học của kinh Veda. Nhưng lúc này, tôi xin được nói rằng chỉ trong triết học Vedānta, chúng ta mới tìm thấy được giải pháp hợp lý cho vấn đề.

Tại đây, tôi có thể bày ra trước mặt các bạn nội dung của triết học Vedānta, đó là giáo lý biến thế gian thành nơi linh thánh[1]. Trên thực tế, triết học Vedānta không từ khước thế gian. Không ở đâu mà lý tưởng xả ly lại có thể đạt đến đỉnh cao như trong giáo lý Vedānta.

Nhưng đồng thời, nó không có những lời khuyên khô khan về tự vẫn; nó thực sự có nghĩa là biến thế gian thành nơi linh thánh – nghĩa là từ bỏ thế gian như chúng ta nghĩ về nó, như chúng ta biết về nó, đúng như nó hiển lộ ra trước chúng ta – và thấu hiểu chân tướng của nó.

Hãy biến thế gian thành nơi linh thánh, nó chính là Thượng Đế duy nhất. Trong đoạn mở đầu của kinh thư Upanishad tối cổ, ta đọc thấy: “Tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ này đều được bao hàm trong đấng Chúa Tể”.

Ta phải dùng đấng Chúa Tể để bao trùm lên tất cả, không phải bằng thuyết lạc quan sai lạc, không phải bằng cách bịt mắt làm ngơ trước những điều xấu xa, mà bằng cách thực sự nhìn thấy Thượng Đế trong vạn hữu. Như thế, nếu chúng ta từ bỏ thế gian, và khi thế gian bị từ bỏ thì còn lại gì? Thượng Đế.

Điều đó có nghĩa là gì? Các bạn có thể có vợ, chắc chắn các bạn không được từ bỏ người vợ của mình, mà phải nhìn ra Thượng Đế nơi người vợ đó. Hãy từ bỏ con cái – điều đó có nghĩa là gì? Có phải tống cổ chúng ra khỏi cửa, như một số người cục súc thô bạo vẫn làm ở mọi quốc gia? Hoàn toàn không.

Đó là sự tàn độc chứ không phải là tôn giáo. Mà hãy nhìn thấy Thượng Đế nơi chúng. Tương tự như thế, hãy nhìn thấy Thượng Đế trong muôn vật. Trong sự sống và cái chết, trong hạnh phúc và khổ đau, đấng Chúa Tể đều hiện hữu bình đẳng như nhau.

Toàn thể thế gian này đều ngập tràn linh ảnh của đấng Chúa Tể. Hãy mở mắt ra và nhìn Ngài.

Đây là giáo lý Vedānta: Hãy từ bỏ cái thế gian mà các bạn ước đoán, bởi vì sự ước đoán của các bạn chỉ dựa trên những kinh nghiệm manh mún, rời rạc, dựa trên những suy luận quá đỗi nghèo nàn, và dựa trên chính sự yếu đuối của các bạn.

Hãy từ bỏ điều đó, cái thế giới mà các bạn suy tưởng lâu nay, cái thế giới mà các bạn quyến luyến lâu nay là cái thế giới giả dối do ta tự tạo ra. Hãy từ bỏ thế giới đó đi, hãy mở lớn mắt ra và thấy rằng nó chưa từng hiện hữu như thế; thế giới đó là giấc mộng, là māyā.

Cái thực sự tồn tại, đó là chính đấng Chúa Tể. Ngài là đấng hiện hữu trong đứa trẻ, trong người vợ, trong người chồng; Ngài là đấng hiện hữu trong thiện và ác, trong tội lỗi và trong kẻ phạm tội; Ngài là đấng hiện hữu trong sự sống và cái chết.

Một điều khẳng định thực sự khủng khiếp! Tuy vậy, đó là chủ đề mà triết học Vedānta muốn chứng minh, giảng dạy và thuyết giảng. Điều này mới chỉ là chủ đề mở đầu. Chúng ta tránh né những hiểm nguy trong cuộc sống cùng những điều xấu xa của nó, bằng cách nhìn thấy Thượng Đế trong vạn hữu.

