Trang chủ » Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn I

by Trung Kiên Lê
70 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại London, 10 tháng 10, 1896)

Người ta yêu cầu tôi nói đôi điều về vai trò thực tiễn của triết học Vedānta. Như tôi đã trình bày cũng các bạn, triết học này thực sự tốt đẹp, nhưng làm thế nào để chúng ta vận dụng nó vào thực tiễn?

Bất kỳ thuyết nào, nếu hoàn toàn không thể vận dụng được vào thực tiễn thì cũng chẳng có một chút giá trị gì, mà chỉ được xem là môn thể thao trí tuệ. Triết học Vedānta, do đó, hiểu theo nghĩa là một tôn giáo, mang tính thực tiễn rất cao. Chúng ta có thể vận dụng nó vào mọi sinh hoạt trong đời sống.

Không chỉ thế thôi đâu. Sự khác biệt giả tạo giữa tôn giáo và đời sống phải biến mất, bởi vì triết học Vedānta dạy về Nhất Thể Tính – chỉ có một sự sống xuyên suốt tất cả.

Lý tưởng tôn giáo phải bao trùm mọi lĩnh vực đời sống, chúng phải đi vào trong mọi tư tưởng của chúng ta, và đi sâu nhiều hơn nữa vào đời sống thực tế. Tôi sẽ dần dần nêu ra những khía cạnh thực tế, khi chúng ta đi sâu vào triết học này.

Nhưng ý định của loạt các bài giảng này là tạo một nền tảng, do đó, chúng ta tự phải vận dụng thuyết này vào chính bản thân mình, và phải hiểu chúng được vận dụng ra sao, không chỉ nơi hang thẳm trong rừng sâu mà còn ở những thành phố náo nhiệt xô bồ.

Chúng ta sẽ thấy được một nét đặc trưng, đó là những tư tưởng này, thay vì là kết quả của đời sống ẩn dật trong rừng sâu, lại xuất phát từ những người mà chúng ta thấy là bận rộn nhất: các đấng quân vương đang cai trị. Śvetaketu, con trai của Āruni, là một bậc hiền triết, sống hầu như ẩn dật hoàn toàn.

Lớn lên giữa rừng sâu, nhưng một hôm cậu ta đến kinh đô Panchālas và yết kiến triều đình của vua Pravāhana Jaivali.

Nhà vua hỏi: – Ngươi có biết con người chết rồi đi về đâu không? – Tâu bệ hạ, không. – Ngươi có biết họ quay về cõi đời này như thế nào không? – Tâu bệ hạ, không. – Vậy ngươi có biết con đường của tổ tiên và con đường của chư thiên không?. – Tâu bệ hạ, không.

Rồi nhà vua hỏi tiếp những câu khác, nhưng Śvetaketu không thể trả lời được câu nào. Bởi thế, nhà vua bảo rằng cậu ta không hề biết một tý gì. Śvetaketu bèn quay về rừng gặp cha, và người cha thừa nhận rằng chính bản thân ông ta cũng không thể trả lời những câu hỏi đó.

Không phải là người cha không muốn giải đáp những câu hỏi đó, cũng không phải là ông không muốn dạy cho cậu con trai. Mà chính bản thân ông ta cũng không biết gì về những điều đó cả. Bởi vậy, Śvetaketu cùng cha quay lại triều đình, xin yết kiến nhà vua để được chỉ dạy về những điều bí ẩn đó.

Nhà vua trả lời rằng những điều bí ẩn đó chỉ có những vị vua mới biết với nhau thôi, ngay cả giới tăng lữ cũng không bao giờ được biết.

Tuy nhiên, nhà vua lại tiếp tục dạy cho họ những điều họ muốn biết. Trong các kinh thư Upanishad, chúng ta thấy rằng triết học Vedānta này không chỉ là kết quả từ việc thiền quán trong rừng sâu, mà phần hay nhất của nó lại được tư duy và phô diễn bởi những đầu óc bận rộn nhất vì những công việc bề bộn hàng ngày.

Ta không thể hình dung một người nào có thể bận rộn hơn một vị quân vương đúng nghĩa luôn chăm lo cai trị muôn dân, vậy mà một số trong bọn họ lại là những tư tưởng gia thâm thúy.

Mọi thứ đều cho thấy rằng triết học này rất thực tiễn.

Sau này, khi tiếp xúc với Bhagavad-Gitā – bản chú giải hay nhất về triết học Vedānta mà phần đông các bạn đã đọc – thật là lạ lùng khi mà bối cảnh của tác phẩm lại đặt giữa chiến trường, nơi mà thần Krishna giảng giải triết học này cho Arjuna, và những lời giáo huấn sáng chói trên từng trang Gitā đều sôi động mãnh liệt, nhưng giữa sự sôi động động đó là sự tĩnh lặng ngàn đời.

Đó là bí mật của hành động để đạt đến mục tiêu của triết học Vedānta. Trì trệ, bất động – như chúng ta hiểu theo nghĩa thụ động – chắc chắn không phải là mục tiêu này. Nếu là vậy thì những bức tường quanh ta hẳn phải thông minh nhất, vì chúng bất động.

Khối đất, gốc cây hẳn phải là những bậc hiền triết vĩ đại nhất, vì chúng không hề hoạt động. Cũng không phải khi có đam mê thì bất động trở thành hoạt động.

Hoạt động đích thực – mục tiêu của triết học Vedānta – được kết hợp với sự tĩnh lặng ngàn đời, một sự tĩnh lặng không thể bị làm cho xao động, đó là trạng thái quân bình của tâm trí mà không một biến cố nào có thể khuấy động được.

Và từ kinh nghiệm trong đời sống, tất cả chúng ta biết rằng đó là thái độ tối ưu cho công việc. Nhiều khi người ta hỏi tôi làm thế nào mà chúng ta có thể làm việc nếu không có niềm đam mê mà ta thường dành cho công việc đó?

Nhiều năm trước đây, tôi cũng nghĩ vậy, nhưng khi đã chín chắn hơn, tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, tôi thấy điều đó không còn đúng nữa. Càng ít đam mê, ta làm việc càng tốt hơn. Ta càng trầm tĩnh, điều đó càng tốt cho ta, và ta càng làm được nhiều việc.

Khi buông lỏng cảm xúc, ta phung phí quá nhiều năng lượng, làm vỡ nát các dây thần kinh, khuấy động tâm trí, và làm được rất ít việc. Năng lượng cần dồn vào công việc đã bị tiêu tốn trong cảm xúc thuần túy, vốn không đem lại được việc gì.

Chỉ khi tâm trí thật tĩnh lặng và tập trung thì toàn bộ năng lượng mới dồn hết vào công việc. Nếu đọc tiểu sử của những người hoạt động vĩ đại mà thế giới đã sản sinh ra, các bạn sẽ thấy rằng họ là những người trầm tĩnh tuyệt vời.

