Trang chủ » Chương 13. Tận Tâm Thượng

Chương 13. Tận Tâm Thượng

by Hậu Học Văn
779 views

TẬN TÂM, PHẦN TRƯỚC

1. Mạnh Tử nói: “Thực hiện rốt ráo tâm của mình thì biết được tính bản nhiên của mình. Biết được tính bản nhiên của mình thì biết được Trời.

“Bảo tồn tâm của mình, dưỡng dục tính bản nhiên của mình cốt để phụng thờ Trời vậy. Chết trẻ, sống lâu chẳng phải là hai, tu sửa tấm thân để chờ đợi, cốt để tựu thành sứ mệnh vậy.”

BÌNH GIẢI:

Tâm là phần siêu hình linh thiêng trong con người. Người ta không thể nhìn thấy Tâm bằng mắt thường, nhưng Tâm vẫn hiện diện nơi các đức hạnh: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tâm cũng hiện diện qua các trạng thái tình cảm như: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục (mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn).

Trong quan điểm của đạo Nho, hiện thực rốt ráo Tâm tức là hiện thực trọn vẹn các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; đồng thời cũng biểu hiện các trạng thái tình cảm một cách trúng tiết. Sách Trung dung nói: “Hỷ nộ ai lạc chi vị phát, vị chi trung; phát nhi giai trúng tiết, vị chi hoà. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hoà, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên. –喜怒哀樂之未發,謂之中;發而皆中節,謂之和。

中也者,天下之大本也;和也者,天下之達道也。致中和,天地位焉, 萬物育焉。” (Mừng giận thương vui chưa phát ra, gọi là trung; phát ra mà đều đúng mực gọi là hoà. Trung là cái gốc lớn của mọi người; hoà là đường lối thành tựu của mọi người. Làm hết mức đạo trung hoà, thì trời đất được đúng ngôi, muôn vật được nuôi nấng vậy.) (Trung dung, Chương I).

Chủ trương thực hiện Tâm như thế, đạo Nho nhắm tới phương diện tích cực của Tâm. Hiện thực rốt ráo Tâm của mình là làm sao cho phần linh thiêng thánh thiện trong con người được triển khai hết mức; từ đó, đạo Trời lan tỏa như dưỡng khí nuôi nấng mọi người, mọi vật.

Mạnh Tử nói: “Hiện thực rốt ráo Tâm của mình thì biết được tính bản nhiên của mình.”

Tại sao vậy?

Tính bản nhiên là cái phần Trời trao cho con người từ thuở ban sơ; nó là cốt lõi của Tâm; hoặc hình dung hóa nó trong không gian thì tính bản nhiên nằm ở đáy sâu trong kho tàng tâm linh. Phải hiện thực rốt ráo Tâm thì tính bản nhiên mới hiện ra. Đạo Nho gọi tính bản nhiên là Thiên mệnh: “Thiên mệnh chi vị Tính 天命之謂性。” (Trung Dung, chương I). Thiên mệnh là cái phần Trời trao cho; hay nói khác đi, tính bản nhiên là tính Trời chia cho mọi người; nó phổ biến tương tự như dưỡng khí trong thiên nhiên chia phần trong các chai, lọ vậy. Cũng chính cái thực tại tinh tuyền ấy, sách Đại học gọi là minh đức (năng lực sáng láng). Vì cái phần ấy thuộc về Trời cho nên Trời hằng tưởng nhớ. Kinh Thi, thiên Đại Nhã Hoàng hỹ, nói lên ý Trời rằng: “Dư hoài minh đức 予懷明德. Ta nhớ đức sáng (ở trong con người).” Sách Trung Dung của Tử Tư đã nhắc lại câu trên trong chương cuối cùng, nói về nhân đạo thánh đạo bao hàm trong thiên đạo.

Có truy nguyên về phần Hình nhi thượng học trong Nho giáo, chúng ta mới hiểu ý tiếp theo của Mạnh Tử: “Tri kỳ tính, tắc tri thiên hỹ 知其性,則知天 矣。” (Biết được tính bản nhiên của mình thì biết được Trời.) Biết được Trời thì trở nên con của Trời vậy.

Con người sống trong trần gian, bởi vì mải mê chuyện ăn uống, rong chơi, tìm vật, hám lợi mà đánh mất Tâm của mình; hay nói đúng hơn là chôn vùi cái chân tâm của mình. Chân tâm đã bị chôn vùi thì tính bản nhiên vốn thiện trở thành tính ác; giống như ngọn nước đầu nguồn trong trẻo, khi chảy xuống miền xuôi thì bị đen đục vì chất dơ, chất thải do cặn bã của trần gian hoà vào. Đen đục, xấu xa đến nỗi bậc đại Nho thời Chiến Quốc là Tuân Tử không còn nhận ra một chút thiện nào nữa, mới lập nên thuyết “tính bản ác” (tính con người vốn ác).

Khi chân tâm bị chôn vùi, thì vọng tâm làm chủ thân xác, tính thiện hóa thành tính ác. Tính ác bao trùm trần gian làm cho mọi người đau khổ, khốn cùng. Tình yêu thương phát xuất từ tính thiện bản nhiên bị biến mất hoặc bị biến dạng trở thành méo mó ích kỷ; chỉ còn oán thù, sân hận, tham lam chi phối tất cả; cũng như ngày nay thiên nhiên bị ô nhiễm vì khí thải, nước thải.

Bởi vậy, phương thức chữa trị cho xã hội loài người là bảo tồn cái tâm tinh tuyền (chân tâm), dưỡng dục cái tính bản nhiên (tính thiện). Giữ cho còn cái tâm tinh tuyền, nuôi nấng cái tính bản nhiên vốn lành, con người sẽ biết có Trời hằng hiện diện trong đời. Biết có Trời, trở nên con của Trời, con người sẽ được hạnh phúc. Đó là lý do con người phải phụng thờ Trời vậy.

Cho nên, theo Mạnh Tử, đại diện cho quan điểm chính truyền của Nho giáo, thờ Trời chỉ là bảo tồn tâm của mình, dưỡng dục tính của mình, chứ không phải chỉ lo thắp nhang khấn vái, cầu đảo.

Nếu có thắp nhang khấn vái, đó chỉ là thể hiện phần hình thức bên ngoài để chuẩn bị cho phần tâm lý bên trong. Phần bên trong, tồn tâm dưỡng tính mới quan trọng. Mạnh Tử đã nói về việc tồn tâm như sau: “Quân tử sở dĩ dị ư nhân giả, dĩ kỳ tồn tâm dã. Quân tử dĩ nhân tồn tâm, dĩ lễ tồn tâm. 君子 所以異於人者,以其存心也。君子以仁存心,以禮存心。 (Quân tử sở dĩ khác người ta là bảo tồn tâm hồn của mình. Quân tử lấy điều nhân, điều lễ để bảo tồn tâm hồn.) (Mạnh Tử, Ly lâu hạ, 28). Nhắc đến nhân lễ, đó là Mạnh Tử muốn cho các đệ tử nhớ tới lời dạy cao nhất của Khổng Tử dành cho Nhan Hồi: “Khắc kỷ phục lễ, vi nhân. 克己復禮為仁。 (Khắc chế lấy mình, trở lại theo khuôn phép là làm điều nhân.) (Luận Ngữ, Nhan Uyên, 1). Như thế, trong nhân lễ; trong lễ nhân. Các đức hạnh khác đều quan trọng, nhưng nhân lễ là quan trọng nhất để tồn tâm dưỡng tính.

Trong đạo thống ấy, ngày xưa, khi Khổng Tử ốm nặng, Tử Lộ khuyên thầy hãy cầu đảo cùng thần thánh. Khổng Tử trả lời: “Khâu chi đảo cửu hỹ – 丘之 禱久矣! (Khâu này cầu xin đã lâu rồi.) (Luận ngữ, Thuật nhi, 34). Câu này có hàm ý rằng đã từ lâu, Khổng Tử hằng tồn tâm dưỡng tính để thờ Trời rồi, chứ có phải đợi đến lúc đau ốm mới dâng lễ vật cầu đảo, khấn vái đâu!

Một khi đã hiểu “tồn tâm dưỡng tính” là phụng thờ Trời, người ta còn phải lo lắng gì về chuyện chết trẻ hay sống lâu nữa? Chết trẻ hay sống lâu nào có quan trọng, miễn là con người phải sống sao cho thành con người đích thực là con của Trời. Vì thế, trong Kinh Thánh Tân Ước, Chúa Giêsu đã nói rằng: “Nào ai trong các ngươi lo toan áy náy mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa không?… Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Trời, cùng sự công chính của Người…” (Tin Mừng, Mát-thêu: 6, 27, 33). Nước Trời là cảnh giới trong đó con người thực hiện chân tâm và Tính thiện; sự công chính của Trời là tình yêu thương vô bờ bến; bởi vì theo Thánh Gioan, “Thiên Chúa là tình yêu”. Tìm sự công chính của Trời là yêu thương và tôn trọng mọi người.

Như vậy, chú trọng vào việc “tồn tâm dưỡng tính”, người ta không còn phải để tâm tới chuyện chết trẻ hay sống lâu, mà chỉ chuyên tâm tu sửa tấm thân để chờ đợi sứ mệnh Trời trao cho mình và hoàn thành sứ mệnh ấy trong cõi nhân sinh.

2. Mạnh Tử nói: “Chẳng có gì mà chẳng phải Mệnh. Hãy thuận nhận sự chính đáng ấy. Vậy nên, người biết Mệnh, không đứng dưới bức tường nguy hiểm. Thực hiện rốt ráo đạo của mình mà chết, đó là Mệnh chính đáng. Bị gông cùm mà chết, chẳng phải chính Mệnh vậy.”

BÌNH GIẢI:

Mệnh là một vấn đề rất khó nói mà vào lúc sinh thời, Khổng Tử đã ít đề cập tới; bởi vì, nói không khéo dễ trở thành mê tín, lệch lạc, phi lý. Trong đạo Nho, chữ Mệnh có nghĩa rất rộng; phải tùy từng trường hợp, tùy từng mạch văn mà hiểu chữ Mệnh ấy cho thích hợp. Chữ Mệnh mang những nghĩa sau đây:

Mệnh là cái phần Trời trao cho mỗi người khi mới vào đời (Thiên mệnh chi vị tính – 天命之謂性。). Đó là tính bản nhiên của con người.

Mệnh là cái phần vụ Trời trao cho mỗi người tùy theo khả năng của người ấy. Phần vụ ấy có khi được trao sớm, có khi được trao muộn. Có người làm tu sĩ nêu gương đạo đức; có người làm thầy giáo dạy dỗ con em; có người giỏi việc cai trị… Sách Trung Dung nói: “Cư dị dĩ sĩ mệnh 居易 以俟命。(Sống đơn sơ để đợi mệnh.” Chữ Mệnh đó hiểu theo nghĩa này.

Mệnh là ý chí, là qui luật của Trời đặt trên tạo vật. Mỗi loài thực vật, khoáng vật, động vật đều phải chịu qui luật do ý chí của Trời sắp đặt. Mặt trăng quay quanh trái đất mất một tháng. Trái đất quay quanh mặt trời mất một năm. Có loài hoa cỏ chỉ sống được trong một mùa (vài tháng); có loài cây sống được cả nghìn năm. Có loài côn trùng chỉ sống được vài ngày; có loài động vật sống được cả trăm tuổi. Sang loài người, cái Mệnh trở nên phức tạp hơn: có người chỉ có năng lực cơ bắp, có kỹ xảo tay chân; có người thích suy tư triết lý; có người giỏi âm nhạc, hội họa, v.v.

Mệnh còn là phần hậu kết của cái nhân đã được gieo (số mệnh). Ví dụ: say rượu lái xe thì gây tai nạn, gieo gió gặt bão, kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm… Ở đây, Mệnh cũng mang tính qui luật nữa; qui luật này có tính then máy của cơ khí, chứ không phải do Trời áp đặt.

Chữ Mệnh trong đoạn văn trên của Mạnh Tử chỉ ý chí và qui luật của Trời. Như thế, Mạnh Tử muốn nói: chẳng có vật nào, người nào mà chẳng chịu sự chi phối của ý chí và qui luật Trời.

Biết bao anh hùng hào kiệt từ nghìn xưa đã muốn chống lại Mệnh Trời để thực hiện ý riêng mình, đều thất bại. Bên Hy Lạp cổ đại, Alexandre Đại Đế mới 30 tuổi đã tung hoành bốn phương, mở rộng đế quốc; ông có ý định chinh phục cả thế giới để thỏa mãn tham vọng của mình. Tương truyền, sau khi chinh phục Trung Cận Đông, ông kéo đại quân sang Ấn Độ. Khi ngồi bên bờ sông Ấn Hà, thấy mặt nước mênh mông cản trở vó ngựa kiêu binh, ông đã thất vọng ngồi khóc. Sau đó, quay về, ông chết trong lúc tuổi còn thanh xuân. Thế là đế quốc Hy Lạp bị chia năm xẻ bảy; và vị thầy của ông là đại triết gia Aristote cũng thất vọng, uống thuốc độc chết, vì không còn biết nương tựa vào đâu trước sự ghen tỵ, chống đối của quần thần.

Căn cứ vào kinh nghiệm lịch sử đã qua, Mạnh Tử mới đi đến kết luận: “Chẳng có gì mà chẳng phải Mệnh.” Mệnh là cái qui luật chính đáng trên tạo vật mà chỉ có Trời là chủ qui luật ấy mới biết tại sao lại như thế. Con người sống trong một không gian và thời gian hạn định không thể thấu tỏ hết được.

Làm người, được hoài thai trong lòng mẹ là đã chịu sự chi phối của Mệnh rồi. Người đó có muốn không nhận chất liệu di truyền của cha mẹ trong con người cũng không được. Cho nên, cách hay nhất là thuận theo và nhận lấy qui luật chính đáng ấy. Tuy nhiên, muốn thuận nhận, người ta phải khiêm nhường học tập; học tập ở cổ nhân, ở kinh nghiệm trường đời.