Đừng khát khao bất cứ điều gì. Điều gì khiến chúng ta phải khốn khổ? Căn nguyên của mọi khốn khổ mà chúng ta phải gánh chịu chính là dục vọng. Nếu bạn ham muốn một điều gì đó mà không được thỏa mãn, kết quả là sự khốn khổ.

Nếu không còn ham muốn thì không còn khổ đau. Nhưng ở đây, cũng có nguy cơ tôi bị hiểu sai. Cho nên tôi cần phải giải thích rõ ý của mình, đó là: từ bỏ tham dục và thoát khỏi khổ đau. Các bức tường không có tham dục, và chúng không bao giờ đau khổ.

Đúng vậy, nhưng chúng cũng không bao giờ tiến hóa được. Cái ghế này không có tham dục, và nó không bao giờ đau khổ; nhưng vĩnh viễn nó cũng chỉ là cái ghế. Có vinh quanh trong hạnh phúc và cũng có vinh quang trong đau khổ.

Nếu tôi dám nói điều này, ngay trong tội lỗi cũng có điều hữu ích. Tất cả chúng ta đều biết đến bài học vĩ đại trong đau khổ. Có hàng trăm việc ta đã làm trong đời mình mà ta ước phải chi đừng có làm, nhưng đồng thời chính những việc đó là những vị thầy vĩ đại của ta.

Về phần mình, tôi vui sướng là đã làm được một số việc tốt và rất nhiều việc xấu, bởi vì việc nào cũng đều là một bài học lớn. Tôi giờ đây là kết quả của tất cả những gì tôi đã làm và những gì tôi đã suy nghĩ. Mọi hành động của thân và ý đều tạo nên quả, và những quả này là tổng số sự tiến bộ của tôi.

Tất cả chúng ta đều hiểu rằng tham dục là sai, nhưng từ bỏ tham dục có nghĩa là gì? Lúc đó đời sống sẽ ra sao? Điều đó có vẻ giống như lời khuyên nên tự vẫn, giết chết tham dục và cả con người. Giải pháp là như vầy.

Không phải là các bạn không nên có của cải, cũng không phải là các bạn không nên có những vật dụng cần thiết, thậm chí là những thứ xa hoa sang trọng – mà tất cả những gì các bạn cần phải có, và còn cần hơn thế nữa, đó là hiểu được chân lý về tài sản: nó không thuộc về một ai cả.

Đừng có một quan niệm nào khác về tài sản, về sở hữu. Bạn chẳng phải là ai cả, tôi cũng vậy, bất cứ người nào cũng vậy. Tất cả đều thuộc về Thượng Đế, bởi vì câu thơ mở đầu trong Iśa Upanishad đã nói với ta rằng hãy đem Thượng Đế bao trùm lên vạn hữu.

Thượng Đế là tài sản mà các bạn thụ hưởng. Ngài là khát vọng phát sinh trong tâm trí các bạn. Ngài là đồ vật bạn mua sắm để thỏa mãn khát vọng của mình; Ngài ở trong dáng diệu xinh đẹp của các bạn, ở trong những đồ trang sức mỹ lệ của các bạn.

Đây là phương thức tư duy. Tất cả sẽ chuyển hình biến tướng ngay khi các bạn nhìn sự vật trong làn ánh sáng đó.

Nếu các bạn đặt Thượng Đế trong mọi hành động của mình, trong mọi lời nói, trong mọi hình thái, trong mọi sự vật thì toàn bộ cảnh tượng sẽ thay đổi, và thế giới – thay vì hiện ra như là một nơi đầy sầu não, khổ đau – sẽ biến thành một cõi thiên đàng.

Đức Chúa Jesus phán: “Nước thiên đàng ở trong tâm hồn các ngươi”. Triết học Vedānta và mọi đạo sư vĩ đại trên thế gian cũng đều nói như thế. “Những ai có mắt để nhìn, hãy để họ nhìn; và những ai có tai để nghe, hãy để họ nghe”.

Triết học Vedānta chứng minh rằng chân lý mà chúng ta mê mải đi tìm từ trước đến nay là cái hiện tại, và luôn ở trong tâm ta từ vô thủy. Do vô minh, ta ngỡ đã đánh mất nó, nên chúng ta đi khắp thế gian mà kêu gào than khóc, đấu tranh để tìm chân lý đó, trong khi nó vẫn luôn hiện hữu trong tâm ta.