Có thể nói là không gì có thể đẩy họ ra khỏi sự quân bình tâm trí. Đó là lý do vì sao những kẻ nóng nảy không bao giờ làm được cái gì to tát, và những người không bao giờ nóng giận thì thành tựu được rất nhiều điều.

Kẻ nào không kiềm chế nổi sự nóng giận, hận thù hay những đam mê khác thì không thể làm việc được; y chỉ có thể tự vỡ tan thành những mảnh vụn, và không làm được một cái gì thực tiễn. Chỉ những tâm trí tĩnh lặng, khoan dung, điềm tĩnh, cực kỳ quân bình mới có thể làm được nhiều điều to lớn nhất.

Triết học Vedānta thuyết giảng lý tưởng, và các bạn biết đấy, lý tưởng thì luôn luôn đi trước thực tiễn, theo cách gọi của chúng ta. Có hai xu hướng trong bản tính con người: một xu hướng muốn kết hợp hài hòa lý tưởng với đời sống, còn xu hướng thứ hai thì muốn nâng cao đời sống lên ngang tầm lý tưởng.

Hiểu được chuyện đó là điều vĩ đại, vì chúng ta luôn bị cám dỗ bởi xu hướng thứ nhất. Tôi nghĩ rằng tôi chỉ có thể làm được một số công việc cụ thể nào đó. Có thể là phần lớn những công việc đó thật tệ hại; có thể là có những động cơ đằng sau phần lớn những công việc đó, chẳng hạn sự giận dữ, thói tham lam hay tính ích kỷ.

Bây giờ, nếu có người nào đó đến giảng cho tôi nghe về một lý tưởng nào đó, mà bước đầu tiên để thực hiện là phải từ bỏ tính ích kỷ, từ bỏ sự hưởng thụ cá nhân thì tôi sẽ cho là điều đó không thực tế.

Nhưng nếu có người nào đó đem đến cho tôi một lý tưởng có thể dung hòa được với tính ích kỷ của mình, lập tức tôi sẽ vui mừng chộp lấy ngay.

Đó là lý tưởng cho tôi. Từ “chính thống” đã bị bóp méo theo đủ cách như thế nào thì từ “thực tế” cũng bị bóp méo y như vậy.”Giáo lý của tôi mới là chính thống; còn giáo lý của bạn chỉ là thứ dị giáo”. Tính thực tiễn cũng như vậy đó.

Cái gì mà tôi cho là thực tiễn thì đối với tôi, nó là thứ thực tiễn duy nhất trong thế gian này. Nếu tôi là một chủ tiệm thì tôi nghĩ rằng công việc trông coi cửa hàng là hoạt động thực tiễn duy nhất trong đời.

Nếu tôi là kẻ trộm thì tôi cho rằng trộm cắp mới đúng là phương tiện thực tiễn nhất thế gian, những thứ khác đều không thực tiễn.

Các bạn thấy chúng ta áp dụng từ thực tiễn cho những sự việc mà ta ưa thích như thế nào. Bởi vậy, tôi sẽ yêu cầu các bạn hiểu rằng triết học Vedānta, dù vô cùng thực tiễn, nhưng chỉ luôn luôn thực tiễn theo nghĩa lý tưởng.

Nó không truyền giảng một một lý tưởng phi thực tiễn, dù nó rất cao siêu, mà chỉ nâng cao vừa tầm lý tưởng. Tóm một lời, lý tưởng đó là: các bạn là thần linh. “Bạn là Cái Đó”. Đó là phần tinh yếu của triết học Vedānta.

Theo dõi những tông phái và những trò thể thao trí năng của nó, các bạn sẽ biết rằng linh hồn con người vốn thuần tịnh và toàn nhiên phổ hiện, các bạn sẽ thấy rằng những điều mê tín như sinh tử đều hoàn toàn vô nghĩa, khi nói về mối liên hệ với linh hồn.

Linh hồn chưa từng sinh nên nó sẽ không bao giờ chết; và tất cả những quan niệm cho rằng chúng ta sắp chết, và sợ chết chỉ là những điều mê tín nhảm nhí.

Tất cả những quan niệm đó, cho rằng chúng ta có thể làm điều này, không thể làm điều nọ, cũng chỉ là những điều mê tín nhảm nhí. Chúng ta có thể làm được tất cả mọi thứ.

Triết học Vedānta dạy con người trước hết phải tự tin. Giống như có một số tôn giáo trên thế giới nói rằng người nào không tin vào một Thượng Đế Nhân Thể ở bên ngoài mình thì đó là kẻ vô thần; thì cũng vậy, triết học Vedānta tuyên bố rằng người nào không tin chính mình thì đó là kẻ vô thần.

Không tin vào sự huy hoàng rực rỡ của linh hồn chúng ta, đó là cái mà triết học Vedānta gọi là thuyết vô thần.

Đối với nhiều người, hiển nhiên, đây là một ý tưởng khủng khiếp; và phần lớn chúng ta đều cho rằng đó là lý tưởng không thể nào vươn tới nổi, song triết học Vedānta lại khăng khăng khẳng định bất cứ người nào cũng đều có thể thực chứng được lý tưởng đó.

Dù là nam hay nữ, dù là người lớn hay trẻ con, dù thuộc bất kỳ chủng tộc nào, vẫn không có gì có thể ngăn cản một người thực chứng được lý tưởng đó, bởi vì triết học Vedānta chứng minh rằng lý tưởng đó đã được thực chứng rồi, đã hiện hữu trong ta rồi.

Tất cả những nguồn lực trong vũ trụ đều hiện hữu đầy đủ cả trong ta. Chính chúng ta tự đưa tay lên bưng lấy mắt mình và la lên sao mà tối quá. Hãy biết rằng không hề có bóng tối nào quanh ta. Hãy lấy bàn tay đi, và nhìn ra ánh sáng đã có từ vô thủy.

Bóng tối chưa bao giờ tồn tại, cả sự yếu đuối bạc nhược cũng chưa hề tồn tại. Chúng ta làm những kẻ điên rồ khi kêu la chúng ta yếu đuối; chúng ta làm những kẻ điên rồ khi kêu la chúng ta ô uế, bất tịnh.

Bởi vậy, triết học Vedānta không chỉ khăng khăng khẳng định rằng: lý tưởng đó là thực tiễn lúc này, mà nó đã như thế tự bao giờ rồi; và lý tưởng đó, Thực Tại đó chính là tự tính của chúng ta. Tất cả những thứ khác mà các bạn nhìn thấy đều giả tạo, không thực.

Ngay khi các bạn nói: “Tôi là một sinh thể nhỏ mọn” là các bạn đang nói một điều không thực, các bạn đang nói dối với chính mính, các bạn đang tự thôi miên mình là một thứ gì đó quá đỗi đê tiện, hèn hạ, bạc nhược và đáng thương.

Triết học Vedānta không thừa nhận có tội lỗi, nó chỉ thừa nhận có sai lầm. Và sai lầm lớn nhất, theo triết học Vedānta, là bảo rằng các bạn là những kẻ yếu đuối, là những kẻ phạm tội, là một sinh vật khốn khổ đáng thương, rằng các bạn không có năng lực, không thể làm được điều này điều nọ.