Ở đây, Mạnh Tử lại phân biệt ra hai trường hợp: Chính Mệnh và Phi Chính Mệnh (nói tắt là Phi Mệnh).

Người nào hiểu đạo Trời và thực hiện rốt ráo đạo ấy cho đến lúc từ giã cõi đời gọi là thuận Chính Mệnh. Kẻ nào không biết qui luật của Mệnh, lại đứng bên bức tường nguy hiểm sắp đổ mà bị đè chết, hoặc kẻ nào vi phạm hình luật quốc gia mà chết trong gông cùm; đó là những kẻ chết “Phi Mệnh”. Tương tự như vậy, kẻ nào thấy trời nổi giông gió mà còn dám lên chiếc thuyền ọp ẹp để bị chết thảm; kẻ nào ham ăn uống, ham nghiện hút đến nỗi bị các bệnh nan y mà chết; kẻ nào ham chức quyền, tham gia vào một chính quyền phản động, mất lòng dân, sắp sụp đổ để rồi bị đền tội; tất cả cũng là chết “Phi Mệnh” nốt.

Thế thì, tuy có Mệnh Trời sắp đặt, nhưng Trời cũng cho con người được quyền tham dự vào cái Mệnh ấy, chứ không hoàn toàn bị áp đặt; đó là yếu tố Mệnh trong qui luật nhân quả (nghĩa thứ tư trong chữ Mệnh). Người ta có khả năng tránh được cái Mệnh do nhân quả này; muốn tránh Mệnh xấu, phải tạo nhân tốt.

Do đó, Nguyễn Du mới nói: “Có Trời mà cũng có ta.” Nếu chúng ta không gieo nhân xấu và khôn ngoan, cẩn thận trong cách hành động, thì có thể tránh được tình trạng chết “Phi Mệnh”.

3. Mạnh Tử nói: “’Tìm kiếm thì được; buông bỏ thì mất.’ Đó là tìm kiếm được những điều có ích, tìm kiếm trong ta vậy.

“’Tìm kiếm thì có đường lối, được thì có Mệnh.’ Đó là tìm kiếm được những điều vô ích, tìm kiếm ở bên ngoài vậy.”

BÌNH GIẢI:

Chúng ta có thể tìm kiếm được những điều hữu ích như sức khỏe, các đức hạnh. Những thứ đó đều ở trong ta, tùy thuộc vào ta; nếu chúng ta muốn tìm kiếm thì sẽ được; nếu buông bỏ thì sẽ mất.

Muốn tìm kiếm sức khỏe, chúng ta phải học phép dưỡng sinh, ăn uống những thực phẩm lành sạch, phù hợp với qui luật âm dương của thiên nhiên và của cơ thể; lại phải làm việc và ngủ nghỉ có hạn độ.

Muốn tìm kiếm đức hạnh, chúng ta phải rèn tập sống trong kỷ luật, phát huy các đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Sức khỏe và đức hạnh đều ở trong ta, nhưng ta phải tìm kiếm và gìn giữ; nếu buông bỏ, sống thác loạn thì sẽ mất.

Còn những điều mà Mạnh Tử cho là vô ích, không liên hệ thiết thực với chúng ta như: địa vị, quyền bính, phú quý, công danh… cũng có thể tìm kiếm được, miễn là biết đường lối. Có nhiều đường lối đưa người ta đến địa vị, quyền bính, phú quý… hoặc ngay thẳng hoặc lắt léo, chạy chọt. Tuy nhiên tất cả những thứ ấy lại còn tùy thuộc vào Mệnh Trời nữa. Nói đến Mệnh Trời thì không thể nói được rốt ráo; chỉ có Trời mới biết rõ thôi, bởi vì chính Trời qui định. Xưa nay, người ta đã dùng nhiều cách lý giải, nhưng không cách nào hoàn toàn thỏa đáng, đáp ứng được sự thắc mắc muôn thuở của con người. Cho nên người ta mới nói những câu tục ngữ để an ủi: “may hơn khôn”, “học tài thi phận”, “chó ngáp phải ruồi”… hoặc câu ca dao:

“Số giàu đem đến dửng dưng,

Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.”

Tuy nhiên, những địa vị, quyền bính, phú quý, công danh… dễ đến thì cũng dễ đi như nước chảy qua cầu.

Sở dĩ những thứ đó bị Mạnh Tử cho là vô ích, bởi vì có cũng được, không có cũng được; có khi không có lại còn tốt hơn. Ví dụ, nhiều tiền của có thể bị kẻ trộm giết người lấy của, v.v. Tất cả những thứ vô ích đó đều ở bên ngoài thân ta, không hoàn toàn tùy thuộc vào ta.

4. Mạnh Tử nói: “Mọi vật đều đầy đủ ở ta. Trở lại mình mà thành thực, chẳng có gì vui lớn bằng. Cố gắng dung thứ cho người mà hành động, tìm kiếm điều nhân chẳng có đâu gần bằng.”

BÌNH GIẢI:

Thông thường người ta tưởng mình thiếu thốn đủ thứ và hướng ra ngoài để tìm kiếm. Tuy nhiên, nếu biết nhìn trở vào với con mắt đặc biệt, sẽ thấy rằng nơi mình có đầy đủ tất cả. Ta và vạn vật xét về phương diện vật chất cùng là tứ đại (đất, nước, gió, lửa) kết hợp lại; nói theo phạm trù ngũ hành, ta và vạn vật đều là tổng hợp của năm yếu tố: thủy, hỏa, mộc, kim, thổ. Cả ta và vạn vật đều có sự điều lý của qui luật âm dương, chỉ có khác nhau về độ số âm dương mà thôi. Các thánh nhân ẩn dật, các đạo sĩ, các thiền sư vì thấy được chân lý này mà họ có thể ngồi trong động đá nhiều năm với niềm an vui bất tuyệt. Sở dĩ các vị ấy được an vui vì nhận ra trong họ có một thực tại diệu huyền đồng thể với thực tại diệu huyền tiềm tại trong vũ trụ. Tại sao trong thiên nhiên lại có hoa này, hoa nọ tươi đẹp rực rỡ? Thưa rằng, thực tại diệu huyền đã phô bày vẻ đẹp vô hạn trong đó. Họ đâu cần phải đi du lịch nơi nọ, nơi kia để xem những cảnh lạ, để ăn uống những đặc sản từng vùng. Vì không nắm được chân lý tự thân, cho nên người ta càng đi, càng xem càng khao khát.

Khi biết muôn vật đều đầy đủ nơi ta, chỉ cần quay trở lại mình mà sống một cách thành thật (phản thân nhi thành), tự trong lòng ta sẽ nảy sinh nguồn suối sự sống vĩnh hằng, khiến cho ta được hạnh phúc viên mãn (lạc mạc đại yên). Thấy được như vậy tức là ta đã giác ngộ và giải thoát, không còn vướng lụy vào vạn vật đa tạp nữa. Thấy chân không diệu hữu nơi mình, tức là thấy được Chân Lý vĩnh hằng; ta chỉ còn ra sức đem Chân Lý ra để bao dung tha thứ cho những ai xúc phạm đến ta (cưỡng thứ nhi hành). Đó là ta đã thực hành điều nhân với mọi người. Điều nhân đã ở bên ta, thì còn phải tìm nhân ở đâu nữa (cầu nhân mạc cận yên).

5. Mạnh Tử nói: “Hành động mà không làm cho sáng tỏ ra, cứ làm theo thói quen mà không xét kỹ; suốt đời noi theo đó, mà không biết đạo lý thế nào, số đông người là vậy.”

BÌNH GIẢI:

Đa số người ta cứ theo thói quen mà làm một cách vô ý thức. Người trước làm trong mê tín, người sau cũng cứ thế làm theo, không biết suy xét phải trái, không biết loại bỏ hay thêm thắt điều gì cho hợp lẽ, hợp thời. Như thế, đạo lý không thể sáng tỏ ra được, phải trái không thể phân biệt được, thế mà đa số người ta cứ noi theo suốt đời.

Mạnh Tử đã tiếc cho người ta thiếu óc minh triết. Phải có óc minh triết mới biết điều chỉnh ngôn ngữ, điều chỉnh công việc làm cho đúng đắn, mới biết thải bỏ những sai lầm do tập quán lâu đời để lại.

6. Mạnh Tử nói: “Người ta không thể không hổ thẹn. Không hổ thẹn cái điều đáng hổ thẹn, đó là không biết hổ thẹn nữa rồi.”

BÌNH GIẢI:

Con người sở dĩ khác loài vật là vì biết hổ thẹn. Hổ thẹn về những điều vi phạm luân lý, vi phạm luật pháp, vi phạm phẩm giá. Càng hổ thẹn nhiều, càng biết hối hận và sửa sai, mới trở nên người tốt được. Không biết hổ thẹn thì còn có gì xấu mà chẳng làm. Như anh chàng nước Tề kia (Mạnh Tử, Ly Lâu hạ, 32), có hai vợ; chẳng làm gì để nuôi vợ; đi xin xôi, thịt, rượu thừa ăn uống; lại còn về hãnh diện với hai vợ, nói dối rằng mình ăn uống với những nhà giàu sang. Còn có gì đáng nói nữa với con người không biết hổ thẹn, tự chà đạp phẩm giá của mình như vậy?

7. Mạnh Tử nói: “Lòng hổ thẹn đối với người ta, rất lớn. Làm người giả dối, khéo biến trá, đó là không dùng tới lòng hổ thẹn nữa rồi. Không hổ thẹn thì chẳng bằng người, liệu có gì bằng người nữa chăng?”

BÌNH GIẢI:

Lòng hổ thẹn rất quan trọng đối với con người. Có lòng hổ thẹn mới thăng tiến được. Thấy người khác tốt lành, tài giỏi hơn mình mà mình không biết tự thẹn, sao mình có thể cải thiện? Người nào luôn luôn giả dối, khéo dùng sự biến trá để gạt người khác, không tự thẹn với lương tâm, tức là không còn dùng tới lòng hổ thẹn trong tương giao xã hội nữa.

Không biết hổ thẹn tức là vi phạm đức nghĩa, không thể sánh bằng những người bình thường được. Đức nghĩa là sự thể hiện tương giao tốt đẹp, thuận hoà với mọi người. Đức nghĩa đã vi phạm thì những đức khác như nhân, lễ, trí, tín cũng không có nữa. Có gì bằng người cho được?

8. Mạnh Tử nói: “Các bậc vua hiền ngày xưa ưa điều thiện mà quên cả thế lực của mình. Các hiền sĩ xưa, riêng mình chẳng như vậy sao? Vì vui trong đạo lý của mình mà quên thế lực của người. Cho nên các bậc vương, bậc công nếu không hết lòng kính trọng, trọn lễ thì luôn luôn không gặp được các hiền sĩ. Gặp còn luôn luôn không được, huống hồ được họ làm bề tôi sao?”

BÌNH GIẢI:

Ngày xưa, các bậc vua hiền như: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương… vì ham thích điều thiện hết mức, cho nên quên cả thế lực của một ông vua, đã hạ mình nhiều lần đến nơi ruộng rẫy, bến sông để cầu hiền sĩ về giúp mình. Cũng vậy, các hiền sĩ vì thích điều thiện, vui trong đạo lý của mình, cho nên đã quên cả thế lực của các vua, thậm chí ngạo nghễ phê phán hành vi của các vua mà không sợ bị giết. Các hiền sĩ ngày xưa chỉ vui trong đạo mà không tha thiết gì tới địa vị, bổng lộc. Vì thế, các bậc thiên tử, các vua chư hầu nào không hết lòng kính trọng, trọn lễ thì không có cơ hội gặp mặt các hiền sĩ. Họ ẩn lánh trong rừng sâu, núi thẳm hoặc nơi chợ búa ô hợp, giả ngây, giả dại để tránh né các sứ giả do vua sai tới kiếm tìm. Muốn gặp mặt đã không dễ gì, làm sao có thể mong các hiền sĩ làm bề tôi của mình, sẵn sàng nghe lệnh mình?

9. Mạnh Tử bảo Tống Câu Tiễn rằng: “Ông thích du thuyết chăng? Ta sẽ nói với ông về du thuyết. Người ta biết mình, thì mình thảnh thơi an nhiên; người ta chẳng biết mình, mình cũng thảnh thơi an nhiên.”

Hỏi: “Làm thế nào có thể được thảnh thơi an nhiên như vậy?

Đáp: “Tôn trọng đức hạnh, vui trong điều nghĩa thì có thể thảnh thơi an nhiên được. Cho nên kẻ sĩ lúc khốn cùng chẳng đánh mất điều nghĩa; lúc có địa vị chẳng lìa đạo lý. Khốn cùng mà chẳng đánh mất điều nghĩa, cho nên kẻ sĩ giữ được bản chất của mình. Có địa vị mà chẳng lìa đạo lý, cho nên dân không thất vọng.

“Người đời xưa khi đạt được chí nguyện, thì thêm ơn huệ cho dân; khi không đạt được chí nguyện thì sửa mình để tỏ rạng ở đời. Lúc khốn cùng, thì một mình giữ điều thiện; lúc có địa vị, thì làm cho cả thiên hạ trở nên thiện.”

BÌNH GIẢI:

Vào thời Chiến Quốc, thiên hạ đại loạn, các vua chư hầu tranh hùng tranh bá, cho nên xã hội nảy sinh nhiều nhà du thuyết. Họ đến với các vua chư hầu để trình bày đường lối trị quốc an dân. Trong số đó, có cả người tốt lẫn kẻ xấu. Người tốt thì thương dân, kẻ xấu thì lợi dụng nước đục thả câu để mưu lợi riêng. Tống Câu Tiễn là một trong những nhà du thuyết thời đó.