Chỉ ở nơi đó, trong tâm ta, ta mới có thể tìm ra chân lý mà thôi Nếu ta hiểu việc từ bỏ thế gian theo nghĩa thô thiển ngày trước thì sẽ dẫn đến điều này: chúng ta không cần phải làm việc, mà cứ nhàn nhã nghỉ ngơi, cứ ngồi thù lù như một cục đất, không suy nghĩ mà cũng chẳng cần làm một chuyện chi hết, cứ phó mặc cho số phận, để hoàn cảnh đưa đẩy, cứ để quy luật thiên nhiên thổi dạt lênh đênh tới đâu hay đó.

Kết cục sẽ là vậy đấy.

Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói. Chúng ta phải làm việc. Một người bình thường nếu cứ để cho những tham vọng hão huyền thổi dạt đi khắp mọi nơi thì anh ta biết gì về công việc? Một người nếu cứ bị thôi thúc bởi những cảm hứng bốc đồng, bởi tham vọng và dục lạc thì anh ta biết gì về công việc?

Chỉ những ai không để bị thôi thúc bởi những tham vọng và bất kỳ thói ích kỷ nào mới là những người làm việc thực sự. Chỉ những ai không để bị thôi thúc bởi những động cơ kín đáo mới là những người làm việc thực sự. Chỉ những ai không mong thu hoạch thành quả từ công việc mới là những người làm việc thực sự.

Ai là người thưởng ngoạn bức tranh? Người bán hay người xem? Người bán lăng xăng bận rộn với những khoản tiền, tính toán thu hoạch được bao nhiêu, lời lãi được chừng nào khi bán bức tranh. Đầu óc anh ta đầy ắp những thứ đó. Anh ta nhìn cái búa và quan sát những khoản tiền đấu giá.

Anh ta chỉ quan tâm những khoản tiền đấu giá đó lên cao bao nhiêu. Người thưởng ngoạn bức tranh là người đi đến đó mà không hề có ý định mua hay bán thứ gì. Anh ta nhìn bức tranh và thưởng ngoạn nó.

Toàn thể vũ trụ cũng như thế đó, nó là một bức tranh; khi mọi tham dục tan biến thì con người thưởng ngoạn được thế giới, và những chuyện mua bán cùng những ý tưởng điên rồ về chiếm hữu đều sẽ kết thúc. Kẻ cho vay tiền sẽ ra đi, người bán cũng ra đi, người mua cũng ra đi, thế giới này còn lại như một bức tranh, một bản vẽ xinh đẹp.

Tôi chưa bao giờ đọc được một ý tưởng nào về Thượng Đế lại đẹp hơn ý tưởng này: “Người là Nhà Thơ Vĩ Đại, Nhà Thơ Cổ Điển; cả vũ trụ này là bài thơ của Người, những câu thơ, âm điệu và tiết tấu phối hợp với nhau trong niềm Lạc Phúc Vô Biên”.

Chỉ khi tâm ta không còn tham vọng thì ta mới có thể đọc ra và thưởng ngoạn được vũ trụ của Thượng Đế. Lúc đó toàn thể vạn vật đều trở nên linh thánh. Những ngóc ngách hay góc khuất, những con đường mòn hay những nơi âm u mà chúng ta ngỡ là tăm tối hoặc phàm tục đều trở nên thiêng liêng, linh thánh.

Hết thảy chúng đều hiển lộ thực tính và chúng ta sẽ mỉm cười về chính bản thân mình, nghĩ tới tất cả những chuyện kêu than, gào khóc đều là trò đùa của trẻ con, và chúng ta chỉ việc đứng một bên để ngắm nhìn. Hãy làm công việc của bạn đi, kinh Veda đã dạy thế.

Trước hết, nó khuyên bảo chúng ta nên làm việc như thế nào: bằng cách từ bỏ – từ bỏ cái thế gian hư ảo, giả dối này. Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là nhìn thấy Thượng Đế ở khắp mọi nơi. Do đó, hãy làm công việc của bạn đi.