Có thể nói mỗi khi nghĩ thế là các bạn đóng thêm một cái khoen nữa vào sợi xích để kéo mình xuống, các bạn chồng thêm một trạng thái thôi miên nữa trên linh hồn mình.

Bởi vậy, kẻ nào tự cho mình rằng yếu đuối, tự cho rằng mình bất tịnh, kẻ đó đã phạm sai lầm, và đang gieo những tư tưởng xấu xa vào cuộc sống.

Chúng ta phải luôn ghi nhớ điều này: trong triết học Vedānta, không hề có chuyện nỗ lực hòa giải với cuộc sống hiện tại – một cuộc sống bị thôi miên, một cuộc sống giả tạo mà chúng ta đang cưu mang – với lý tưởng đó; mà ngược lại, cuộc sống giả tạo này phải mất đi, và cuộc sống chân thực, cuộc sống vốn luôn luôn hiện hữu, phải hiển lộ tự thân, phải tỏa sáng rực rỡ.

Không một ai càng ngày càng trở nên thuần tịnh, mà vấn đề lớn hơn, đó là hiển lộ sự toàn hảo đã hiện hữu trong họ.

Bức màn che rơi xuống, và sự thuần tịnh bản hữu của linh hồn bắt đầu tự tỏa sáng rực rỡ. Tất cả đều là của chúng ta cả rồi: sự thuần tịnh vô biên, tự do vô biên, tình yêu vô biên và năng lực vô biên.

Triết học Vedānta cũng nói rằng lý tưởng này không chỉ có thể được thực chứng trong rừng sâu, trong chốn thâm sơn cùng cốc, mà còn có thể được thực chứng bởi mọi hạng người luôn phải bận rộn với những lo toan trong cuộc sống.

Chúng ta đã thấy rằng những người phát hiện được những chân lý đó không phải sống trong chốn thâm sơn cùng cốc, cũng không phải là những người có nghề nghiệp bình thường, mà là những người – chúng ta có đủ mọi lý do để tin điều này – có cuộc sống bận rộn nhất, đó là những người phải chỉ huy quân đội, ngồi trên ngôi báu để chăm sóc muôn dân; và tất cả những điều này diễn ra vào những thời kỳ phong kiến tuyệt đối, chứ không phải trong những thời kỳ mà ông vua chỉ là một nhân vật bù nhìn mang tính tượng trưng.

Vậy mà họ vẫn có thời giờ để nghĩ ra những tư tưởng đó, thực chứng chúng và đem dạy cho nhân loại.

So với chúng ta, những người sống một đời nhàn rỗi, thì cuộc đời của những người đó thật thực tiễn biết là ngần nào! Nếu chúng ta không thể thực chứng được những chân lý đó thì thật đáng xấu hổ, bởi vì so ra thì chúng ta được tự do, nhàn rỗi suốt cả ngày, có rất ít việc để làm.

Những yêu cầu của tôi chẳng là gì khi so với những yêu cầu của một bậc minh quân thời cổ.

Những nhu cầu của tôi chẳng là gì khi so với những nhu cầu của một Arjuna trên bãi chiến trường Kurukshetra, đang chỉ huy một đội quân hùng mạnh; vậy mà giữa cảnh tên đạn bời bời nơi chiến trận, chàng ta cũng tìm ra được thời giờ để bàn luận về nền triết học cao siêu nhất, và vận dụng nó vào đời sống.

Chắc chắn là chúng ta cũng có thể làm được rất nhiều chuyện trong đời mình – một cách tương đối tự do, dễ dàng và thoải mái.

Hầu hết chúng ta đều có nhiều thời gian hơn ta nghĩ, nếu ta thực sự muốn vận dụng nó cho khéo léo. Nếu có quyết tâm thì với khoảng thời gian nhàn rỗi, ta có thể thực hiện được hai trăm lý tưởng trong đời này, nhưng ta không được làm suy đồi lý tưởng bằng cách kéo nó xuống thấp ngang tầm hiện thực.

Đây là một điều vô cùng nguy hiểm. Có những người dạy chúng ta cách bào chữa đặc biệt để biện hộ cho những nhu cầu điên rồ hoặc tham vọng điên rồ của mình, và ta nghĩ rằng lý tưởng của họ là lý tưởng duy nhất mà ta cần phải có.

Nhưng thực ra không phải vậy. Triết học Vedānta không dạy những điều như thế. Hiện thực nên được hòa giải với lý tưởng, cuộc sống hiện tại nên được hòa hợp với sự sống đời đời. Các bạn cần phải nhớ rằng tư tưởng trọng tâm của triết học Vedānta là Nhất Thể Tính.

Không hề có hai thực thể trong bất kỳ một sự vật nào – không hề có hai sự sống, thậm chí không hề có hai dạng sống khác nhau cho hai thế giới.

Các bạn sẽ thấy rằng các kinh Veda, trước tiên là nói về các cõi trời và những sự vật tương tự; nhưng về sau, khi đạt đến những lý tưởng tối cao trong triết học thì chúng lại quét sạch tất cả những thứ đó đi.

Chỉ có một Sự Sống, một Thế Giới, một Tồn Tại. Vạn hữu đều là Nhất Thể, chỉ có sự khác biệt về mức độ chứ không phải thể loại.

Giữa sự sống của chúng ta có sự khác biệt với nhau về mức độ chứ không phải thể loại. Triết học Vedānta phủ nhận hoàn toàn những quan niệm cho rằng loài vật khác với loài người, và Thượng Đế tạo ra chúng là để cho loài người ăn thịt.

Một số người đã đủ từ tâm để sáng lập một hiệp hội không mổ xẻ thú vật còn đang sống. Tôi hỏi một hội viên trong đó: “Này anh bạn, vì sao bạn cho rằng giết thú vật để ăn thịt là hợp pháp, mà lại không được giết một hay hai con để làm thí nghiệm khoa học?”

Anh ta đáp: “Mổ xẻ thú vật còn đang sống là điều đáng kinh tởm, nhưng thú vật sinh ra là để cung cấp thức ăn cho chúng ta”. Nhất Thể bao hàm cả các loài cầm thú. Nếu con người bất tử thì cầm thú cũng vậy. Sự khác biệt là ở mức độ chứ không phải thể loại.

Con a-míp và tôi là bình đẳng, vô sai biệt; sự khác biệt chỉ nằm ở mức độ; và xét từ quan điểm của sự sống tối cao thì hoàn toàn không còn sai biệt.

Người ta có thể thấy sự khác biệt to lớn giữa ngọn cỏ và một cây nhỏ, nhưng khi trèo lên cao thì họ sẽ thấy cỏ và những cây đại thụ đều hiện ra bình đẳng như nhau.