Mạnh Tử nói cho Tống Câu Tiễn nghe về bí quyết trong du thuyết, làm thế nào vẫn giữ được sự thảnh thơi an nhiên mỗi khi du thuyết thất bại hay thành công?

Thấy Tống Câu Tiễn quan tâm, Mạnh Tử trình bày: Kẻ sĩ cần phải thượng tôn đức hạnh, vui trong điều nghĩa; lúc nào cũng tâm niệm mình đi du thuyết vì hạnh phúc của dân, nêu ra phương thế giúp vua để ổn định xã hội, chứ không phải tìm địa vị, bổng lộc cho mình. Với lý tưởng như vậy, dù không được vua chư hầu nghe lời, trọng dụng, mà gặp cảnh thiếu thốn, khốn cùng, kẻ sĩ vẫn không đánh mất điều nghĩa. Ví dụ: kẻ sĩ không dùng thủ đoạn lường gạt để kiếm miếng cơm, manh áo. Trong lý tưởng ấy, dù gặp lúc hiển đạt vinh quang, có địa vị lớn trong triều đình, kẻ sĩ vẫn không lìa đạo lý, tức là không tham lam vơ vét của dân, không đục khoét công quỹ, không dùng thủ đoạn thỏa mãn dục vọng riêng tư.

Gặp lúc khốn cùng mà chẳng đánh mất điều nghĩa, kẻ sĩ mới giữ được bản chất của mình, đó là bản chất trong sạch, tự trọng của người quân tử. Khi có địa vị mà kẻ sĩ chẳng lìa đạo lý, vì thế, dân chúng không thất vọng, hết lòng tin tưởng, ủng hộ.

Thời xưa, khi đạt được chí nguyện, có địa vị trong chính quyền, các kẻ sĩ tìm cách ban thêm ơn huệ cho dân được phúc lạc, ấm no. Khi không đạt chí nguyện, kẻ sĩ lui về ẩn dật đâu đó trong chốn dân dã, tu tâm sửa tính để nêu gương đạo đức cho người đời. Lúc khốn cùng thì giữ điều thiện cho riêng mình; khi có cơ hội làm quan cai trị thì tìm biện pháp khiến cho toàn dân đều trở nên lương thiện.

Với lý tưởng cao cả như vậy, dù thành hay bại, dù được trọng dụng hay bị bỏ rơi, kẻ sĩ luôn luôn được thảnh thơi an nhiên.

10. Mạnh Tử nói: “Đợi Văn Vương rồi sau mới phát khởi, đó là những dân thường. Còn như những kẻ sĩ tài trí hơn người, tuy không có Văn Vương, cũng phát khởi được.”

BÌNH GIẢI:

Đa số người dân thường, muốn phát khởi điều thiện cần phải có điều kiện thuận tiện, có sự hỗ trợ tinh thần, ví như sự xuất hiện của một thánh vương như Văn Vương. Khi một vua thánh ra đời, với tấm gương đức độ cao cả, người ta mới đua nhau bắt chước; do đó điều thiện mới dấy lên được.

Còn đối với những kẻ sĩ tài trí, họ có sẵn nghị lực trong người, tuy không có vua thánh như Văn Vương xuất hiện, họ vẫn có thể tự sức mình phát khởi điều thiện.

11. Mạnh Tử nói: “Nếu lấy gia sản của họ Hàn, họ Ngụy mà cấp thêm cho người nào, người ấy vẫn tự mình sống như thường, bình thản, thì người ấy vượt quá người ta xa lắm.”

BÌNH GIẢI:

Đối với những người tầm thường, khi nghèo khó thì buồn rầu, than thở, oán trời trách đất; khi bỗng nhiên giàu có sang trọng thì kiêu căng, lên mặt tự hào, khoe tài, khoe giỏi, coi rẻ những người kém hơn mình.

Đối với một người nào mà cấp thêm cho họ một gia sản lớn lao như gia sản của họ Hàn, họ Ngụy thời Chiến Quốc, họ vẫn thản nhiên như không, chẳng lên mặt kiêu căng với ai, chẳng khoe khoang khoác lác, thái độ của họ trước sau không thay đổi; người ấy hẳn có một nhân cách cao cả, một nền đạo hạnh vững vàng vượt qua những người thường rất nhiều. Người ấy đáng được tin cậy để nhận những trách vụ lớn lao đối với quốc gia, xã hội.

12. Mạnh Tử nói: “Lấy đường lối an vui mà sai khiến người, tuy có nhọc nhằn cũng không oán trách. Lấy đường lối bảo sinh mà giết người, tuy có chết cũng không oán trách người giết.”

BÌNH GIẢI:

Nhà cầm quyền chân chính phải biết lấy sự an vui, lấy sinh mệnh của dân làm trọng. Tất cả công việc của nhà cầm quyền đều phải nhắm tới lý tưởng phục vụ hạnh phúc của dân.

Với mục đích đem an vui cho dân, có khi phải khiến dân lao nhọc; tuy vậy, dân cũng không hề oán trách, bởi vì dân biết việc lao nhọc là cần thiết.

Với mục đích bảo toàn mạng sống cho dân, có khi phải giết kẻ phạm pháp để duy trì sự ổn định, an lành cho dân; tuy trong dân có kẻ phải chết, dân cũng không oán trách nhà cầm quyền đã giết.

Hoặc, còn hơn nữa, khi phải chống lại quân thù để bảo vệ mạng sống cho toàn dân, nhà cầm quyền phải phát động chiến tranh, đưa dân ra mặt trận; tuy trong dân sẽ có nhiều người bị giết, dân cũng sẽ không oán trách nhà cầm quyền đã gây ra sự chết chóc đó.

13. Mạnh Tử nói: “Dân của bậc Bá thì được hớn hở vui mừng. Dân của bậc Vương thì được thanh thản an nhiên. Giết ai, thì dân không oán; làm lợi thì dân chẳng coi là có công. Dân mỗi ngày một hướng về điều thiện mà không biết ai đã làm ra vậy.

“Này, bậc quân tử, người qua nơi nào nơi ấy được cải hóa; người gìn giữ điều gì điều đó có thần lực. Trên dưới với trời đất cùng thông lưu. Há nói rằng ích lợi ít ỏi sao?”

BÌNH GIẢI:

Bậc Bá là vị vua chư hầu hùng mạnh về quân sự, kinh tế phồn thịnh, dân chúng đông đảo. Ông ta lấy danh nghĩa của Thiên tử để qui tụ hầu hết các chư hầu nhỏ yếu, mời gọi các chư hầu có thế lực, thành lập một liên minh, thiết lập minh ước hẳn hoi, nêu cao chính nghĩa cứu khốn phò nguy. Tiêu biểu như trường hợp của Tề Hoàn Công. Trong nhiều năm, không nước nào dám đánh lại và cưỡng lệnh. Dân trong nước của Bá chủ được hớn hở vui mừng, làm ăn phát đạt, có uy thế với các lân bang.

Bậc Vương là vị vua cai trị cả thiên hạ Trung quốc như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang… Bậc Vương cai trị bằng đạo đức nhân nghĩa, cho nên đất nước được thái bình thịnh trị lâu dài; vua các nước viễn phương đều một lòng giao hiếu, thần phục. Dân trong nước của bậc Vương được thanh thản an nhiên, không lo sợ quân thù xâm lấn, cũng không sợ phải tham gia chinh chiến ở phương xa; trong nước không có nạn quan lại áp bức, không có trộm cướp nhiễu nhương. Bởi vì cai trị bằng nhân nghĩa, cho nên bất đắc dĩ bậc Vương có ra lệnh giết ai, hẳn là kẻ ấy đáng tội chết, dân không cần thắc mắc hay oán trách. Dân được hưởng lợi là chuyện tự nhiên như trời mưa, trời nắng, đã trở thành thói quen từ lâu; cho nên cũng không coi mối lợi nào đó là do công của vua quan. Ngày ngày, dân sống trong điều thiện một cách tự nhiên như trẻ thơ, không cần biết do ai mà mình sống thiện hảo như vậy.

Chỉ có bậc Vương cai trị dân bằng đường lối đạo đức nhân nghĩa mới là bậc quân tử đích thực. Bậc quân tử hiện diện ở đâu, nơi đó dân chúng được cảm hóa, mọi việc tiến hành theo đạo Trời. Bậc quân tử cất giữ điều gì trong lòng đều là những điều may lành, mỗi khi ban bố ra, thì nảy sinh năng lực thần kỳ (sở tồn giả thần), khiến cho mọi sự đều tốt đẹp. Đường lối cai trị của bậc Vương vì hợp với đạo Trời cho nên từ các quan trên trong triều đình cho đến dân chúng ở cấp dưới, kẻ cả môi trường thiên nhiên bao gồm trời đất đều được thông lưu nhất quán, không có trở ngại, ách tắc (Thượng hạ dữ thiên địa đồng lưu).

Tuy nhà nước không tuyên truyền, khoe khoang về ích lợi của chính sách cai trị, nhưng thực ra sự ích lợi của đường lối Vương đạo mới to tát làm sao, đâu có thể bảo là ít ỏi được? (Khởi viết tiểu bổ chi tai?).

14. Mạnh Tử nói: “Lời nói nhân đức cảm hóa con người thâm sâu không bằng danh tiếng nhân đức.

“Cai trị giỏi thu phục dân không bằng giáo hóa giỏi. Cai trị giỏi thì dân sợ; giáo hóa giỏi thì dân yêu. Cai trị giỏi làm cho dân có của cải; giáo hóa giỏi thì được lòng dân.”

BÌNH GIẢI:

Lời nói nhân đức không có khả năng tác động mạnh bằng danh tiếng nhân đức. Danh tiếng nhân đức chứng tỏ rằng nhà cai trị đã thực hành nhân đức từ lâu. Nhà cai trị đã thực hành nhân đức trước mới có thể cảm hóa dân chúng một cách sâu xa. Như thế, nhà cai trị đã làm gương nhân đức cho dân chúng bắt chước.

Cai trị giỏi là sắp đặt cơ cấu cai trị chặt chẽ, hợp lý, tránh được sự hao phí thời gian, hao phí công quĩ, tránh được tệ nạn tham nhũng. Cơ cấu cai trị chặt chẽ dẫn đến sự điều động guồng máy cai trị từ trung ương đến địa phương được lưu thông tốt đẹp. Do đó, nền hành chính quốc gia không bị trở ngại, sẽ tạo ra sự ổn định, thành công, tiến bộ. Tuy nhiên cai trị giỏi mà không giáo hóa giỏi thì ít thu phục được dân chúng.

Giáo hóa giỏi là khéo dạy dân sống trong đạo đức, khiến dân biết tự trọng, tự quản, biết hy sinh cho nhau. Cai trị giỏi mới là biết cách quản chế dân, khiến cho dân không phạm pháp. Giáo hóa giỏi mới làm cho dân phát khởi được tinh thần vị tha, hết lòng vì đại nghĩa quốc gia. Khiến cho dân biết cởi mở tấm lòng, biết quên mình hy sinh mới gọi là thu phục được dân.

Cai trị giỏi chỉ làm cho dân chúng sợ nhà cầm quyền, sợ hình phạt nặng nề. Giáo hóa giỏi mới làm cho dân chúng yêu mến nhà cầm quyền, coi nhà cầm quyền như cha mẹ, anh em, mới khiến cho dân chúng coi đất nước như một đại gia đình đáng yêu, đáng phục vụ.

Cai trị giỏi, khéo phát triển và vận dụng các tài nguyên quốc gia, thì dân chúng có nhiều cơ hội để làm giàu. Giáo hóa giỏi mới làm cho dân chúng yêu mến quê hương mình, yêu mến chế độ cai trị, không muốn lìa bỏ, mới gọi là thâu đạt được lòng dân.

15. Mạnh Tử nói: “Điều người ta không học mà làm được, đó là lương năng.

Điều không suy nghĩ mà biết được, đó là lương tri.

“Đứa trẻ còn được bế bồng biết cười, không đứa nào không biết yêu cha mẹ nó. Kịp đến lúc lớn lên, không đứa nào không biết kính anh nó. Thân yêu cha mẹ là nhân; kính bậc trên là nghĩa. Không có gì khác, đó là những điều thông suốt cả thiên hạ vậy.”

BÌNH GIẢI:

Mạnh Tử cho rằng trong con người có những yếu tố nền tảng hay bản chất thuần nhiên đã có sẵn do Trời trao cho. Ông gọi là lương năng, cái khả năng tự nhiên, do đó người ta có thể làm những điều chưa học. Ông gọi là lương tri, cái khả năng tự nhiên, do đó người ta có thể biết được những điều chưa có thời gian suy nghĩ.

Ở đây, chữ lương () có nghĩa cao sâu hơn nghĩa thông thường là tốt, lành, lương thiện. Lương là yếu tố nền tảng thuần nhiên gắn liền với bản thể siêu hình của con người.

Mạnh Tử nêu ví dụ: đứa trẻ mới hai, ba tuổi, còn chịu bế bồng, chưa được dạy bảo gì; thế mà đứa nào cũng biết yêu mến cha mẹ nó qua cử chỉ hướng theo, không muốn rời xa. Đứa trẻ lớn hơn, chưa được học tập gì; thế mà đứa nào cũng biết kính mến anh nó, muốn bám theo để được bảo vệ.

Ông cho rằng tình thân yêu, kính mến bẩm sinh đó là đầu mối của điều nhân, điều nghĩa. Nhân nghĩa chính là lương năng, lương tri của con người, đã có sẵn trong bản chất con người, chứ không phải do giáo dục của xã hội gán vào về sau. Lương năng, lương tri, là những thực tại có chung, thông suốt trong toàn thể loài người.