Hãy ước mơ sống một trăm năm, thỏa mãn tất cả những khát vọng trần gian, nếu bạn muốn, nhưng chỉ cần biến chúng thành thiêng liêng, chuyển hóa chúng thành cõi thiên đàng. Hãy khao khát sống trọn một đời có ích, đầy lạc phúc và luôn hoạt động trên cõi thế này.

Khi làm việc như thế, các bạn sẽ tìm được một lối thoát ra. Không có con đường nào khác. Nếu một người cứ lao đầu vào những lạc thú xa hoa điên rồ của thế gian mà không biết đến chân lý thì anh ta đã lạc mất nền tảng, và không thể đạt mục tiêu.

Còn người nào cứ nguyền rủa thế gian, đi vào rừng sâu, tu khổ hạnh, tự hành xác mình để chết dần chết mòn bằng cách nhịn đói, biến tâm hồn mình thành bãi sa mạc cằn cỗi, giết dần các cảm xúc, trở nên khô đét, hốc hác thì người đó cũng đi lầm đường.

Đó là hai cực đoan, cả hai đều nhầm lẫn. Cả hai đều lạc đường và cùng đánh mất mục tiêu. Bởi vậy kinh Veda dạy hãy làm việc đi, hãy đặt Thượng Đế trong vạn hữu và biết rằng Ngài hiện hữu trong tất cả sự vật.

Hãy làm việc không ngừng nghỉ, hãy xem cuộc đời là một cái đó rất đỗi thiêng liêng như chính Thượng Đế, và biết rằng đó là tất cả những gì chúng ta phải làm, là tất cả những gì chúng ta cần đòi hỏi.

Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật, vậy ta sẽ đi đâu để tìm Ngài? Ngài đã hiện hữu trong từng công việc, trong từng suy tưởng, trong từng cảm xúc. Khi hiểu được như thế rồi thì chúng ta phải làm việc. Đó là con đường duy nhất, không có con đường nào khác.

Như thế, hiệu quả của công việc sẽ không trói buộc chúng ta.

Ta đã thấy rằng căn nguyên của tất cả bao nỗi khốn khổ và điều xấu xa mà chúng ta phải chịu đựng thật là những khát vọng hư giả biết ngần nào; nhưng một khi chúng trở nên linh thánh, được gột sạch cấu nhiễm qua Thượng Đế thì chúng không còn mang đến điều xấu xa, không còn mang đến khốn khổ não phiền nữa.

Những người không biết được điều huyền mật này sẽ phải sống trong một thế giới quỷ quái, cho đến khi phát hiện ra điều đó. Nhiều người không biết được rằng họ đang có một kho báu vô tận trong mình, ở chung quanh họ, ở khắp mọi nơi; họ vẫn chưa phát hiện ra được điều đó.

Thế giới quỷ quái đó là gì? Vô minh, kinh Veda bảo thế. Chúng ta đang chịu chết khát khi đang ngồi trên bờ một con sông rộng nhất. Chúng ta đang chịu chết đói khi đang ngồi cạnh một đống thức ăn. Đây là một vũ trụ toàn phúc, thế mà ta không tìm thấy nó.

Chúng ta luôn ở trong vũ trụ này tự bao giờ rồi, nhưng vẫn mãi mãi đánh giá sai về nó. Tôn giáo đề nghị tìm cho chúng ta một con đường thoát ra. Khát vọng về một vũ trụ toàn phúc luôn ở trong mọi trái tim.

Mọi quốc gia đều tìm kiếm nó, nó là mục tiêu duy nhất của tôn giáo, và lý tưởng này được diễn đạt bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trong những tôn giáo khác nhau. Chỉ có sự khác biệt về ngôn ngữ mới tạo nên những điểm bất đồng bên ngoài.

Ngôn ngữ này có thể diễn đạt tư tưởng đó theo cách này, ngôn ngữ kia có thể diễn đạt theo cách khác, nhưng có lẽ mỗi ngôn ngữ đều diễn đạt chính xác ý nghĩa mà ngôn ngữ khác đã diễn đạt. Còn có nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề này.