Do đó, xét từ quan điểm của lý tưởng tối cao thì loài thú thấp hèn nhất với con người cao siêu nhất đều bình đẳng, vô sai biệt. Nếu các bạn tin có một Thượng Đế thì đối với Ngài, cầm thú cùng những tạo vật tối cao đều bình đẳng, vô sai biệt.

Một Thượng Đế mà đối xử công chính với những đứa con được gọi là “con người” của mình, và tỏ ra tàn ác với những đứa con được gọi là “dã thú” của mình thì Thượng Đế đó còn tồi tệ hơn cả loài quỷ dữ. Tôi thà chấp nhận chết một trăm lần, hơn là đi sùng bái một Thượng Đế như thế.

Cả đời tôi hẳn phải là cuộc đấu tranh chống lại một Thượng Đế như thế. Xét từ quan điểm Thượng Đế thì hoàn toàn không có sự khác biệt; và người nào nói rằng có thì đó là những kẻ vô trách nhiệm, vô cảm và thiếu hiểu biết. Đây là một trường hợp mà từ thực tiễn bị hiểu sai.

Chúng ta ăn thịt không phải vì loài vật được sinh ra để cung cấp thức ăn cho ta, mà vì chúng ta muốn vậy. Có thể bản thân tôi không phải là người ăn chay nghiêm túc, nhưng tôi hiểu lý tưởng này. Khi ăn thịt, tôi biết mình sai. Ngay cả trong những trường hợp buộc phải ăn thịt, tôi vẫn cảm thấy thật là tàn ác.

Tôi không được kéo lý tưởng của mình xuống ngang tầm hiện thực và tìm cách biện hộ cho hành vi yếu đuối của mình. Lý tưởng đó là: không được ăn thịt loài vật, và không được làm tổn thương đến bất kỳ một sinh linh nào; bởi vì loài vật là những người anh em với tôi.

Nếu các bạn có thể nghĩ đến loài vật như là những người anh em của mình thì các bạn đã tiến được một chút đến tình huynh đệ giữa tất cả những linh hồn, đó là chưa nói đến tình huynh đệ giữa con người! Nhưng thực hiện được điều này không phải là trò chơi trẻ con.

Thường thì các bạn thấy rằng điều này khó được nhiều người chấp nhận, vì nó dạy họ phải từ bỏ hiện thực, và vươn đến lý tưởng. Nhưng nếu các bạn đề xuất một thuyết hòa giải được với những hành vi hiện tại của họ thì họ sẽ xem nó mang tính thực tiễn hoàn toàn.

Bản tính con người có xu hướng bảo thủ rất mạnh mẽ, ta không muốn tiến thêm một bước nào. Tôi nghĩ đến nhân loại giống hệt như những người bị đông cứng trong tuyết, mà tôi đã đọc trong sách.

Tất cả bọn họ thèm được ngủ, và nếu các bạn cố lôi họ ra khỏi tình trạng đó thì họ bảo: “Hãy để yên cho chúng tôi ngủ; ngủ trong tuyết thật là tuyệt vời”; và thế là họ chết cóng luôn, khi say ngủ.

Bản tính chúng ta cũng như vậy. Đó là những gì chúng ta đang làm trong cả đời mình – bị lạnh cóng từ dưới chân lạnh lên, và thèm được ngủ.

Do đó, các bạn phải đấu tranh để vươn tới một lý tưởng; và nếu có kẻ nào muốn đem lý tưởng đó xuống cho ngang tầm với các bạn, và giảng dạy một tôn giáo không thực hiện được lý tưởng cao siêu nhất đó thì đừng có nghe theo. Theo tôi, đó là loại tôn giáo phi thực tiễn.

Nhưng nếu có người giảng một tôn giáo trình bày được lý tưởng cao siêu nhất thì tôi sẵn lòng tin theo. Hãy tỉnh táo khi bất cứ người nào tìm cách biện hộ cho những sự phù phiếm và yếu đuối trong lạc thú giác quan.

Nếu có bất kỳ người nào muốn thuyết giảng con đường đó cho chúng ta – sống khốn khổ, gò bó trong thế giới giác quan như cục đất – thì khi đi theo con đường đó, chúng ta sẽ không bao giờ tiến bộ. Tôi đã chứng kiến chuyện này nhiều rồi, đã có một số trải nghiệm trong đời; tại đất nước tôi, các giáo phái mọc ra như nấm.

Hàng năm lại có một vài giáo phái xuất hiện. Nhưng có một điều mà tôi lưu ý, đó là chỉ những người nào không bao giờ muốn hòa giải con người theo dục lạc với con người theo chân lý thì mới tiến bộ trong tu tập.

Bất cứ nơi nào có ý tưởng sai lầm muốn dung hòa sự phù phiếm trong lạc thú giác quan với lý tưởng cao siêu nhất, muốn kéo Thượng Đế xuống ngang tầm với con người thì ở nơi đó có sự băng hoại, suy đồi. Con người không nên để bị kéo xuống tình trạng nô lệ ở thế gian, mà phải vươn lên ngang tầm với Thượng Đế.

Đồng thời, vấn đề này còn một khía cạnh khác. Chúng ta không được khinh khi người khác. Tất cả chúng ta đều hướng đến một mục tiêu chung.

Sự khác biệt giữa yếu đuối và sức mạnh chỉ là sự khác biệt về mức độ. Sự khác biệt giữa đức hạnh và tội lỗi chỉ là sự khác biệt về mức độ.

Sự khác biệt giữa thiên đàng và địa ngục chỉ là sự khác biệt về mức độ. Sự khác biệt giữa sự sống và cái chết cũng chỉ là sự khác biệt về mức độ.

Tất cả sự khác biệt trên thế gian này chỉ là sự khác biệt về mức độ, chứ không phải về thể loại, bởi vì Nhất Thể Tính là điều bí ẩn của vạn hữu. Tất Cả là Một, và Cái Một này hiển lộ tự thân như là tư tưởng, sự sống, thể xác, hoặc linh hồn.

Đã vậy thì chúng ta không có quyền khinh khi những người không phát triển tới mức độ ngang bằng với chúng ta. Không được khinh khi bất cứ một ai.

Nếu các bạn có thể dang rộng vòng tay để giúp đỡ người khác thì làm đi; nếu không làm được thì hãy gấp tay lại, cầu phúc cho những người anh em và để họ đi theo con đường của riêng họ. Kéo xuống thấp và nguyền rủa, đó không phải là cách thức làm việc.

Làm theo cách đó thì không bao giờ thành tựu được việc gì.

Chúng ta tiêu tốn năng lượng khi nguyền rủa kẻ khác. Phê phán và nguyền rủa là cách phung phí năng lượng vô ích, bởi vì càng về lâu về dài, chúng ta hiểu ra rằng tất cả đều cùng đi tìm một mục tiêu như nhau, tất cả đều ít nhiều đều cùng tiếp cận một lý tưởng như nhau, và hầu hết sự khác biệt của chúng ta chỉ sự khác biệt trong cách biểu hiện mà thôi.