16. Mạnh Tử nói: “Ông Thuấn khi ở trong núi sâu, sống với cây đá, chơi với nai, heo. Đời sống của ông so với một kẻ quê mùa nơi núi sâu không khác gì mấy. Kịp đến lúc ông nghe được một câu nói lành, nhìn thấy được một hành vi lành, thì cũng như tháo nước sông Giang, sông Hà, nước chảy ầm ào, không gì có thể ngăn cản được ông (hướng thiện) nữa.”

BÌNH GIẢI:

Ông Thuấn là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Thực ra không có sử sách chính thức nào chép về tiểu sử ông Thuấn, vì thời đó chưa có sử (khoảng trên 2000 năm trước Công nguyên). Những sự tích về ông đều do dân gian truyền miệng mà Khổng Tử, Mạnh Tử nhắc lại để làm tấm gương răn dạy các đệ tử.

Như chuyện kể trong đoạn này, ông Thuấn không được cha mẹ hướng dẫn hay không được thầy dạy tử tế. Ông sống trong rừng sâu, núi thẳm, làm bạn với cây, đá, chơi đùa với nai, heo, như một người thiểu số, so với một kẻ quê mùa thô lỗ không khác gì mấy. Thế mà khi nghe được lời thiện, nhìn thấy gương thiện thì lập tức lòng ông hướng thiện. Bao nhiêu khuynh hướng thiện trong ông đều phát huy khác thường, khiến ông trở nên một bậc thánh nhân, danh tiếng vang thiên hạ, truyền đến tận triều đình vua Nghiêu. Có phải ông là một nhân vật huyền thoại đã được dân chúng tô vẽ thêm do tâm lý khao khát một thánh vương, hay chính bản thân ông đã có sẵn một bản chất phi thường chỉ chờ cơ hội thuận tiện mà thành tựu?

17. Mạnh Tử nói: “Không làm những điều mình chẳng nên làm; không muốn những điều mình chẳng nên muốn; như thế mà thôi.”

BÌNH GIẢI:

Những điều mình chẳng nên làm là những điều vi phạm đạo đức, luân lý, luật pháp. Nói chung đó là những điều có hại cho chính bản thân mình và cho tha nhân. Chẳng những không làm mà cũng không muốn nữa, nghĩa là ngăn chặn những điều xấu, không cho chúng nảy mầm trong tâm hồn mình. Tuy cả hai trường hợp “không làm, không muốn” mới chỉ là phương diện tiêu cực của đạo đức, nhưng đã là quá khó và quá tốt đối với nhiều người. Còn phương diện tích cực của đạo đức là hãy làm những điều tốt cho bản thân mình và cho tha nhân; điều này còn khó hơn một bậc nữa, đòi hỏi ý chí và nghị lực rất nhiều.

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội thời Xuân Thu, Chiến Quốc, dạy cho đệ tử không làm, không muốn những điều xấu đã là đủ lắm rồi. Trước khi mong làm thánh nhân, hãy tập làm con người bình thường vô tội đã.

18. Mạnh Tử nói: “Những người có đức hạnh sáng suốt, có trí khôn giỏi giang, thường tồn tại trong tai vạ. Những bề tôi cô độc ở phương xa, những con cái của vợ lẽ, nàng hầu, chịu giữ gìn tâm ý trong nguy khốn, chịu lo lắng hoạn nạn sâu xa, cho nên mới thành tựu.”

BÌNH GIẢI:

Mạnh Tử đã nhận xét thấy một thực tế trong đời: những người có đức hạnh sáng suốt, có trí khôn minh mẫn, có sáng kiến giỏi giang… hầu hết đều trưởng thành trong gian nan khổ nhục và họ đã cố gắng tồn tại, rồi vươn lên trong những hoàn cảnh rất khắc nghiệt. Những người ấy có thể là những bề tôi ở chốn biên thùy xa xôi, không được sự trợ giúp bao che của ô dù triều đình; họ phải phấn đấu tự lực, tự tồn. Những người ấy có thể là con cái của vợ lẽ, nàng hầu, bị cha bỏ quên, bị họ hàng khinh bỉ, không được bảo bọc nâng đỡ từ tấm bé; họ phải cố giữ tấm lòng trong sạch trong thiếu thốn hiểm nguy; họ phải lo nghĩ đương đầu với những hoạn nạn, éo le của thời cuộc. Những người ấy mới có nhiều kiên nhẫn, dồi dào kinh nghiệm, mới thông tỏ được ý nghĩa của nhân sinh; do đó họ có thể thành tựu được nhân cách vững vàng, có thể trau giồi được tài năng đích thực.

Xem thế thì những con nhà trưởng giả, sống trong nhung lụa, luôn luôn được nuông chiều trong một hoàn cảnh dễ chịu, đầy đủ tiện nghi, khó lòng phấn phát được tài trí một cách đặc biệt.

Những tấm gương danh nhân ấy đầy dẫy trong lịch sử nhân loại từ cổ chí kim. Kể cả vua Thuấn, Khổng Tử, Mạnh Tử… là những đại hiền trong đạo Nho cũng đều xuất thân trong những hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy.

19. Mạnh Tử nói: “Có hạng người phụng sự vua, khi thờ phụng thì làm những việc nịnh bợ, tâng bốc cho vua vui lòng. Có hạng bề tôi lo trị an đất nước, lấy việc trị an đất nước làm vui lòng.

“Có hạng dân Trời, liệu có thể hành đạo trong thiên hạ, sau đó mới chịu hành động. Có hạng đại nhân, tự mình sống chính đáng mà mọi vật được chính đáng.

BÌNH GIẢI:

Mạnh Tử phân biệt ra bốn hạng người ra làm quan ngày xưa:

Thứ nhất: làm quan để phụng thờ vua; dùng lời nịnh hót, cử chỉ tâng bốc, thủ đoạn đón rước ý vua để làm vui lòng vua.

Thứ hai: làm quan để giữ yên đất nước; họ lấy việc giữ yên đất nước làm niềm vui; họ cảm thấy an lòng khi dân chúng không bị cướp bóc, đất nước không bị xâm lấn.

Thứ ba: các nhân vật này là những người đặc biệt, hiểu thấu thiên lý; cho nên chỉ chấp nhận ra làm quan khi đã liệu đoán được đạo lý có thể thi hành trong thiên hạ. Thấy tình thế không thuận lợi cho việc triển khai đạo lý, các ngài không chịu ra làm quan. Mạnh Tử mệnh danh là “dân Trời” (Thiên dân).

Thứ tư: các đại nhân này chủ trương ra làm quan là tự mình nêu gương sống chính đáng để cho mọi người cũng sống chính đáng theo và mọi sự, mọi vật đều được ổn định. Khổng Tử và Mạnh Tử thuộc hạng này.

Vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc, hạng “Thiên dân” hầu như không có; nếu có, các ngài đi ẩn dật hết. Hạng đại nhân thì hiếm hoi như sao buổi sớm. Hạng quan biết lo trị an đất nước chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Còn hạng làm quan để nịnh hót, bợ đỡ kiếm lợi thì nhiều không kể xiết; bao nhiêu xe chở cũng không hết!

20. Mạnh Tử nói: “Người quân tử có ba niềm vui, nhưng làm bậc vương cả thiên hạ không ở trong những niềm vui đó.

Cha mẹ đều còn, anh em không xảy ra điều gì, đó là niềm vui thứ nhất. Ngước lên không thẹn với Trời, cúi xuống không tủi hổ với người, đó là niềm vui thứ hai. Được dạy dỗ những người tài giỏi trong thiên hạ, đó là niềm vui thứ ba.

“Người quân tử có ba niềm vui, nhưng làm bậc vương cả thiên hạ không ở trong những niềm vui đó.”

BÌNH GIẢI:

Quân tử là người có đạo đức cao cả, cho nên những niềm vui của người ấy khác với người thường. Đối với người thường, được làm vương cai trị cả thiên hạ, nắm toàn quyền sinh sát trong tay, ai ai cũng phải tuân phục, kính sợ; hẳn đó là niềm vui lớn nhất. Tuy nhiên, người quân tử coi làm vua là thi hành bổn phận đối với toàn dân, phải gánh trách nhiệm nặng nề. Thi hành bổn phận, gánh trách nhiệm nặng nề thì có nhiều điều phải lo nghĩ đến mất ăn, mất ngủ. Do đó, làm vua cả thiên hạ không phải là một trong ba niềm vui của người quân tử.

Vì có nết hiếu, cho nên người quân tử được vui khi thấy cha mẹ còn sống khỏe mạnh cả. Vì có nết đễ, cho nên người quân tử được vui khi thấy anh em không gặp tai nạn gì. Đó là niềm vui thứ nhất.

Vì có đạo đức, người quân tử không làm điều gì trái với lương tâm, cho nên ngẩng lên không thẹn với Trời, cúi xuống không tủi hổ với người; tâm trí lúc nào cũng thư thái an nhiên. Đó là niềm vui thứ hai.

Vì tha thiết với thế đạo, muốn xã hội được tiến bộ, có tấm lòng ưu ái với nhân quần, cho nên người quân tử muốn đem những điều mình đã học trao lại cho thế hệ đàn em. Nay được đóng vai thầy dạy dỗ những trang anh tài tương lai trong thiên hạ, thật là một điều hân hạnh lớn. Đó là niềm vui thứ ba.

Cả ba niềm vui của người quân tử đều là những niềm vui bao hàm đạo đức tính.

21. Mạnh Tử nói: “Đất rộng, dân đông, người quân tử muốn vậy; nhưng niềm vui của người quân tử không ở đó. Đất nước đứng ở trung tâm thiên hạ, ổn định dân chúng bốn biển, người quân tử cảm thấy vui; nhưng bản tính người quân tử không ở đó.

“Bản tính người quân tử, tuy có tiến hành những việc lớn lao, cũng không thêm, tuy có sống trong khốn cùng, cũng không bớt. Tính phận người quân tử đã được định cho chắc chắn vậy.

“Bản tính người quân tử là nhân, nghĩa, lễ, trí; có gốc rễ ở tâm. Phát sinh ra ngoài thì nhuần nhã hiện ở mặt, nở nang ở lưng, phô bày ra tay chân. Tay chân tuy không nói nhưng tỏ rõ.”

BÌNH GIẢI:

Cũng như những người bình thường, người quân tử muốn cho nước nhà thịnh vượng, đất rộng, dân đông; người quân tử cảm thấy vui khi nước nhà có vị trí quan trọng giữa các chư hầu, các lân bang trọng nể, dân chúng ổn định thái bình. Tuy nhiên, bản tính cố hữu của người quân tử không lệ thuộc vào những sự kiện bên ngoài. Vì thế, dù có thành công lớn lao, hay thất bại nặng nề, có đói khát khốn cùng, bản tính người quân tử vẫn không thay đổi, không thêm, không bớt.

Bản tính người quân tử là một nền đạo đức vững chắc bao gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí… có gốc ở tâm. Bản chất đạo đức chính là tính phận được Trời dành sẵn cho, gắn liền với bản thân quân tử. Bản chất ấy tuy là một thực tại tâm linh siêu hình nhưng khi phát huy ra ở hình sắc bên ngoài, thì nhuần nhã ở khuôn mặt, ôn lương ở cử chỉ, dáng điệu; dịu dàng tế nhị ở tay chân. Tuy cái phần thân thể người quân tử không nói nên lời nhưng ở đó tỏ rõ một phẩm cách cao quý đáng trọng, đáng nể, đáng mến, khiến cho mọi người muốn gần gũi.

22. Mạnh Tử nói: “Bá Di lánh Trụ, sống ở bãi Bắc Hải, nghe tin Văn Vương dấy lên, ông đứng dậy nói: ‘Sao chẳng đến mà qui phục? Ta nghe nói Tây Bá khéo nuôi người già.’ Thái Công lánh Trụ, sống ở bãi Đông Hải, nghe tin Văn Vương dấy lên, ông đứng dậy nói: ‘Sao chẳng đến mà qui phục? Ta nghe nói Tây Bá khéo nuôi người già.’ Thiên hạ có vua khéo nuôi người già, thì những bậc nhân đức đến qui phục mình vậy.

“Được năm mẫu đất cư trú, trồng dâu bên tường, phụ nữ chăn tằm, thì người già đủ lụa để mặc. Nếu có năm con gà mái đẻ, hai con heo nái, không mất thời sinh sản, người già đủ thịt ăn. Được trăm mẫu ruộng, người chồng cày cấy, nhà có tám miệng ăn không phải đói.

“Bảo rằng ông Tây Bá khéo nuôi người già vì ông biết chế định ruộng vườn, dạy dân trồng cây, nuôi gia súc, hướng dẫn vợ con người ta nuôi bậc lão thành của họ. Năm mươi tuổi mà không có lụa thì không ấm; bảy mươi tuổi mà không có thịt thì không no. Không ấm, không no tức là đói rét. Dân của Văn Vương không có người già đói rét. Những điều ấy chứng tỏ như vậy.”

BÌNH GIẢI:

Sở dĩ Văn Vương (Tây Bá) được các bậc nhân đức qui phục, trong đó có hai nhân vật nổi tiếng là Bá Di và Thái Công (Khương Tử Nha, tục gọi là Lã Vọng), vì Văn Vương khéo nuôi người già.

Không phải Văn Vương tập trung người già lại một nơi, bỏ ngân sách nhà nước ra cấp dưỡng cho họ, mà ông biết chế định chính sách điền địa, biết dạy dân phát triển kinh tế và khuyến khích dân bảo dưỡng cha mẹ, ông bà.

Chính sách tiêu biểu của Văn Vương là: chia đất cho dân đủ để canh tác, dạy dân trồng dâu nuôi tằm và chăn nuôi gia súc.

Thế là dân có đủ thóc ăn quanh năm, có đủ lụa mặc, có gia súc cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hằng ngày. Văn Vương lại hướng dẫn con cháu trong dân chăm sóc cha mẹ, ông bà của mình. Như thế, những người già cả trong nước của Văn Vương không bị đói rét. Vì vậy, Văn Vương được tiếng là khéo nuôi người già vào thời thượng cổ.