Nói suông thì rất dễ. Ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã nghe nói rằng Thượng Đế hiện hữu khắp nơi và ở trong vạn vật, do đó tôi có thể thực sự thưởng ngoạn thế giới; nhưng ngay khi tôi vừa hòa nhập với thế giới, và nhận một vài cú đấm là ý tưởng kia liền tan biến.

Tôi đi bộ trên phố, đang trầm tư suy nghĩ rằng Thượng Đế hiện hữu trong tất cả mọi người thì một người đàn ông to lớn đi đến, đẩy mạnh tôi một cái khiến tôi ngã sóng soài trên vỉa hè. Tôi liền ngồi nhổm dậy ngay, nắm tay lại, máu xông lên đầu, mất cả bình tĩnh.

Ngay lập tức, tôi nổi điên lên và quên sạch mọi thứ; thay vì gặp Thượng Đế, tôi lại gặp phải một con quỷ. Từ khi mới lọt lòng mẹ, chúng ta đã nghe nói rằng Thượng Đế hiện hữu trong tất cả sự vật.

Tôn giáo nào cũng dạy điều đó: hãy nhìn thấy Thượng Đế hiện hữu khắp mọi nơi và trong muôn vật. Các bạn có nhớ trong Tân Ước, Chúa Jesus cũng đã dạy như thế không? Tất cả chúng ta đều được dạy điều đó, nhưng chỉ khi va chạm với thực tế thì mới phát sinh sự khó khăn.

Tất cả các bạn còn nhớ trong Truyện ngụ ngôn của Aesop có một con nai xinh đẹp đứng ngắm bóng nó soi dưới nước, rồi nói với con nai con: “Ta thật là dũng mãnh, con hãy nhìn cặp sừng oai vệ của ta, hãy nhìn đôi chân của ta, chúng thật mạnh khỏe và gân guốc biết chừng nào, và ta chạy nhanh biết mấy”.

Đúng lúc đó, nó nghe tiếng chó sủa vang vẳng từ xa, thế là nai ta lập tức ba chân bốn cẳng bỏ chạy trối chết; sau khi chạy được vài dặm, nó quay lại thở hổn hển. Con nai con liền hỏi: “Bố vừa mới bảo với con là bố rất mạnh khỏe, vậy sao vừa mới nghe tiếng chó sủa, bố đã bỏ chạy mất tiêu?”.

“Đúng là bố mạnh khỏe thật, con à; nhưng khi nghe tiếng cho sủa thì tất cả lòng tự tin của bố đều tiêu tan hết”. Trường hợp chúng ta cũng vậy đấy.

Chúng ta nghĩ đến nhân loại bằng những tư tưởng cao cả, ta thấy mình khỏe mạnh và dũng cảm, chúng ta quyết tâm làm những điều vĩ đại, thế nhưng khi “những con chó” thử thách và cám dỗ cất lên tiếng sủa, thế là chúng ta giống như con nai đó trong truyện ngụ ngôn.

Nếu tình cảnh là như thế thì giáo lý về tất cả những điều này có lợi ích gì? Có lợi ích to lớn nhất. Lợi ích đó là như vầy: cuối cùng sự kiên trì sẽ chiến thắng. Không có gì có thể thành tựu trong một sớm một chiều. “Đầu tiên, ta nghe nói đến Chân Ngã này, rồi tư duy về nó và thiền quán về nó”.

Người nào cũng đều có thể nhìn thấy bầu trời, thậm chí cả con sâu bò trên mặt đất cũng có thể nhìn thấy được bầu trời xanh kia, nhưng nó cao xa biết mấy! Lý tưởng chúng ta cũng thế. Hiển nhiên là nó quá xa vời, nhưng đồng thời chúng ta biết rằng ta phải có được nó.

Thậm chí chúng ta cần phải có lý tưởng cao cả nhất. Thật không may là trong cuộc sống, phần lớn mọi người đều mò mẫm đi qua cõi đời tối tăm này mà chẳng hề có một lý tưởng nào. Nếu một người có lý tưởng mà phạm một ngàn sai lầm thì tôi tin chắc rằng một người không có lý tưởng phải phạm đến năm mươi ngàn sai lầm.