Hãy lấy một ý tưởng về tội lỗi. Lúc nãy, tôi vừa mới nói cho các bạn nghe về vấn đề này từ quan điểm của triết học Vedānta, và một quan điểm khác cho rằng con người là kẻ có tội. Trên thực tế, cả hai là một, chỉ khác ở chỗ một bên thì mang yếu tố tích cực, một bên thì tiêu cực.

Một bên thì cho thấy sức mạnh của con người, một bên thì phô ra sự yếu đuối. Dẫu có yếu đuối, triết học Vedānta nói, cũng đừng bận tâm, chúng ta cần phải lớn mạnh. Khi vừa chào đời thì chúng ta đã mang sẵn bệnh tật trong người.

Ai nấy đều biết mình mang bệnh gì, chẳng cần đến ai nói về căn bệnh của mình. Nhưng lúc nào cũng nghĩ mình mang bệnh thì điều đó cũng đâu có chữa được bệnh. Phải cần đến thuốc.

Chúng ta có thể quên hết mọi thứ bên ngoài, chúng ta có thể giả bộ đạo đức với thế giới bên ngoài, nhưng trong tận thâm tâm, chúng ta vẫn biết được sự yếu đuối của mình.

Tuy nhiên, triết học Vedānta cho rằng có được nhắc nhở về sự yếu đuối cũng chẳng giúp được gì nhiều. Hãy mạnh mẽ lên. Hãy dồn thêm sức mạnh. Và sức mạnh đó không nảy sinh từ việc lúc nào cũng nghĩ đến sự yếu đuối. Liều thuốc cho sự yếu đuối không phải là ấp ủ sự yếu đuối, mà là nghĩ đến sức mạnh.

Hãy dạy cho con người biết rằng sức mạnh đó đã có sẵn trong họ rồi. Thay vì bảo rằng con người là những kẻ tội lỗi, triết học Vedānta đứng trên quan điểm đối lập, và tuyên bố: “Các bạn vốn thuần tịnh và toàn hảo, và cái mà các bạn gọi là tội lỗi chẳng liên quan gì đến bạn”.

Tội lỗi là mức độ hiển lộ rất thấp của Chân Ngã; hãy hiển lộ Chân Ngã ở mức độ cao. Đó là điều duy nhất các bạn cần ghi nhớ.

Tất cả chúng ta đều làm được điều đó. Đừng bao giờ nói “không”, đừng bao giờ nói “tôi không thể”, bởi vì các bạn là vô biên, vô tận.

Ngay cả thời gian và không gian cũng chẳng là gì khi so với chân tính của các bạn. Các bạn có thể làm bất cứ việc gì, có thể làm được mọi việc; các bạn là những người toàn năng.

Trên đây là những nguyên tắc đức lý, nhưng bây giờ chúng ta sẽ hạ bớt cho thấp hơn, và vạch ra các chi tiết. Chúng ta sẽ thấy triết học Vedānta này có thể thâm nhập vào sinh hoạt hàng ngày, vào đời sống trong thành phố, đời sống chốn nông thôn, vào sinh hoạt của quốc gia và sinh hoạt gia đình của mỗi quốc gia như thế nào.

Bởi vì một tôn giáo, nếu không giúp được cho con người ở bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào thì nó cũng không có ích gì nhiều; nó sẽ mãi là một giáo lý chỉ dành cho một thiểu số được chọn lựa.

Một tôn giáo, để giúp được con người, phải luôn sẵn sàng và có khả năng hộ trì con người ở trong bất kỳ điều kiện nào, dù nô lệ hay tự do, dù ở đáy sâu đồi trụy hay ở đỉnh cao đức hạnh; dù ở bất cứ nơi đâu, tôn giáo cũng đều có thể hộ trì con người như nhau, không sai biệt.

Lý tưởng của triết học Vedānta, lý tưởng của tôn giáo – hay các bạn có thể gọi bằng bất cứ cái tên nào – sẽ được tựu thành viên mãn, chỉ khi nào nó có thể thực hiện được chức năng đó. Lý tưởng về lòng tự tin là sự hộ trì lớn nhất đối với chúng ta.

Nếu như lòng tự tin đã được giảng dạy và thực hành mãnh liệt hơn nữa thì tôi tin chắc rằng phần lớn những điều xấu xa và cảnh khốn cùng hẳn đã tan biến hết cả rồi.

Xuyên suốt dòng lịch sử nhân loại, nếu có một lực đẩy nào mãnh liệt hơn những lực khác trong đời sống của những vĩ nhân, nam cũng như nữ, thì đó chính là lòng tự tin nơi bản thân họ. Khi sinh ra với ý thức họ là vĩ nhân thì họ trở thành vĩ nhân.

Hãy để mặc con người chìm sâu đến mức tận cùng, rồi cũng phải đến lúc, từ cơn tuyệt vọng hoàn toàn, anh ta sẽ tung người lên và học cách tin vào chính bản thân mình. Nhưng tốt hơn là chúng ta nên biết điều đó ngay từ đầu.

Vì sao ta lại phải trải qua trăm cay ngàn đắng mới có được lòng tự tin? Chúng ta có thể thấy rằng tất cả sự khác biệt giữa người với người là do có tự tin hay không mà thôi.

Lòng tự tin sẽ giúp chúng ta làm được tất cả mọi thứ. Tôi đã trải nghiệm điều đó trong đời mình, và vẫn còn đang trải nghiệm; và khi tôi càng đứng tuổi thì lòng tự tin đó càng ngày càng mạnh mẽ. Kẻ vô thần là kẻ không tin vào bản thân mình.

Các tôn giáo cũ nói rằng kẻ vô thần là kẻ không tin vào Thượng Đế. Tôn giáo mới nói rằng kẻ vô thần là kẻ không tin vào bản thân mình.

Đây không phải là lòng tự tin ích kỷ, bởi vì Vedānta, một lần nữa, là triết học về Nhất Thể Tính. Nó có nghĩa là tin vào tất cả, bởi vì bạn là tất cả.

Yêu bản thân có nghĩa là yêu tất cả mọi sinh linh, yêu loài vật, cỏ cây, yêu muôn loài, bởi vì bạn là tất cả. Chính lòng tin vĩ đại này làm cho thế giới tốt đẹp hơn. Tôi tin chắc điều đó.

Người vĩ đại nhất là người có thể nói với chân lý: “Tôi biết được tất cả về bản thân tôi”[1]. Các bạn có biết được còn có bao nhiêu năng lượng, bao nhiêu năng lực, bao nhiêu sức mạnh còn ẩn tàng nơi bản thân mình?

Nhà khoa học có biết được hết những gì nơi con người? Đã hàng triệu năm trôi qua, khi con người đầu tiên đến tại nơi này, vậy mà năng lực họ chỉ mới biểu hiện được một phần cực nhỏ. Bởi vậy, các bạn không được nói rằng mình yếu đuối.