23. Mạnh Tử nói: “Dễ dàng về việc ruộng nương, nhẹ bớt về việc thu gom thuế má, dân có thể trở nên giàu có.

“Ăn uống hợp giờ giấc, dùng hợp lễ độ, thì của cải không thể dùng hết.

“Không có nước lửa, dân không sinh hoạt được. Lúc tối tăm, có người gõ cửa nhà xin nước lửa, chẳng ai không cho, vì có đủ cả. Bậc thánh nhân cai trị thiên hạ khiến cho dân có đậu và lúa như nước lửa. Đậu lúa có như nước lửa, thì dân sao có kẻ bất nhân được?”

BÌNH GIẢI:

Sau khi đã có chính sách chế định đất đai một cách hợp lý, nhà cầm quyền cần phải tạo điều kiện dễ dàng cho dân được canh tác ruộng nương; đừng bắt họ sưu dịch trong thời vụ mùa màng… Ngoài ra, nhà cầm quyền đừng thu gom thuế má quá đáng. Như vậy, dân có thể trở nên giàu có được.

Nếu dân chúng biết ăn uống phải phép, có giờ giấc hẳn hoi; đói mới ăn, khát mới uống, không phí phạm thực phẩm; nếu mọi người may sắm y phục hợp lễ, sử dụng các tiện nghi hợp lý, không tiêu xài hoang phí, thì của cải làm ra do công sức lao động không thể dùng hết.

Trong sự sinh hoạt của dân, nước lửa là những nhu cầu không thể thiếu, cho nên nhà nào cũng có đủ nước lửa. Giá như nhà cầm quyền là những bậc thánh nhân biết tạo điều kiện cho dân quanh năm đầy đủ đậu và lúa trong kho như đầy đủ nước lửa, thì dân không bao giờ thiếu thốn. Dân đã không thiếu thốn, sao có thể sinh ra trộm cắp, sao có kẻ bất nhân xuất hiện trong xã hội được? Sở dĩ trong dân chúng có nhiều kẻ bất nhân, bởi vì đã từ lâu rồi, dân chúng bị bóc lột, đói khổ; từ đó mới sinh ra thói trộm cắp, thậm chí cướp của giết người. Thói trộm cắp là tiền đề phát sinh những kẻ bất nhân trong xã hội.

24. Mạnh Tử nói: “Khổng Tử lên núi Đông Sơn, thấy nước Lỗ là nhỏ; lên núi Thái Sơn, thấy thiên hạ là nhỏ. Cho nên người đã quan sát biển, khó lòng nhìn nhận các giòng nước khác. Người đã rong chơi ở cửa bậc Thánh nhân, khó lòng nhìn nhận các lời nói khác.

“Muốn quan sát nước phải có cách; ắt là quan sát các làn sóng của nó. Mặt trời mặt trăng sáng tỏ, tia sáng có bị che ắt vẫn chiếu rõ.

“Nước tuy là thứ lưu chuyển nhưng nếu không đầy hầm hố thì không tràn đi. Người quân tử để chí ở đạo, nếu không nên dáng vẻ đẹp đẽ thì không thấu đạt.”

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn này, Mạnh Tử dùng cách so sánh để nói về đạo và trình độ thấm nhuần đạo ở con người. Đạo là một thực thể mênh mông, cao xa, u ẩn và nhiệm mầu. Không ai chỉ rõ được đạo như thế nào, nhưng đạo vẫn quanh quất trong cõi nhân sinh, khi ít, khi nhiều. Khi ít đạo thì đất nước loạn ly; khi nhiều đạo thì đất nước thái bình, thịnh trị. Đạo được đề cập tới trong lời dạy của hiền nhân này, nơi sách của hiền nhân khác. Tùy theo trình độ cảm nhận của một hiền nhân mà đạo được trình bày nông sâu khác nhau. Tương tự như lãnh thổ, như nước.

Ở mặt đất, Khổng Tử cứ tưởng nước Lỗ là một lãnh thổ to lớn lắm, nhưng đến khi leo lên núi Đông Sơn, ngài mới thấy nước Lỗ là nhỏ. Tuy vậy, Đông Sơn mới là ngọn núi thấp thôi. Khi trèo lên núi Thái Sơn cao vòi vọi, ngài lại thấy cả thiên hạ bao la, gồm nhiều nước chư hầu là nhỏ.

Cũng thế, người mới đi ở ven ao, ven hồ, ven sông, tưởng rằng nước ở đấy là nhiều; nhưng khi đã có dịp quan sát biển mênh mông thì không còn để ý gì tới nước ao, nước hồ, nước sông nữa.

Các quan nước Sở tháp tùng vua Sở đi săn. Khi thấy vua Sở nói: “Vua nước Sở mất cung, người nước Sở bắt được, chứ mất đi đâu mà tìm”, các quan đã ngợi khen lắm rồi, cho vua Sở của mình là bậc nhân đức, vì họ chưa được nghe lời nào tốt lành như vậy. Nhưng Khổng Tử lại lấy làm tiếc, bảo rằng: “Sao vua nước Sở không nói: “Người này mất đi, người khác bắt được, chứ mất đi đâu mà tìm”, thì hay biết bao.” Còn hạn chế ở nước Sở, như thế là đạo ở vua Sở còn hạn hẹp.

Muốn tìm đạo chí thiện vô biên, phải tìm ở Thánh nhân. Khi người nào đó đã được rong chơi ở cửa bậc Thánh nhân, nghĩa là được nghe lời giảng dạy, được đọc sách của bậc Thánh nhân, hiền triết, thì nhận thấy tư tưởng của các học giả phổ thông là cục bộ, không xứng đáng cho mình ôm ấp, trau giồi cả đời.

Nước ở biển ắt phải sâu hơn nước ở sông, hồ. Muốn biết sự nông sâu của nước, phải quan sát các làn sóng. Nơi nào có sóng to ắt nước sâu, nơi nào chỉ có sóng lăn tăn, mặc dù gió thổi mạnh, ắt nước nông. Tương tự như vậy, đạo nhiệm mầu sâu sắc tiềm ẩn trong những dụ ngôn, ẩn ngữ khó hiểu, kín đáo phi thường. Đạo chân thực tự phát ra năng lực siêu nhiên cho dù ai muốn che lấp đi, cũng không thể nào làm mất được vẻ rực rỡ, vẫn soi đường dẫn lối cho những người thành tâm thiện chí đi tìm. Không khác gì mặt trời mặt trăng sáng tỏ, cho dù có bị mây che ít nhiều, vẫn đủ sức chiếu soi cho vạn vật.

Nước tuy là thứ lưu chuyển không dừng, nhưng nó chỉ chảy đi sau khi đã lấp đầy các hầm hố. Cũng thế, đạo tuy vô hình nhưng đạo vẫn lưu dấu rõ rệt nơi người nào có chí hướng sống theo đạo. Ở người có đạo sâu sắc, bao giờ đạo cũng biểu hiện dáng vẻ đẹp đẽ nơi diện mạo, cử chỉ, ngôn ngữ của người ấy. Người nào để chí ở đạo mà chưa hiển lộ dáng vẻ đẹp đẽ, dễ thương, dễ mến (bất thành chương), coi như là chưa đạt đạo.

25. Mạnh Tử nói: “Gà gáy thức dậy, chăm chắm làm điều thiện, đó là đồ đệ của vua Thuấn. Gà gáy thức dậy, chăm chắm kiếm điều lợi; đó là đồ đệ của đạo Chích. Muốn biết sự phân biệt giữa vua Thuấn và đạo Chích không gì khác, đó là khoảng cách giữa điều lợi và điều thiện.”

BÌNH GIẢI:

Điều thiện là những điều nhân nghĩa, tôn trọng sự bình đẳng về quyền lợi giữa mình và người, thậm chí quên mình để phục vụ người. Chăm chắm làm điều 

nhân nghĩa chính là đi trong đường lối của vua Thuấn; bởi vì vua Thuấn chỉ chú trọng tới nhân nghĩa.

Điều lợi là những việc làm vun đắp cho mối lợi của mình, chú trọng đến lợi riêng cho mình sẽ làm thiệt hại đến người khác. Làm cho người khác bị thiệt hại, nếu không trực tiếp cũng là gián tiếp lấy của người khác. Như thế là đi trong đường lối của đạo Chích. Đạo Chích là tên trộm khét tiếng vào thời cổ ở Trung Hoa mà Trang Tử có nhắc tới trong Nam Hoa Kinh. Đạo Chích gắn liền với trộm cắp, đến nỗi người đời đã định nghĩa đạo chích là trộm cắp.

Sự khác biệt giữa vua Thuấn và đạo Chích chỉ là sự khác biệt giữa hai tấm lòng vị tha và vị kỷ mà thôi. Vị tha hướng về nhân nghĩa; vị kỷ hướng về thân mình. Quên mình mà phục vụ tha nhân, thể hiện nhân nghĩa là thiện. Phục vụ thân mình, làm hại tha nhân, bất nhân bất nghĩa là ác.

26. Mạnh Tử nói: “Dương Tử chủ trương vì mình; nhổ một sợi lông mà làm lợi cho thiên hạ, không làm. Mặc Tử gồm yêu, dù mòn trán lỏng gót, mà có lợi cho thiên hạ, cũng làm.

“Tử Mạc nắm đường lối giữa (chấp trung). Nắm đường lối giữa thì gần đạo lý. Nhưng nắm đường lối giữa mà không linh động quyền biến thì cũng như nắm lấy một (chấp nhất). Cái chỗ chấp nhất đáng ghét là hại đạo lý, nâng một mà bỏ trăm.”

BÌNH GIẢI:

Vào thời Chiến Quốc, Trung Hoa đại loạn, cho nên có nhiều chủ thuyết ra đời. Ở đây, Mạnh Tử nhắc đến ba chủ thuyết: thuyết của Dương Tử (Dương Chu) và thuyết của Mặc Tử (Mặc Địch) là hai cực đoan của nhau; thuyết của Tử Mạc (người nước Lỗ) dung hoà hai thuyết trên.

Dương Tử chủ trương vì mình (vị ngã), không thiết đến việc thiên hạ. Có lẽ ông cho rằng thiên hạ sở dĩ loạn vì có quá nhiều người muốn lo cho thiên hạ; lo cho thiên hạ tức là can thiệp vào việc thiên hạ. Nay chủ trương vì mình, bất can thiệp, có lẽ đó lại là đường lối hay nhất để cho thiên hạ được yên ổn.

Trái với Dương Tử, Mặc Tử chủ trương gồm yêu (kiêm ái), nỗ lực hết sức, quên thân mình để lo việc thiên hạ. Có lẽ ông cho rằng ít người lo việc thiên hạ, cho nên thiên hạ mới loạn. Nay muốn cứu thiên hạ, mình phải nỗ lực nhiều hơn.

Tử Mạc chủ trương đứng giữa hai cực đoan ấy, nghĩa là dung hoà quyền lợi mình và quyền lợi thiên hạ. Lý thuyết này có vẻ gần với đạo lý vì biết tôn trọng cả mình lẫn người; nhưng khi thực hành thì lại khó vì không biết đâu là ranh giới của quyền lợi mình và quyền lợi thiên hạ, khiến cho người ta phải mất giờ suy nghĩ, tính toán làm thế nào vừa có lợi cho mình vừa có lợi cho thiên hạ. Có khi phải suy nghĩ, tính toán, đã bỏ lỡ mất thời cơ, làm thiệt hại cả cho mình lẫn thiên hạ.

Việc đời luôn luôn biến động, người hiểu đạo cần phải biết linh động quyền biến mới thích ứng được với dòng đời. Có lúc nên thế này, có lúùc nên thế khác; nếu chỉ khư khư chấp trung thì vừa chậm trễ vừa mắc vào bệnh chấp nhất. Đã chấp nhất thì biết một mà chẳng biết hai, biết ba; giữ được một điều mà bỏ cả trăm điều vì không biết linh động để thích ứng với tình thế mới. Bỏ trăm điều thì có hại cho đại cuộc của thiên hạ, đó là hại đạo vậy.

27. Mạnh Tử nói: “Đói thì ăn thấy ngon, khát thì uống thấy thích. Đó là chưa thấy được sự chính đáng của đồ ăn, thức uống. Sự đói khát đã làm hại vậy.

Há riêng cái miệng cái bụng bị sự đói khát làm hại sao? Lòng người cũng đều bị hại. Người nào không để cho cái hại của sự đói khát làm hại tấm lòng, dù chưa theo kịp người cũng không phải lo buồn vậy.”

BÌNH GIẢI:

Khi ta đói quá thì ăn gì cũng thấy ngon; khi ta khát quá, uống gì cũng thấy thích; mặc dù những của ăn, đồ uống đó chẳng thực sự ngon. Như vậy, trong trường hợp ấy, ta chưa nhận định được đúng đắn giá trị chính đáng của đồ ăn, thức uống. Thế là sự đói khát đã làm cho sự đánh giá bị lệch lạc đi; nói một cách khác, sự đói khát đã làm hại đồ ăn, thức uống vậy.

Sự đói khát đã làm hại đồ ăn thức uống cũng có nghĩa là sự đói khát đã làm hại cái miệng, cái bụng của mình. Chẳng những thế, sự đói khát còn làm hại cả tâm hồn con người nữa. Nhiều khi sự đói khát làm cho tâm hồn hóa ra tàn nhẫn, độc ác, làm mất lương tâm, lương tri nữa.

Người nào có thể chủ động được tấm lòng của mình, không thay lòng đổi dạ, mặc dù có bị đói khát, người đó tuy không tài giỏi, không có địa vị bằng người, cũng không đáng phải lo buồn. Người ấy nên tự hào rằng mình đã có một tâm hồn cao thượng, một nghị lực phi thường của người quân tử đích thực.