Bởi vậy, tốt hơn là nên có một lý tưởng. Và lý tưởng này, ta cần phải nghe nói đến nó càng nhiều càng tốt, cho đến khi nó nhiễm sâu vào tâm hồn ta, vào trí não ta, vào từng mạch máu của ta, cho đến khi nó kích thích từng giọt máu của ta, và thấm vào từng lỗ chân lông trên cơ thể ta.

Chúng ta phải trầm tư về nó. “Miệng phát biểu từ sự viên mãn của trái tim”, và bàn tay cũng làm việc từ sự viên mãn của trái tim. Chính tư tưởng là sức mạnh thôi thúc trong ta. Hãy lấp đầy tâm trí bằng những tư tưởng cao siêu nhất, hãy nghe chúng lên tiếng từ ngày này qua ngày khác, hãy suy nghĩ đến chúng từ tháng này sang tháng khác.

Đừng bao giờ bận tâm đến những sự thất bại, vì đó là chuyện đương nhiên. Những thất bại đó là vẻ đẹp của cuộc sống. Đời sống sẽ ra sao nếu không thất bại? Cuộc đời không đáng có nếu thiếu đi sự đấu tranh. Chất thơ trong cuộc sống sẽ ở nơi đâu?

Đừng bao giờ bận tâm đến chuyện đấu tranh, đến lỗi lầm. Tôi chưa bao giờ nghe một con bò nói dối, nhưng nó chỉ là con bò, chứ không bao giờ là con người.

Bởi vậy, đừng bao giờ bận tâm đến những thất bại đó, những bước thụt lùi nhỏ nhoi đó; hãy gìn giữ lý tưởng một ngàn lần, và nếu các bạn thất bại một ngàn lần, hãy cố gắng thêm một lần nữa. Lý tưởng của con người là thấy được Thượng Đế hiện hữu trong muôn vật.

Nhưng nếu các bạn không thể thấy được Ngài trong muôn vật thì hãy thấy được Ngài trong một sự vật, trong sự vật mà bạn yêu thích nhất, rồi hãy thấy Ngài trong sự vật khác. Các bạn có thể tiếp tục như thế. Có một cuộc sống vô tận bày ra trước linh hồn.

Cứ thong thả và các bạn sẽ đạt được cứu cánh cuối cùng. “Ngài, đấng Duy Nhất, đấng dao động nhanh hơn tâm trí, di chuyển nhanh hơn tâm trí, đấng mà ngay cả chư thần cũng không vươn đến được, tư tưởng cũng không thấu hiểu được – khi Ngài chuyển động thì muôn vật đều chuyển động theo.

Muôn vật đều hiện hữu trong Ngài. Ngài đang chuyển động, nhưng Ngài vẫn bất động. Ngài tuy gần mà xa. Ngài ở bên trong muôn vật. Ngài ở bên ngoài muôn vật, quán thông muôn vật.

Ai cũng đều thấy Ātman đó trong mọi sinh thể, ai cũng đều thấy cũng toàn thể muôn vật trong chính Ātman đó, nhưng Ngài chưa bao giờ rời xa khỏi Ātman đó. Khi một người nhìn thấy được toàn bộ cuộc sống và toàn thể vũ trụ trong Ātman này thì người đó quán chiếu được mọi điều huyền ẩn.

Người đó không còn mắc phải vọng tưởng nữa. Còn nỗi khốn khổ nào dành cho người đã kiến chiếu được Nhất Thể Tính này trong vũ trụ?” Đây là một chủ đề lớn khác nữa của triết học Vedānta: Nhất Thể Tính của đời sống, Nhất Thể Tính của toàn thể vạn hữu.

Ta sẽ thấy nó chứng minh được toàn bộ sự khốn khổ của chúng ta đều xuất phát từ vô minh ra sao; và vô minh này là quan niệm về tính phồn tạp đa thù, về sự phân cách giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, giữa trái đất với mặt trăng, giữa mặt trăng với mặt trời.