Làm sao các bạn biết được những khả năng nào còn nằm ẩn đằng sau sự suy đồi bề ngoài? Các bạn chỉ mới biết được một chút ít những gì tàng ẩn trong mình. Bởi vì đằng sau các bạn là đại dương vô biên của năng lực và lạc phúc. “Ātman này là cái đầu tiên cần phải nghe nói đến”.

Hãy nghe cả ngày lẫn đêm rằng các bạn là Linh Hồn đó. Cả ngày lẫn đêm, hãy lặp đi lặp lại điều đó, cho đến khi nó thấm vào từng mạch máu của các bạn, cho đến khi nó hòa tan vào từng giọt máu của các bạn, cho đến khi nó biến thành xác thịt máu xương của các bạn.

Hãy để cả thể xác này ngập tràn lý tưởng duy nhất đó. “Ta là Linh Hồn bất sinh, bất tử, đầy lạc phúc, toàn nhiên phổ hiện, toàn năng, và vĩnh viễn chói ngời”. Hãy trầm tư về câu đó suốt ngày đêm, cho đến khi nó trở thành một phần trong đời sống các bạn.

Hãy quán tưởng câu nói đó. Và công việc sẽ phát sinh từ đó. “Từ sự viên mãn của tâm hồn, cái miệng cất lên tiếng nói”, thì từ sự viên mãn của tâm hồn, bàn tay cũng làm việc. Hành động sẽ đến. Hãy làm tràn ngập tâm hồn các bạn bằng lý tưởng đó; hãy luôn nhớ đến nó, trước khi làm bất cứ chuyện gì.

Như thế, mọi hành động của các bạn sẽ được tôn vinh, chuyển biến, sẽ trở nên thiêng liêng nhờ vào chính sức mạnh của tư tưởng này. Nếu vật chất có sức mạnh thì tư tưởng có năng lực vô song.

Hãy mang tư tưởng này vào cuộc sống các bạn, hãy làm đầy tâm hồn các bạn bằng tư tưởng về sự toàn năng, sự trang nghiêm và vinh quanh chói lọi của mình.

Cầu mong Thượng Đế, xin đừng mang bất kỳ một tư tưởng mê tín nào trong đầu óc các bạn! Cầu mong Thượng Đế, từ lúc sinh ra đời, xin đừng để chúng ta bị bủa vây bởi tác dụng của những điều mê tín đó, cũng như những tư tưởng về sự yếu đuối và tội lỗi của chúng ta – những tư tưởng khiến ta tê liệt!

Cầu mong Thượng Đế, loài người đã có một con đường đi dễ dàng hơn để dẫn tới những chân lý thâm huyền vô thượng! Nhưng con người phải kinh qua tất cả những điều này, đừng làm cho con đường đó trở nên gập ghềnh khó đi hơn cho những người đến sau các bạn.

Đôi khi, đây là những giáo lý khủng khiếp được thuyết giảng. Tôi biết có những người kinh hãi khi nghe những ý tưởng này, nhưng đối với người nào có tinh thần thực tiễn thì đây là giáo lý cần giảng dạy trước tiên. Đừng bao giờ tự nhủ với mình hay nói với người khác rằng các bạn yếu đuối.

Hãy làm việc thiện, nếu có thể; nhưng đừng bao giờ làm tổn thương thế gian này. Trong tận thâm tâm, các bạn biết rằng nhiều tư tưởng hạn hẹp của mình – cho rằng mình là kẻ khốn khổ đáng thương, và than khóc để cầu xin ân huệ từ những thần linh tưởng tượng – đều là mê tín.

Thử nói cho tôi biết có trường hợp nào cầu xin mà được đáp ứng từ bên ngoài. Tất cả những đáp ứng đó đều đến từ chính trái tim các bạn.

Các bạn biết rằng không có ma quỷ, nhưng ở bóng đêm cũng không khỏi thấy rợn người. Sở dĩ vậy, là vì từ lúc còn bé ta đã mang những ý tưởng đó trong đầu rồi.

Nhưng chớ dạy những điều này cho người khác vì sợ hãi dư luận, vì sợ gây nên thù hận nơi bè bạn, hoặc vì sợ mất đi những điều mê tín ấp ủ bấy lâu. Hãy làm chủ tất cả những thứ đó.

Trong tôn giáo, có gì đáng để dạy hơn Nhất Thể Tính của vũ trụ và lòng tự tin? Tất cả những công trình của nhân loại hàng ngàn năm qua cũng chỉ để hướng đến mục tiêu duy nhất đó, và nhân loại vẫn còn đang tiếp tục thực hiện điều này. Lúc này đến lượt các bạn, và các bạn đã biết đến chân lý đó.

Bởi vì nó được giảng dạy trong mọi ngành học. Không chỉ trong triết học, tâm lý học, mà cả những bộ môn khoa học vật lý cũng tuyên bố điều đó. Hiện nay có một nhà khoa học nào sợ phải công nhận nhất thể tính của vũ trụ? Ai là người dám nói về nhiều thế giới? Tất cả đều là mê tín.

Chỉ có một Sự Sống duy nhất, một Thế Giới duy nhất; và Sự Sống duy nhất cùng Thế Giới duy nhất này hiển lộ cho chúng ta trong muôn ngàn hình tướng. Tính sai biệt đa thù này giống như một giấc mơ. Khi bạn nằm mơ thì khi giấc mơ này hết, giấc mơ khác lại đến.

Không giấc mơ nào có thực. Các giấc mơ cứ nối tiếp nhau, hết cảnh này đến cảnh khác cứ mở ra trước mắt các bạn. Sự việc là thế trong cái thế giới có đến chín mươi phần trăm là khốn khổ, và chỉ mười phần trăm là hạnh phúc này.

Có thể là sau một thời gian, cái thế giới này có được chín mươi phần trăm hạnh phúc thì ta gọi là thiên đàng. Nhưng đối với một nhà hiền triết thì sẽ đến lúc vạn hữu đều tan biến, và cái thế giới này hiện ra như là Thượng Đế, và linh hồn ông ta hiện ra như là vị Thượng Đế đó.

Do đó, không có nhiều sự sống, cũng chẳng có nhiều thế giới. Mọi hiện tượng sai biệt đa thù đều là sự hiển lộ của Nhất Thể. Nhất Thể này tự thân hiển lộ như là cái sai biệt đa thù – như là vật chất, tinh thần, tâm trí, tư tưởng và mọi thứ khác.

Cho nên bước đầu tiên mà chúng ta cần làm là dạy chân lý đó cho chính mình và cho những người khác. Hãy để thế gian vang lừng giai điệu của lý tưởng này, và hãy để cho bao điều mê tín tan biến hết. Hãy nói chân lý đó cho những người yếu đuối, và hãy kiên trì nói mãi.

“Ngươi là đấng Thuần Tịnh; hãy thức tỉnh và đứng dậy, hỡi đấng Toàn Năng! Giấc ngủ này không thuộc về ngươi. Hãy thức tỉnh và đứng dậy, giấc ngủ này không thích hợp với ngươi. Đừng nghĩ rằng ngươi là kẻ yếu đuối đáng thương. Hỡi đấng Toàn Năng, hãy thức tỉnh và đứng dậy, và hiển lộ chân tính của ngươi. Nghĩ rằng mình là kẻ tội lỗi, điều đó chẳng phù hợp với người”.