Ngoài ra, để tránh cho tâm hồn mình khỏi bị lung lay về sự đói khát, người quân tử cũng nên tùy thời tạo cho mình một điều kiện kinh tế tương đối để không phải chịu đựng sự đói khổ một cách quá đáng. Như thế, lý tưởng quân tử của mình mới bền vững được.

28. Mạnh Tử nói: “Ông Liễu Hạ Huệ không vì chức Tam công mà thay đổi giới hạnh ngay thẳng của mình.”

BÌNH GIẢI:

Ông Liễu Hạ Huệ có tên thật là Triển Cầm, người nước Lỗ. Khi làm quan cai trị, ông thường thi thố ân huệ cho dân; vì thế người đời gọi ông là Liễu Hạ Huệ (ông Huệ xứ Liễu Hạ).

Tam Công là ba chức quan lớn phụ tá cho vua: Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo. Tam Công là những vị quan có thế lực nhất trong triều đình. Ông Liễu Hạ Huệ là một vị quan thanh liêm, đạo đức; mặc dù có làm tới chức Tam Công, ông cũng không bao giờ thay đổi cách sống ngay thẳng của mình, vẫn gìn giữ hạnh kiểm của một bậc quân tử.

29. Mạnh Tử nói: “Làm việc gì, cũng ví như đào giếng. Đào giếng được chín nhận sâu, mà chưa đến mạch nước, coi như bỏ giếng vậy.”

BÌNH GIẢI:

Người ta làm bất cứ công việc gì, cũng cần phải nhẫn nại như người đào giếng. Giếng đã được đào sâu rồi, nhưng chưa đến mạch nước mà đã vội thôi, cái giếng coi như bị bỏ, phí công vô ích.

Tuy nhiên, trước khi đào giếng ở đâu, cũng cần thăm dò xem nơi đó có mạch nước nông hay sâu, nhiều nước hay ít nước. Cũng vậy, trước khi định bắt tay vào làm một việc gì, người ta cần phải liệu tính xem việc ấy có vượt trên sức mình không, mình có khả năng làm nổi không, làm trong bao lâu?

Sau khi thăm dò, liệu tính công việc ấy ở trong tầm sức của mình, mới nên tiến hành. Đã tiến hành, phải kiên nhẫn làm việc cho đến khi thành công mới thôi.

30. 

Mạnh Tử nói: “Vua Nghiêu vua Thuấn thuận Thiên tính tự nhiên mà làm; vua Thang vua Vũ đem thân ra mà làm; Ngũ Bá mượn tiếng nhân nghĩa mà làm. Mượn tiếng nhân nghĩa đã lâu mà chẳng theo, ai biết họ chẳng có nhân nghĩa?”

BÌNH GIẢI:

Vua Nghiêu, vua Thuấn thuận theo thiên tính tự nhiên vốn thiện của mình mà thi hành nhân nghĩa cho dân. Về sau, vua Thành Thang, vua Vũ Vương tuy chẳng có thiên tính vốn thiện nhưng đã nỗ lực tu thân để thi hành nhân nghĩa. Còn Ngũ Bá thời Xuân Thu chỉ mượn tiếng nhân nghĩa, điều khiển các chư hầu để mở mang bá quyền. Họ mượn tiếng nhân nghĩa thôi, chứ chẳng theo nhân nghĩa đích thực; tuy nhiên mấy ai trong dân chúng đã biết họ vốn không có nhân nghĩa.

31. 

Công Tôn Sửu nói: “Ông Y Doãn nói rằng: ‘Ta không quen ở với người chẳng thuận nghĩa lý.’ Bèn đày ông Thái Giáp ra đất Đồng. Dân chúng rất vui mừng. Ông Thái Giáp trở nên hiền đức, lại được đem về. Dân chúng cũng vui mừng. Bậc hiền làm bề tôi mà vua chẳng hiền, có thể đày đi ư?”

Mạnh Tử nói: “Nếu có cái chí của Y Doãn thì có thể. Không có cái chí của Y Doãn, đó là cướp ngôi vậy.”

BÌNH GIẢI:

Y Doãn là Tể tướng nhiếp chính của nhà Thương, sau khi vua Thành Thang băng. Thái Giáp là cháu nội của vua Thang lên nối ngôi. Vua Thái Giáp làm những điều không hợp đạo lý. Y Doãn bèn ép buộc vua Thái Giáp ra đất Đồng, nơi có mộ vua Thang, để cho vua Thái Giáp có cơ hội suy nghĩ lại và hối cải. Dân chúng rất hưởng ứng việc này. Một thời gian sau, vua Thái Giáp cải tà qui chính, Y Doãn lại rước về kinh đô làm vua chư hầu. Dân chúng cũng rất hoan nghênh việc làm ấy.

Trả lời cho thắc mắc của Công Tôn Sửu về việc đày vua, Mạnh Tử cho biết: người bề tôi hiền nào đó phải có tài đức, có ý chí ngay thẳng, mạnh mẽ như Y Doãn mới có khả năng thuyết phục các quan trong triều và dân chúng để thực hiện ý định đày vua. Nếu chẳng đủ tài đức và ý chí như Y Doãn mà thực hiện việc ấy, các quan trong triều và dân chúng sẽ qui tội cướp ngôi cho người ấy và sẽ chống lại.

32. Công Tôn Sửu nói: “Kinh Thi nói rằng: ‘Không hề ngồi không mà ăn.’ Người quân tử không cày cấy mà được ăn, tại sao vậy?”

Mạnh Tử đáp: “Người quân tử ở nước nào mà vua nước ấy dùng, thì được yên ổn, giàu có, tôn quý, vinh hoa; các học trò vâng theo người thì có hiếu, đễ, trung, tín. Không hề ngồi không mà ăn, ai lớn lao được như thế?”

BÌNH GIẢI:

Câu Kinh Thi trên được trích ở bài Phạt đàn, thiên Ngụy Phong, có ý nói rằng: có làm mới ăn. Công Tôn Sửu vin vào ý ấy thắc mắc: “Người quân tử không cày cấy mà được ăn, tại sao vậy?”

Mạnh Tử giải thích đại ý: Quân tử là người có đạo nơi mình và có khả năng dạy đạo cho những người khác. Một khi vua nước nào dùng người quân tử làm Tể tướng hay làm quân sư, thì đạo sẽ được triển khai ở nước ấy.

Đạo đã được triển khai thì đất nước được yên ổn, dân chúng được giàu có, vua được tôn vinh, các nước lân bang phải trọng nể; đồng thời, bản thân người quân tử cũng được hưởng những thành quả tốt đẹp như vậy. Ngoài ra, những con em được nghe lời giảng dạy và sống theo gương mẫu người quân tử thì cũng trở nên những người con hiếu đễ trong gia đình, những người dân trung tín trong nước.

Người quân tử không cày cấy, không lao động việc gì mà gây được công nghiệp như vậy, liệu ai có thể lớn lao bằng? Vì thế, mặc dù không làm công việc chân tay, mà người quân tử vẫn phải được ăn lộc.

33. Vương Tử Điếm hỏi rằng: “Kẻ sĩ làm việc gì?” Mạnh Tử đáp: “Đề cao chí hướng.”

Hỏi: “Thế nào là đề cao chí hướng?”

Đáp: “Nhân, nghĩa mà thôi. Giết một người vô tội, chẳng phải là nhân. Chẳng phải mình có mà lấy, chẳng phải là nghĩa. Mình ở nơi nào? Ở đức nhân vậy. Mình đi đường nào? Đi đường nghĩa vậy. Sống ở đức nhân, noi theo đường nghĩa, công việc của bậc đại nhân đã đầy đủ rồi.”

BÌNH GIẢI:

Vương Tử Điếm, con của vua Tề, đã hỏi Mạnh Tử xem: nếu không ra làm quan, kẻ sĩ làm gì.

Mạnh Tử cho biết: Kẻ sĩ chỉ đề cao chí hướng. Chí hướng của kẻ sĩ đặt ở đức nhân, đức nghĩa. Làm cho dồi dào đức nhân, tận tụy trong đức nghĩa; nói khác đi, kẻ sĩ sống trong đức nhân, đi trong đường nghĩa, tức là công việc làm hằng ngày của kẻ sĩ.

Đức nhân, đức nghĩa thể hiện phong phú trong mọi sinh hoạt của con người. Nói chung, người ta sống trong đạo đức, trong luật pháp, không làm thiệt hại đến người khác; đó là sống trong nhân nghĩa. Tuy nhiên, nêu ra một trường hợp tiêu biểu mà nói, thì không giết người vô tội là nhân, không lấy của người là nghĩa. Mặc dù không ra làm quan, không đảm đương việc trị nước, kẻ sĩ chỉ sống ở nhà, nêu gương nhân nghĩa cho người đời, người ấy cũng xứng đáng là bậc đại nhân. Thi hành nhân nghĩa trong mọi công việc nhỏ mọn cũng đã nên công nghiệp đầy đủ rồi.

34. Mạnh Tử nói: “Nếu là điều bất nghĩa, có cho cả nước Tề, Trọng Tử không nhận. Người ta đều tin như vậy. Đó là điều nghĩa của kẻ bỏ giỏ cơm, tô canh thôi. Người ta chẳng có lỗi nào lớn hơn là không có thân thích, vua tôi, trên dưới. Giữ điều nhỏ nhặt mà tin là điều to lớn, có thể như thế chăng?”

BÌNH GIẢI:

Trong chương Đằng Văn Công hạ, tiết 10, đã có nói về Trần Trọng Tử. Ông thuộc dòng dõi thế gia ở nước Tề, nhưng ông đã từ bỏ bổng lộc gia tộc, xa mẹ, lìa anh mà đến cư ngụ tại đất Ô Lăng, tự mình bện dép kiếm sống. Ai cũng khen Trọng Tử là một kẻ sĩ liêm khiết. Tuy nhiên, Mạnh Tử chỉ công nhận Trọng Tử là kẻ sĩ cự phách khác thường, chứ không phải là người thanh liêm đích thực. Việc từ bỏ bổng lộc chẳng qua chỉ là điều nghĩa nhỏ nhặt như là việc từ bỏ giỏ cơm, tô canh mà thôi.

Trọng Tử giữ điều nghĩa nhỏ nhặt nhưng lại bỏ mất những điều nghĩa lớn. Đó là xa mẹ, lìa anh (vô thân thích), chẳng dự việc nước (vô quân thần), chẳng đảm nhận trách nhiệm trong xã hội, không giao tiếp với người trên kẻ dưới (thượng hạ). Có tài năng mà sống như thế tức là giữ tiểu tiết mà bỏ đại tiết, không hoàn thành bổn phận với gia đình, xã hội. (Xin xem lại Tiết 10, Đằng Văn Công hạ).

35. Đào Ứng hỏi rằng: “Vua Thuấn làm Thiên tử, ông Cao Dao phụ trách hình án, ông Cổ Tẩu giết người, thì phải làm sao?”

Mạnh Tử đáp: “Cứ giữ pháp luật mà thôi.” “Vậy, vua Thuấn không cấm cản ư?”

Đáp: “Này, vua Thuấn sao cấm cản được? Này, có luật pháp thế nào phải chấp nhận như vậy.”

“Vậy, vua Thuấn phải làm sao?”

Đáp: “Vua Thuấn coi việc bỏ thiên hạ như bỏ giày cỏ nát vậy. Lén lút cõng cha mà chạy trốn, lần đến mé biển mà ở; suốt đời vui vẻ an nhiên mà quên thiên hạ.”

BÌNH GIẢI:

Đào Ứng là môn đệ của Mạnh Tử. Ông đưa ra một trường hợp giả tưởng có liên hệ tới vấn đề đạo đức học để xem Mạnh Tử giải quyết thế nào.

Đó là trường hợp vua Thuấn làm Thiên tử, cai trị cả thiên hạ; lúc ấy ông Cao Dao làm quan phụ trách việc hình án (Hình Bộ Thượng thư). Giả sử ông Cổ Tẩu, cha của vua Thuấn, phạm tội giết người; vua Thuấn phải làm sao?

Chiếu theo luật pháp thời bấy giờ, giết người thì bị xử tử hình. Mạnh Tử cho rằng đã có luật pháp, phải chiếu theo luật mà thi hành, vua Thuấn không được quyền cản trở ông Cao Dao thi hành luật pháp. Nếu lấy quyền vua mà bỏ luật thì không thể nhân danh luật mà cai trị thiên hạ được.

Tuy nhiên, chẳng lẽ vua Thuấn làm ngơ, để cho cha mình bị giết mà không cứu, như thế chẳng mang tội bất hiếu sao?

Vì thế, Mạnh Tử đã đưa ra một giải pháp đặc biệt mà các nhà đạo đức học ngày nay gọi là “sáng tạo giải pháp”, luồn lách giữa luật pháp và đạo hiếu, đáp ứng vẹn toàn cả đôi đường: vừa không vi phạm luật pháp, vừa giữ trọn đạo hiếu. Đó là vua Thuấn từ bỏ ngai vàng, lén lút cõng cha chạy trốn ra mé biển xa xôi; ở đó vui vẻ phụng dưỡng cha mình suốt đời. Không cản trở ông Cao Dao thi hành luật pháp tức là không phạm luật; cõng cha chạy trốn là giữ tròn đạo hiếu; coi nhẹ quyền bính, danh lợi là giữ tâm thanh khiết của thánh nhân.

36. Mạnh Tử từ đất Phạm vào nước Tề, trông xa thấy con vua nước Tề. Tự nhiên bùi ngùi than rằng: “Địa vị hoàn cảnh thay đổi khí chất, dinh dưỡng thay đổi thân thể. Địa vị ảnh hưởng lớn lao thay! Này, ông ta chẳng phải trọn vẹn là con của người ta ư?”

Mạnh Tử nói: “Nhà cửa vương tử, xe ngựa, y phục tất cả cùng giống như người; thế mà vương tử được như thế, ấy là địa vị hoàn cảnh của ông đã khiến ra như vậy. Huống hồ con người ở chốn rộng lớn thênh thang trong thiên hạ!