Từ quan niệm về sự phân cách giữa nguyên tử này với nguyên tử khác đã làm nảy sinh mọi điều khốn khổ. Nhưng triết học Vedānta bảo rằng sự phân cách đó không hề tồn tại, nó không có thực. Nó chỉ là biểu hiện hời hợt bên ngoài.

Trong tâm của muôn vật vẫn có sự Thống Nhất. Nếu đi xuống dưới phần bề mặt, các bạn sẽ thấy sự Thống Nhất giữa người với người, giữa chủng tộc với chủng tộc, giữa cao thượng với thấp hèn, giữa giàu với nghèo, giữa thần linh với con người, giữa con người với loài vật.

Nếu đi sâu hơn nữa, ta sẽ thấy tất cả chỉ là biểu hiện khác nhau của Nhất Thể. Người nào chứng ngộ được Nhất Thể Tính này thì không còn mắc vọng tưởng phân biệt nữa. Điều gì có thể lừa dối được kẻ đã biết được thực tướng của muôn vật, biết được điều huyền mật của vạn hữu?

Liệu có nơi nào còn nỗi khốn khổ cho người đó? Người đó khát khao điều gì? Người đó đã lần theo thực tướng của muôn vật để đến được với Thượng Đế, với đấng Trung Tâm, với sự Thống Nhất của muôn vật, và đó là Hiện Hữu Thường Hằng, Kiến Thức Thường Hằng, Lạc Phúc Thường Hằng.

Ở đó không còn cái chết, bệnh tật, phiền não, khốn khổ hay bất mãn. Tất cả đều là sự Hợp Nhất Viên Mãn và Lạc Phúc Viên Mãn. Vậy thì người đó còn phải than khóc cho ai nữa? Trong Thực Tướng không còn cái chết, không còn phiền não khổ đau, không còn ai để ta phải than khóc, cũng chẳng còn ai để ta phải muộn phiền.

Người đó đã xuyên thấu được vạn hữu – đó là bậc Thuần Tịnh, Vô Tướng, Vô Thể, Vô Nhiễm. Người đó là bậc Tuệ Trí, là Đại Thi Nhân, là đấng Tự Tồn Tự Hữu; người đó ban cho tất cả mọi người những gì mình xứng đáng nhận.

Những kẻ nào sùng bái cái thế giới ngu tối này – cái thế giới được tạo ra bởi vô minh – và nghĩ rằng cái thế giới này thực sự tồn tại thì những kẻ đó đều phải mò mẫm bước đi trong đêm tối; còn những kẻ nào sống trọn đời trong cái thế giới này mà không tìm thấy được điều gì cao cả hơn hay tốt đẹp hơn thì những kẻ đó còn mò mẫm trong cõi tối tăm hơn nữa.

Nhưng những ai biết được điều huyền mật của thế giới tự nhiên, nhờ vào sự trợ giúp của thế giới tự nhiên mà thấy được Cái nằm bên kia thế giới tự nhiên thì kẻ đó vượt qua được cái chết; và nhờ vào sự trợ giúp của Cái nằm bên kia thế giới tự nhiên, kẻ đó hưởng được Lạc Phúc Thường Hằng.

“Cánh cửa Chân Lý được phủ bằng một cái đĩa bằng vàng. Hãy mở nó ra, hỡi đấng Dưỡng Nuôi Muôn Vật[2]! Hãy gỡ bỏ cái đĩa đó đi để cho ta – kẻ tôn thờ Chân Lý – có thể nhìn thấy được”.

“Hỡi đấng Dưỡng Nuôi Muôn Vật, kẻ Lữ Hành Cô Độc trên bầu trời! Hỡi đấng Chế Ngự Thế Gian! Hỡi Vầng Dương, hậu duệ của đấng Prajāpati! Hãy gom tia nắng của người lại, hãy thu ánh sáng của người lại. Nhờ vào ân sủng của người, ta muốn được thấy Hình Tướng tối diệu của người. Ta thực sự là Purusha, kẻ đang cư lưu nơi đó”.

[1] Đây cũng chính là tư tưởng trang nghiêm quốc độ, biến cõi Ta Bà thành Niết Bàn trong tư tưởng Phật giáo.

[2] Chỉ mặt trời.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x