Hãy nói điều đó cùng thế giới, hãy nói điều đó cho bản thân mình, và hãy xem điều đó dẫn đến kết quả thực tiễn ra sao; hãy xem vạn hữu, như tia điện chớp, hiển lộ toàn thân như thế nào, hãy xem muôn vật biến đổi ra sao. Hãy nói điều đó với mọi người, và chỉ cho họ thấy năng lực của họ.

Như vậy, mọi người sẽ học cách vận dụng chân lý đó vào đời sống hàng ngày. Để có thể vận dụng được cái mà ta gọi là viveka, tức trí phân biệt, để có thể học được cách phân biệt được thiện ác, thị phi trong từng giây phút trong đời sống, trong từng hành vi của mình, chúng ta phải biết sự thử nghiệm chân lý: đó là sự thuần tịnh và nhất thể tính.

Bất kỳ sự vật nào tạo nên nhất thể tính đều là chân lý. Tình yêu là chân lý, và hận thù là hư ngụy, bởi vì hận thù tạo nên sự phức tạp đa thù. Chính hận thù chia cách giữa người với người, cho nên nó sai lầm và hư ngụy. Nó là sức mạnh gây tan rã, nó tách ly và phá hủy.

Tình yêu kết hợp tất cả, và tạo nên nhất thể tính. Các bạn trở thành một, mẹ với con trở thành một, gia đình và thành phố trở thành một, trọn thế giới này đều hợp nhất với muôn loài. Bởi vì tình yêu là Tồn Tại, là chính Thượng Đế; và tất cả điều đó là sự hiển lộ của Tình Yêu Duy Nhất, được biểu hiện ít hoặc nhiều.

Sự khác biệt chỉ ở mức độ, còn sự hiển lộ của Tình Yêu Duy Nhất đó bao trùm khắp nơi. Do đó, trong mọi hành động của mình, chúng ta phải phán đoán xem nó tạo ra tình trạng sai biệt hay hợp nhất. Nếu nó tạo ra sự sai biệt thì chúng ta phải từ bỏ nó, còn nếu nó tạo nên sự hợp nhất thì ta tin chắc rằng nó tốt đẹp.

Đối với tư tưởng cũng vậy, chúng ta phải quyết định xem nó tạo nên sự phân hóa, sai biệt đa thù hay hợp nhất, xem nó có kết hợp linh hồn này với linh hồn khác để tạo nên sức mạnh vĩ đại hay không. Nếu nó làm được điều đó thì chúng ta sẽ chọn nó; bằng không, chúng ta sẽ ném nó đi như một thứ xấu xa tội lỗi.

Toàn bộ quan niệm về đức lý trong triết học Vedānta là nó không lệ thuộc vào bất kỳ cái gì bất khả tri, nó chẳng dạy bất kỳ thứ gì xa lạ. Trái lại, nó dạy bằng ngôn ngữ của Thánh Paul: “Thượng Đế mà các ngươi sùng bái một cách ngu dốt, ta sẽ thuyết giảng chính Thượng Đế đó với các ngươi”.

Chính nhờ Chân Ngã mà các bạn biết được mọi sự vật. Tôi thấy cái ghế này, nhưng để thấy được nó, trước hết tôi phải nhận thức được bản thân tôi, rồi sau đó mới đến cái ghế. Cái ghế được nhận thức ở bên trong và thông qua Chân Ngã.

Chỉ ở bên trong và thông qua Chân Ngã mà tôi nhận biết các bạn, nhận biết được cả thế giới, bởi vậy nói rằng Chân Ngã là cái xa lạ thì điều đó thật là vô nghĩa. Bỏ Chân Ngã đi thì cả thế giới này cũng biến mất. Mọi tri thức xuất hiện ở bên trong và thông qua Chân Ngã.

Do đó, Nó là cái được nhận biết rõ nhất trong tất cả. Nó là bản thân các bạn – là cái mà các bạn gọi là “tôi”. Các bạn có thể tự hỏi làm thế nào mà “tôi” của tôi lại có thể là “tôi” của các bạn.

Các bạn có thể tự hỏi làm sao cái “tôi” bị giới hạn này lại có thể là Cái Vô Biên không giới hạn. Nhưng đúng là vậy. Cái “tôi” bị giới hạn này chỉ là ảo tưởng.

Cái Vô Biên đã bị che lấp, có thể nói như vậy, và chỉ một phần nhỏ của Nó hiển lộ như là cái “tôi”. Giới hạn không thể xuất phát từ cái không giới hạn, đó là hư cấu. Do đó, tất cả chúng ta – nam phụ lão ấu – đều biết Chân Ngã, thậm chí cả loài vật cũng biết Chân Ngã.

Nếu không biết Chân Ngã thì chúng ta không thể sống hoặc chuyển dịch, không thể tồn tại; không biết đấng Chúa Tể đó của vạn hữu, chúng ta không thể thở hoặc sống trong một giây.

Thượng Đế trong triết học Vedānta được nhận biết nhiều nhất trong tất cả, và không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng. Nếu triết học này mà không thuyết giảng về một Thượng Đế thực tiễn thì làm gì còn triết học nào khác có thể thuyết giảng cho các bạn một Thượng Đế thực tiễn?

Ở đâu có một Thượng Đế thực tiễn hơn đấng Thượng Đế mà tôi nhìn thấy trước mắt tôi – một Thượng Đế toàn nhiên phổ hiện, hiện hữu trong muôn vật, một Thượng Đế còn thực hơn tất cả những gì mà giác quan tôi cảm nhận được?

Bởi vì các bạn chính là Ngài, đấng Thượng Đế Toàn Năng toàn nhiên phổ hiện đó, nếu tôi bảo rằng các bạn không phải là Ngài thì tôi đang nói một điều không thực. Tôi biết điều đó, dù tôi có luôn luôn thực chứng được nó hay không.

Ngài là Nhất Thể Tính, là Nhất Thể của vạn hữu, là Thực Tại của mọi sự sống và tất cả những gì tồn tại. Những ý tưởng về đức lý trong triết học Vedānta phải được vạch rõ từng chi tiết, do đó, các bạn cần phải kiên nhẫn.

Như tôi đã nói với các bạn, chúng ta cần phải vạch rõ chủ đề này một cách tỉ mỉ trong từng chi tiết, để xem những ý tưởng đó phát triển như thế nào từ một mức độ rất thấp kém, và để xem ý tưởng vĩ đại về nhất thể tính duy nhất đó đã phát triển và được định hình thành Tình Yêu Phổ Quát ra sao.

Chúng ta cần phải nghiên cứu tất cả điều này để tránh những điều nguy hiểm. Thế giới này không thể tìm ra thời gian để phát triển dần từ những bậc thấp nhất.