“Vua Lỗ đến nước Tống, hô lên ở cửa Điệt Trạch. Người giữ cửa nói: ‘Ông ấy chẳng phải vua ta. Sao tiếng của ông ấy lại giống như vua ta vậy?’ Điều đó chẳng có gì khác, địa vị hoàn cảnh cùng giống như nhau thôi.”

BÌNH GIẢI:

Từ xa trông thấy cử chỉ, diện mạo của vương tử nước Tề, Mạnh Tử có được một nhận thức rõ ràng về con người.

Vương tử cũng là một con người trọn vẹn như mọi người, cũng sống trong nhà cửa, sử dụng xe ngựa, ăn mặc như mọi người; nhưng ông ta có dáng vẻ uy nghi, đường bệ, tự tin, tự hào… hơn những người khác. Sự khác biệt đó nằm ở khí chất và thân thể ông ta. Khí chất là phần tinh thần phát hiện trên thân xác. Cái gì đã làm cho khí chất và thân thể của Vương tử khác người dân thường như vậy?

Mạnh Tử cho rằng đó là do địa vị hoàn cảnh và cách thức dinh dưỡng. Địa vị hoàn cảnh cao sang đã tạo nên khí chất có dáng vẻ cao sang. Cách thức dinh dưỡng đầy đủ sẽ khiến cho thân thể béo tốt, đẹp đẽ, mỡ màng. Địa vị hoàn cảnh còn tạo nên mặc cảm tự tôn hay mặc cảm tự ti. Địa vị hoàn cảnh giàu sang tạo nên mặc cảm tự tôn; địa vị hoàn cảnh nghèo hèn tạo nên mặc cảm tự ti. Mặc cảm tự tôn phát sinh dáng vẻ uy nghi, đường bệ, tự tin, tự hào… Mặc cảm tự ti phát sinh thái độ dè dặt, kín đáo, yếu đuối, tự hạ…

Địa vị hoàn cảnh còn tạo nên ngôn ngữ một con người. Những người giàu có, sang trọng thường có ngôn ngữ mạnh bạo hơn những kẻ nghèo khó. Những người có cùng địa vị hoàn cảnh dễ có cách nói năng, cách phát âm giống nhau. Chẳng vậy mà người gác cửa Điệt Trạch ở nước Tống đã nghe thấy giọng nói, tiếng hô của vua Lỗ tương tự như giọng nói, tiếng hô của vua Tống.

Những người có nếp sống phổ thông thế tục đã có khí chất và thân thể khác nhau như thế, huống chi đối với những người “ở chốn rộng lớn thênh thang trong thiên hạ” (thiên hạ chi quảng cư giả) thì khí chất và thân thể của họ phải khác thường như thế nào?

Chốn rộng lớn thênh thang” (quảng cư) mà Mạnh Tử nói đến ở đây chính là địa vị nhân đức của bậc thánh hiền. Bậc thánh hiền ở địa vị nhân đức, có đạo nơi mình, cho nên ở trên địa vị phàm nhân, được tham dự vào nguồn sống bao la của vũ trụ, không lệ thuộc vào không gian thời gian, không lệ thuộc cả vào sự sống chết. Người ấy đồng thể với các bậc thánh hiền trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên người ấy có khí chất trong sáng, có dáng mạo an nhiên phi phàm, khiến cho người ấy khi hiện diện ở đâu, ở đấy như được tỏa sáng, thanh cao. Khí chất của người ấy có khả năng giải trừ được nỗi ưu tư, phiền muộn, có khả năng cải thiện mọi người. Đó là nơi ở, là chỗ đứng đích đáng của người quân tử vậy.

37. Mạnh Tử nói: “Cho ăn mà không yêu mến, ấy là cho heo ăn. Yêu mến mà chẳng kính trọng, ấy là nuôi thú vật. Cung kính đã, chưa cần trao tặng vật. Cung kính mà không có thực chất, không thể cầm giữ người quân tử một cách trống không được.”

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn này, Mạnh Tử nói về cách cầm giữ người quân tử để người ấy giúp việc cai trị. Không phải chỉ cung cấp lương thực, trao ban tặng vật quý giá hay biểu lộ nghi thức xã giao lịch sự giả dối mà có thể cầm giữ được người quân tử.

Bởi vì cho người quân tử ăn mà không bày tỏ lòng yêu mến, chẳng khác gì cho heo ăn. Yêu mến mà không kính trọng, chẳng khác gì nuôi thú vật. Cần phải bày tỏ sự cung kính trước đã, rồi mới trao tặng phẩm vật sau. Phải cung kính một cách thực lòng, nghĩa là thành khẩn cảm nhận được tài năng và tín phục đức hạnh cao quý của người quân tử. Nếu chỉ dùng cung cách lịch sự giả dối bề ngoài, một ông vua đầy quyền uy cũng không thể khiến người quân tử hết lòng phụng sự mình. Ông vua có thể dùng vũ lực cầm chân người quân tử nhưng không thể cướp được tấm lòng của người ấy.

38. Mạnh Tử nói: “Hình thể khí sắc là bản tính thiên nhiên. Chỉ riêng bậc Thánh nhân về sau mới có thể thực hiện đầy đủ trọn vẹn hình thể khí sắc của mình.”

BÌNH GIẢI:

Hình thể khí sắc của một con người là do Trời tạo thành qua trung gian cha mẹ; vì thế gọi là thiên tính. Đó là bản tính tự nhiên vốn có. Theo dòng thời gian, hình sắc được chia thành hai phần là tiên thiên và hậu thiên. Hình sắc tiên thiên do khí huyết của cha mẹ. Hình sắc hậu thiên có thể thay đổi được do công phu tu dưỡng. Con người yếu đuối hay khỏe mạnh, khôn ngoan thông sáng hay khờ dại tối tăm, thiện hay ác đều lệ thuộc vào công phu học tập tu dưỡng rất nhiều. Nhờ khéo tu dưỡng, con người có thể trở nên bậc Thánh nhân. Thánh nhân là con người đã tiến hóa tới mức lý tưởng, với hình thể khí sắc đầy đủ trọn vẹn.

Mạnh Tử cho rằng chỉ riêng bậc Thánh nhân, sau quá trình tu dưỡng công phu mới có thể thực hiện đầy đủ trọn vẹn hình thể khí sắc của mình. Mạnh Tử không miêu tả rõ hình thể khí sắc bậc Thánh nhân, nhưng Tử Tư đã nói kỹ lưỡng như sau: “Thành tắc hình; hình tắc trứ; trứ tắc minh; minh tắc động; động tắc biến; biến tắc hóa. Duy thiên hạ chí thành vi năng hóa. (Chân thành sẽ hiện ra hình sắc, hiện ra hình sắc sẽ tỏ lộ rõ rệt; tỏ lộ rõ rệt sẽ sáng tỏ; sáng tỏ sẽ trở thành động tác; trở thành động tác sẽ thay đổi; thay đổi sẽ hóa nên trọn hảo. Chỉ có bậc chân thành hết mức trong thiên hạ mới hóa nên trọn hảo.) (Trung Dung, chương 23).

Trong đạo thống Nho giáo, người tu dưỡng để trở nên chân thành theo gương mẫu của Trời thì thành Thánh nhân. Ảnh hưởng của Thánh nhân rất lớn lao. Tử Tư đã miêu tả như sau: “Duy thiên hạ chí thánh, vi năng thông, minh, duệ, trí, túc dĩ hữu lâm dã; khoan, dũ, ôn, nhu, túc dĩ hữu dung dã; phát, cường, cương, nghị, túc dĩ hữu chấp dã; trai trang, trung chính, túc dĩ hữu kính dã; văn, lý, mật, sát, túc dĩ hữu biệt dã. Phổ bác, uyên tuyền, nhi thời xuất chi. Phổ bác như thiên, uyên tuyền như uyên; hiện nhi dân mạc bất kính; ngôn nhi dân mạc bất tín; hành nhi dân mạc bất duyệt.

(Chỉ riêng bậc chí thánh trong thiên hạ mới có khả năng thông suốt, sáng tỏ, hiểu sâu, khôn ngoan đủ để có sự soi xét đối nhìn; có khả năng khoan nhân, rộng lượng, ôn hoà, dịu dàng đủ để bao dung; có khả năng khởi phát, mạnh mẽ, cứng rắn, quả quyết đủ để nắm giữ; có khả năng thanh khiết, trang nghiêm, ngay thẳng, chính đáng đủ để tôn kính; có khả năng văn vẻ, lý sự, kỹ lưỡng, minh bạch đủ để phân biệt. Rộng khắp, sâu thẳm, gặp thời thì triển khai ra. Rộng khắp thì như trời; sâu thẳm thì như vực; xuất hiện thì dân nào chẳng kính; nói năng thì dân nào chẳng tin; hành động thì dân nào chẳng vui lòng.) (Trung Dung, chương 31).

Bất cứ một phàm nhân nào có công tu dưỡng đều có thể trở thành Thánh nhân, thực hiện đầy đủ trọn vẹn hình sắc tốt đẹp như vậy.

39. Tề Tuyên Vương muốn thu ngắn việc tang. Công Tôn Sửu nói: “Thực hiện việc tang một năm cũng còn hơn là thôi chăng?”

Mạnh Tử nói: “Việc đó cũng như người nào đó vặn tay anh của ngươi, ngươi bảo: ‘Hãy vặn chầm chậm chứ!’ Vậy hãy dạy dỗ về đường hiếu đễ mà thôi.”

Một vương tử có mẹ chết, nhờ thầy dạy xin vua để tang vài tháng. Công Tôn Sửu nói: “Đối với việc ấy, thì như thế nào?”

Đáp: “Ông ấy muốn kết thúc tang đầy đủ, nhưng không được. Tuy được thêm một ngày, còn hơn thôi. Rằng chẳng ai ngăn cản mà chẳng thực hiện.”

BÌNH GIẢI:

Lệ để tang của con cái dành cho cha mẹ được Chu Công ấn định trong Chu lễ là ba năm. Ba năm là thời gian mà con cái tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ sinh dưỡng bế bồng, trước khi có thể tự mình đi đứng, tự mình xúc cơm ăn được. Vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc, đạo lý suy đồi, có nhiều người muốn rút ngắn lệ để tang ấy, trong đó có Tề Tuyên Vương.

Trước quan điểm này, Công Tôn Sửu hỏi ý Mạnh Tử, cho rằng dù sao để tang một năm cũng còn hơn là bỏ hẳn. Ý kiến của Công Tôn Sửu đã lộ rõ lập trường của ông muốn nhượng bộ.

Mạnh Tử phản đối bằng cách đưa ra ví dụ: giả như có người nào đó vặn tay anh mình, mình lại bảo hắn vặn từ từ thôi thì được. Lời ấy có chấp nhận nổi không? Sao không tìm cách ngăn cản người ấy đừng vặn tay anh? Vì vậy, cứ nên dạy dỗ người ta cố giữ nết hiếu, nết đễ thì tốt hơn.

Công Tôn Sửu lại nêu một trường hợp khác: có một vương tử của vua Tề, mất mẹ, nhờ thầy dạy xin vua được để tang mẹ trong vài tháng. Thầy nghĩ thế nào?

Mạnh Tử cải chính: Vị vương tử ấy muốn để tang mẹ ba năm, kết thúc như mọi người, nhưng vua Tề không cho. Thôi thì, cố xin để tang thêm một ngày, vẫn còn hơn là thôi sớm. Mạnh Tử than phiền thêm rằng: Chẳng ai ngăn cản vua để tang cả, thế mà vua chẳng chịu để tang trọn vẹn!

Vua chẳng nêu gương hiếu thảo với cha mẹ, sao mong các vương tử hiếu thảo với mình? Vua chẳng nêu gương hiếu thảo cho dân bắt chước, sao dân giữ được đạo hiếu?

Con cái không có hiếu với cha mẹ, em không có đễ với anh, xã hội ắt phải loạn. Hiếu đễ đã không được tôn trọng, việc trị an đất nước cũng hỏng hết!

40. Mạnh Tử nói: “Chỗ thực hành giáo dục của người quân tử có năm: có cách cải hóa như mưa mùa; có cách thành tựu đạo đức; có cách làm cho phát triển tài năng; có cách hỏi và trả lời; có cách khiến cho tự mình sửa trị yên lành.

“Năm cách đó là chỗ thực hành giáo dục của người quân tử.”

BÌNH GIẢI:

Theo Mạnh Tử, đường lối giáo dục của người quân tử có năm chỗ thực hành:

Cải hóa như mưa mùa:

Mỗi năm, khi trời đổ mưa đúng thời vụ, cây cỏ phát triển rầm rộ, rồi trổ hoa, kết trái, tạo nên một cảnh tượng thiên nhiên dồi dào sức sống. Tương tự như vậy, có khi những lời giảng dạy của người quân tử trao cho người ta, tạo nên sức sống phong phú, tươi đẹp, đổi mới hẳn cả cuộc đời một con người.

Thành tựu đạo đức:

Có những người khi chưa được giáo dục thì sống bê tha, trụy lạc, độc ác. Đến lúc được nghe giảng và nhìn thấy phong cách cao thượng của người quân tử thì tự nhiên họ giác ngộ, nhận ra sai trái của mình và dần dần cải thiện, trở nên người đức hạnh, đầy nhiệt thành, thiện chí đáng khen.

Làm cho phát triển tài năng:

Có những người khi chưa được giáo dục thì tài năng chưa mở mang như một khúc gỗ thô sơ, vô dụng. Đến lúc được nghe giảng, bỗng nhiên trong thâm tâm họ nảy nở những năng khiếu đặc biệt, khiến họ trở nên người có tài năng sáng tạo mưu ích cho nhà, cho nước, giống như khúc gỗ thô sơ, được xẻ, bào, tô, chuốt, trở nên những chiếc bàn, ghế, giường, tủ nổi vân đẹp đẽ.