Nhưng chúng ta đứng trên những bậc cao hơn thì có ích gì, nếu chúng ta không thể trao chân lý cho những kẻ đến sau?

Do đó, tốt hơn là nên nghiên cứu triết học này trong mọi hoạt động của nó, và điều tuyệt đối cần thiết đầu tiên là lọc sạch trí năng, dù chúng ta biết rằng trí lực [ intellectuality] hầu như là con số không, bởi vì chính trái tim mới điều quan trọng nhất.

Chính thông qua trái tim, chứ không phải trí năng, mà chúng ta mới thấy được Thượng Đế. Tri năng chỉ là kẻ quét dọn đường sá để mở đường cho chúng ta, là nhân công loại hai, là cảnh sát mà thôi; nhưng viên cảnh sát đó không cần thiết lắm trong những hoạt động tích cực của xã hội.

Anh ta chỉ có nhiệm vụ chấm dứt những chuyện lộn xộn, kiểm soát những chuyện làm sai trái. Đó là tất cả những hoạt động được yêu cầu đối với trí năng.

Khi bạn đọc một cuốn sách mang tính trí tuệ, khi hiểu thông suốt được nó rồi thì các bạn cảm thấy “Cảm tạ Thượng Đế, tôi đã thoát khỏi nó rồi”, bởi vì trí năng thì mù quáng, không thể tự dịch chuyển, nó không có chân tay.

Chính cảm xúc mới tác động, mới dịch chuyển với tốc độ nhanh gấp vô số lần tốc độ dòng điện hoặc bất cứ thứ gì. Các bạn có cảm nhận được điều đó không? – đó là vấn đề. Nếu có, các bạn sẽ thấy được Thượng Đế.

Cảm nhận mà các bạn đang có hôm nay sẽ mạnh mẽ hơn, được thánh hóa, và được nâng lên mức độ cao nhất, cho đến khi các bạn cảm nhận được nhất thể tính trong vạn hữu, cảm nhận Thượng Đế trong chính mình và trong những người khác.

Trí năng không thể làm được điều đó. “Những phương pháp thuyết giảng khác, những phương pháp giải thích kinh văn kiểu khác – những thứ đó chỉ là trò tiêu khiển của các học giả, chứ không đem đến sự giải thoát cho linh hồn”.

Người nào trong các bạn đã đọc Thomas à Kempis[2] đều thấy ông ta khẳng định điều đó trong từng trang sách, và hầu như mọi thánh nhân trên thế gian này đều khẳng định điều đó. Trí năng rất cần thiết, vì không có nó thì chúng ta mắc những lỗi thô thiển, và phạm đủ thứ sai lầm.

Trí năng kiểm soát tất cả những điều này, nhưng bên ngoài phạm vi đó, đừng có xây dựng bất cứ điều gì trên nó. Nó chỉ đem lại sự giúp đỡ thụ động và thứ yếu, còn cảm xúc và tình yêu mới đem lại sự giúp đỡ thực sự. Các bạn có thể cảm nhận thay cho người khác được không? Nếu được thì các bạn đang tiến dần đến sự hợp nhất.

Nếu không thể cảm nhận thay cho người khác được thì dù có là bậc trí giả vĩ đại nhất từng sinh ra trên cõi đời này đi nữa, các bạn cũng chỉ là con số không rỗng tuếch; các bạn chỉ là một bậc trí thức khô cằn, và sẽ mãi mãi như thế.

Còn nếu cảm nhận được thì dù các bạn không hề đọc bất kỳ cuốn sách nào, không hề biết đến bất cứ ngoại ngữ nào, các bạn vẫn đang đi theo chánh đạo. Đấng Chúa Tể là của các bạn.

Ngay từ thời khai nguyên của lịch sử thế giới, các bạn không biết sức mạnh của các nhà tiên tri nằm ở đâu sao? Nó ở đâu? Ở nơi trí năng? Liệu có người nào trong số họ viết một cuốn sách hay ho về triết học, hay viết về môn lý luận rối rắm nhất trên đời? Không ai cả.

Họ chỉ nói một đôi lời. Hãy cảm nhận như Chúa Jesus, và các bạn sẽ là Chúa Jesus; hãy cảm nhận như Đức Phật, và các bạn sẽ là Đức Phật. Chính cảm xúc mới là sự sống, sức mạnh và nguồn sinh lực, không có nó thì không một hoạt động tri thức nào có thể vươn đến Thượng Đế.

Trí năng giống như tứ chi mất đi năng lực vận động. Chỉ khi nào cảm xúc nhập vào chúng, truyền vào đó sự vận động thì chúng mới dịch chuyển và tác động lên bộ phận khác. Điều này diễn ra như vậy ở khắp mọi nơi trên thế giới, và các bạn phải luôn luôn ghi nhớ lấy nó.

Đó là một trong những điều thực tiễn nhất trong nền đạo lý Vedānta, bởi vì triết học Vedānta dạy rằng tất cả các bạn là những nhà tiên tri, và tất cả phải là những nhà tiên tri. Kinh điển không phải là chứng cứ cho hành vi của các bạn, mà chính hành vi của các bạn mới là chứng cứ cho kinh điển[3].

Làm sao các bạn biết được cuốn kinh thư đó giảng dạy chân lý? Vì các bạn chính là chân lý và cảm nhận được điều đó. Đó là những gì triết học Vedānta muốn nói. Chứng cứ cho những đức Chúa Jesus và chư Phật trong thế gian này là gì? Ấy là: các bạn và tôi cảm nhận được như các vị đó.

Đó là cách để các bạn và tôi biết rằng những điều đó là chân thực. Linh hồn tiên tri của chúng ta là chứng cứ về linh hồn tiên tri của các vị đó. Thần tính của các bạn là chứng cứ về chính Thượng Đế. Nếu các bạn không phải là những nhà tiên tri thì đã không có bất kỳ điều gì chân thực về Thượng Đế.

Nếu các bạn không phải Thượng Đế thì đã không có bất kỳ một Thượng Đế nào, và sẽ không bao giờ có. Đây là, triết học Vedānta tuyên bố, lý tưởng phải theo. Mỗi người trong chúng ta đều phải trở thành một nhà tiên tri trong tương lai. Các bạn là những nhà tiên tri rồi; chỉ cần biết điều đó.

Đừng nghĩ có một cái gì đó là bất khả đối với linh hồn. Nghĩ như thế là thứ tà giáo kinh khủng nhất. Nếu có tội lỗi thì đó là tội lỗi duy nhất này: tự nhủ rằng các bạn yếu đuối và người khác đều yếu đuối.

[1] Đây cũng chính là tư tưởng “Tận kỳ tính” của Nho gia.

[2] Tức cuốn Noi gương đấng Christ (The Imitation of Christ) của Thomas à Kempis (1380 –1471).

[3] Ta như nghe lại câu nói của Khổng Tử: “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” (Người có thể làm cho đạo lớn mạnh, chứ không phải đạo làm cho người lớn mạnh).

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x