Hỏi và trả lời:

Có khi người quân tử không dùng một giáo trình đặc biệt nào, mà chỉ gợi ra những câu hỏi cho người ta trả lời; đồng thời trả lời thấu đáo những câu thắc mắc của người ta. Từ đó, người ta được khai thông trí tuệ, bao nhiêu sinh khí, năng lực bị bế tắc lâu nay có cơ hội phấn phát.

Khiến cho tự sửa trị yên lành:

Có những trường hợp, người quân tử không trực tiếp giảng dạy nhưng qua vài câu nói ngắn gọn, một quyển sách để lại cho đời, thế mà có khả năng khiến cho người ta tự mình tỉnh ngộ, rồi tự mình rèn tập nhân cách, sửa trị tính khí, tâm hồn, dần dần được giác ngộ, trở nên an nhiên, thư thái và vui sống.

Dĩ nhiên, người quân tử không phải cố tình chọn một phương thế giáo dục nào; bởi vì cố tình chọn lựa vẫn mang tính cách gượng ép, có khi sai sót. Nhưng một khi người quân tử đã thực hiện chân lý đạo đức nơi mình, đã thành tựu năng lực vô biên của đạo cả thì đạo cả tự động phát huy qua người quân tử. Do đó, người quân tử có thể thích ứng tùy từng trường hợp; hay ngôn ngữ, cử chỉ và dáng mạo của người quân tử tự nhiên phát huy diệu dụng để có thể giáo dục người ta qua những cách thế nêu trên.

41. Công Tôn Sửu nói: “Đạo thì cao cả thay, làm cho tốt đẹp thay. Nên giống như lên cõi trời; dường như không theo kịp được. Sao không làm cho đạo có thể theo kịp, mà mỗi ngày chăm chắm theo?”

Mạnh Tử nói: “Người thợ mộc giỏi không vì thợ vụng mà thay đổi dây mực. Ông Nghệ không vì kẻ bắn dở mà biến đổi phép giương cung. Người quân tử dẫn dắt mà không khởi động, như nhảy qua vậy. Đứng vững trong đạo trung dung, người nào có khả năng thì theo.”

BÌNH GIẢI:

Một lần kia, Công Tôn Sửu bày tỏ với Mạnh Tử đại ý: Đạo thì cao cả, có thể làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhưng lý tưởng quá. Người ta có cảm tưởng theo đạo là đi lên cõi trời, người thường không thể theo được. Cớ sao thầy 

không hạ thấp đạo xuống vừa tầm mức phổ thông để mọi người đều có thể chuyên tâm giữ đạo hằng ngày được?

Mạnh Tử nêu ví dụ: tương tự như người thợ mộc giỏi, dùng dây mực bật lên gỗ để căn cứ vào đó mà cưa cho thẳng hoặc đẽo cho vừa; người ấy không thể chiều theo thợ vụng mà bỏ dây mực đi. Bỏ dây mực đi thì còn có tiêu chuẩn nào nữa mà đẽo mà cưa cho chính xác. Cũng tương tự như ông Nghệ ngày xưa là người bắn cung tài tình. Ông không thể vì kẻ bắn dở mà thay đổi thế đứng, cách cầm cung và cách giương cung. Bỏ kỹ thuật giương cung nghiêm túc, làm sao có thể bắn trúng đích được. Đạo thì cao cả, nhiệm mầu, chi phối mọi người, mọi vật. Nếu mọi người biết giữ đạo thì mọi sự sẽ diễn tiến tốt đẹp; nếu bỏ đạo, mọi sự sẽ trắc trở, bế tắc, rối loạn. Người quân tử chỉ có thể nói lý thuyết về đạo, chứ không thể đưa ra từng trường hợp riêng lẻ, cá biệt để áp dụng đạo. Phần áp dụng đạo vào sinh hoạt hằng ngày trong gia đình, vào sinh hoạt chính trị trong quốc gia được dành cho người đã thấm nhuần đạo; người thầy dạy không thể nhất nhất khởi động làm mẫu từng trường hợp một. Người thầy dạy chỉ có thể nói đến kết quả của việc áp dụng đạo như người nhảy vượt qua quãng đường thực hành, rồi chỉ rõ cứu cánh chung cuộc.

Người quân tử hằng ngày hành đạo và giờ đây đứng vững trong đạo trung dung để giảng dạy cho mọi người. Còn việc hành đạo của mỗi môn đệ thì người ấy phải tự mình dấn bước. Đạo trung dung là đạo cao cả bao gồm nhân đạo, thánh đạo thiên đạo. Nhân đạo là phần hình nhi hạ trong cõi nhân sinh, nói về tương quan tốt đẹp giữa mọi người với nhau. Thánh đạo thiên đạo là phần hình nhi thượng dẫn dắt những người thành tâm thiện chí tiến hóa nên thánh hiền, phù hợp với đạo Trời huyền diệu. Tùy theo từng hoàn cảnh mà người quân tử nói về đạo ở trình độ cao hoặc thấp; còn người nào có khả năng theo được đến đâu thì tùy theo căn cơ và nỗ lực, thiện chí của người ấy.

42. Mạnh Tử nói: “Thiên hạ có đạo, thì đem đạo theo mình cho đến khi chết. Thiên hạ không có đạo, thì đem thân theo đạo cho đến khi chết. Chưa từng nghe rằng đem đạo liều chết cho một người nào.”

BÌNH GIẢI:

Thiên hạ có đạo chỉ cho thời buổi thái bình, mọi người trong nước sống theo đạo lý nhân nghĩa tương đối ổn định. Bấy giờ, người quân tử nên đem đạo lý phát huy rộng rãi, bằng cách tham gia vào sinh hoạt chính trị, xã hội để cải thiện, thăng tiến đất nước thêm nữa, tận tụy như vậy cho đến lúc lìa đời.

Thiên hạ không có đạo chỉ cho thời buổi loạn lạc, đạo lý suy đồi, mọi người đua nhau tranh danh đoạt lợi, dối trá, lường gạt, khiến cho xã hội đầy dẫy bất công. Bấy giờ, người quân tử đem thân theo đạo mà ẩn dật, giữ đạo lý một mình cho đến khi lìa đời; không nhúng tay vào những chuyện thị phi thế gian để cầu lợi.

Mạnh Tử chưa từng nghe thấy các bậc thánh hiền đời xưa dạy người ta đem đạo lý liều chết để phục vụ cho tham vọng của một ông vua, ông quan nào.

43. Công Đô Tử nói: “Đằng Canh là đệ tử tại cửa thầy, dường như thầy cư xử theo lễ mà không đáp lời, tại sao vậy?”

Mạnh Tử nói: “Cậy mình sang trọng mà hỏi, cậy mình tài đức mà hỏi, cậy mình lớn tuổi mà hỏi, cậy mình có công lao mà hỏi, cậy mình quen cũ mà hỏi, đều là những trường hợp ta không trả lời. Đằng Canh có hai điều cậy mình.”

BÌNH GIẢI:

Đằng Canh, em vua nước Đằng, đến xin học với Mạnh Tử. Mạnh Tử đáp lễ nhưng không trả lời bất cứ câu hỏi nào của ông. Môn đệ của Mạnh Tử là Công Đô Tử hỏi thầy xem lý do tại sao.

Mạnh Tử cho biết: đối với những kẻ cậy mình, ông không trả lời cho ai hết.

Một khi chấp nhận làm đệ tử để cầu học, điều kiện tiên quyết là phải khiêm hạ. Nếu người nào tự cậy mình về điều gì đó, thì chính điều ấy làm cản trở việc tiếp thu câu trả lời; vì thế, người thầy không muốn trả lời, kẻo uổng phí tâm cơ của mình. Đằng Canh có hai điều cậy mình, có lẽ đó là cậy mình sang trọng (em vua) và cậy mình tài đức.

44. Mạnh Tử nói: “Đối với điều không thể thôi, mà thôi, chẳng có gì mà không thôi. Đối với chỗ đáng cư xử dày dặn mà lại tệ bạc, chẳng chỗ nào mà không tệ bạc. Người nào tiến lên lanh lẹ, người ấy sẽ rút lui chóng vánh.”

BÌNH GIẢI:

Trong đoạn này, Mạnh Tử nêu ra ba loại người để cho các đệ tử rút kinh nghiệm khi ứng xử:

Người nào đó, khi làm một việc gì, việc ấy không đáng thôi mà ngừng lại, bỏ dở; người ấy chẳng có khả năng làm nên việc gì hết, vì thiếu ý chí và kiên nhẫn. Đừng bao giờ trao việc cho người ấy, hay nhờ cậy người ấy.

Có người, lẽ ra phải cư xử dày dặn, phải hậu đãi đối với người đã làm ơn cho mình, tức là đáp trả xứng đáng cho công sức người ấy; thế mà lại cư xử tệ bạc. Đó là kẻ luôn luôn tệ bạc, bất nhân bất nghĩa; không thể tin dùng được.

Người nào tiến lên lanh lẹ, người ấy sẽ rút lui chóng vánh, vì sự tiến lên nhanh chóng quá, không kịp đặt cơ sở vững chắc để có thể bảo tồn thành quả.

Ngoài ra, việc gì thành công nhanh, việc ấy dễ thất bại nhanh vì thiếu nền móng chắc chắn. Tương tự như vậy, của cải đến nhanh chóng, của cải ấy dễ hao tán, vì nó đã không được tạo nên bởi thành quả việc làm chính đáng.

Đó là ba loại người hay ba trường hợp thường gặp trong đời. Những người sinh hoạt trong xã hội dù ở địa vị nào cũng cần phải biết để khỏi vướng mắc vào.

45. Mạnh Tử nói: “Đối với loài vật, người quân tử yêu mến mà không cư xử nhân đạo. Đối với người đời, thì cư xử nhân đạo mà không thân mật. Thân mật với cha mẹ, bà con mình mà cư xử nhân đạo với người đời; cư xử nhân đạo với người đời mà yêu mến loài vật.”

BÌNH GIẢI:

Trong phép cư xử, Mạnh Tử phân biệt ra ba cấp độ: người thân, người đời và loài vật.

Đối với loài vật, người quân tử chỉ yêu mến nhưng không đem lòng nhân ra đối đãi; bởi vì loài vật dù đáng yêu đến mấy cũng không phải là con người, không thể sánh ngang với con người. Coi loài vật như người, đem đạo lý của người ra cư xử với loài vật là sai.

Đối với người đời, tức là những người không có liên hệ huyết thống, không có công sinh dưỡng, người quân tử đem lòng nhân ra cư xử; đó là dùng đạo lý nhân nghĩa mà giao thiệp; bởi vì người đời là người ngang hàng với mình, có phẩm giá như mình.

Đối với người thân bao gồm cha mẹ, vợ con, anh em, chú bác, cô dì, cậu mợ… là những người có liên hệ huyết thống nhiều hay ít, có công sinh dưỡng, bảo bọc, phù trì… người quân tử phải thân mật, tức là dành thời giờ phụng dưỡng, săn sóc, giúp đỡ, thăm hỏi, v.v.

Đạo Nho chủ trương cư xử hợp lý, hợp tình từ gần ra xa, không lẫn lộn người gần và người xa, loài người với loài vật. Tình cảm đem thi thố ra cũng tùy theo cấp độ mà biểu hiện cho tương xứng.

Ngày nay, có những người bỏ bê cha mẹ, vợ con không săn sóc mà thân mật với người xa là không hợp lẽ. Lại có những người lãnh đạm với con người mà thân mật, quý chuộng loài vật; đó cũng là điều trái đạo lý nữa.

46. Mạnh Tử nói: “Người trí không phải không biết, nhắm lấy việc cần kíp thôi. Người nhân không phải không yêu, cần kíp nhắm vào việc đối với người thân, người tài đức thôi. Vua Nghiêu, vua Thuấn thông hiểu nhưng không biết khắp cả mọi vật được, trước hết nhắm vào việc cần kíp đã. Vua Nghiêu, vua Thuấn nhân đức nhưng không yêu khắp cả mọi người được; cần kíp nhắm vào người thân, người tài đức đã.

“Không chịu để tang ba năm, mà đi tìm hiểu về phép tang ba tháng, phép tang năm tháng; háu ăn tục uống mà lại hỏi về chuyện không có răng để cắn; đó gọi là không biết việc.”

BÌNH GIẢI:

Người thật sự hiểu biết, phải biết phân biệt việc trước, việc sau, việc nào cần gấp phải làm ngay, việc nào để thong thả. Người nhân tuy có tình yêu thương bao la khắp cả, nhưng chỉ có thể hiện thực tình yêu từ gần ra xa, cần kíp phải tương trợ những người thân, người tài đức trước đã. Đến như vua Nghiêu, vua Thuấn có tiếng là những bậc thánh hiền thông hiểu và nhân đức mà cũng không thể bao biện tất cả mọi việc, mọi người được. Các ngài cũng phải ưu tiên làm việc cần và giúp đỡ những người thân, người tài đức.

Tuy nhiên, trong đời không thiếu gì người, việc chính không làm, đi lo việc phụ; việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng; chẳng qua cũng là để khoe khoang sự thông thái, trình diễn lòng nhân đức mà thôi; chứ thực chất cũng chẳng chuyên chú làm nên được việc gì!

Buồn cười thay cho kẻ tham ăn tục uống, ăn không kịp nhai; hễ có đồ ăn thì vơ vào miệng, húp lấy húp để như tháo cống mà lại hỏi về chuyện không có răng để cắn, để nhai! Có nhai đâu mà cần răng? Hỏi chỉ cốt đánh lạc hướng thôi chăng?

❁ ❁ ❁
TỨ THƯ BÌNH GIẢI
Luận Ngữ – Mạnh Tử – Đại Học – Trung Dung
LÝ MINH TUẤN dịch và bình giải

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x