Trang chủ » Tìm hiểu về Nho Giáo

Tìm hiểu về Nho Giáo

by Hậu Học Văn
1673 views

1. Khái niệm

– NHO: theo Hán tự, do chữ Nhân và chữ Nhu ghép lại. Nhân là người, Nhu là cần dùng.

Nho là hạng người luôn luôn được cần dùng đến để giúp ích cho nhân quần xã hội biết cách ăn ở sao cho hợp với lòng người và lẽ Trời. Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi, tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời.

Như vậy, Nho là những hạng người học thông đạo lý của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp với lòng người. Sách Pháp Ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”. Nghĩa là: Người biết rõ cả Thiên văn, Địa lý,  thì  mới gọi là Nho. Phàm những người Nho học thì chuyên về mặt áp dụng thực tế, chớ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ  Phật giáo hay Lão giáo, chỉ biết xuất thế, lo tu độc thiện kỳ thân.

– GIÁO: Dạy, tôn giáo, một mối đạo.

– NHO GIÁO là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội. Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là  phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :

– Về Tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và Người tương quan với nhau.

– Về Thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.

– Về Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.

Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn giáo rất cao minh của nhân loại, đã phát huy ra từ xưa tới nay. Tuy rằng người ta đem ra thi hành không được hoàn toàn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc cái tinh thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quí trọng đặc biệt.

2. Nguồn gốc của Nho giáo

Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ của Trung Quốc. Thuở đó, vua Phục Hy, là một Thánh Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh. Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết được lẽ Âm Dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái, cắt nghĩa sự biến hóa của Trời Đất để làm nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối của văn tự  về sau này.

Vua Phục Hy lại còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm lấy tơ làm quần áo, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng (dùng một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó  mới có danh từ gia tộc. Sau, đến đời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế),  mới chế ra áo mão, và sai Ông Thương Hiệt chế ra chữ viết.

Đó là khởi thủy của Nho giáo, thành hình do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất. Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời thì phải chết. Nho giáo đã giúp Trung Quốc thời Thượng cổ được hòa bình, dân chúng trên thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc. Tiếp theo đến đời nhà Châu, vua Văn Vương và con của Ngài là Châu Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho giáo, diễn giải Kinh Dịch do Phục Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự.

Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, có Đức Khổng Tử  ra đời. Đức Khổng Tử chỉnh đốn và san định  kinh sách, phục hưng Nho giáo, tạo thành một giáo thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng đáng đứng ngang hàng với Lão giáo và Phật giáo. Đức Khổng Tử được xem là Giáo Chủ Nho giáo.

Đạo Nho, kể từ khi Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau được các vị Thánh nhân như Tử Tư, Mạnh Tử, phát huy đến độ rực rỡ, rồi sau đó dần dần suy tàn theo thời gian, vì không có bậc tài giỏi nối tiếp xiển dương, cuối cùng trở thành một môn học từ chương dành cho sĩ tử leo lên đường hoạn lộ. Cái tinh túy của Nho giáo đã bị vùi lấp và Nho giáo được sử dụng một cách lệch lạc theo ý riêng của kẻ phàm trần.

3. Tôn chỉ của Nho giáo

Tôn chỉ của Nho giáo gồm:

– Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể.

– Trung Dung.

3.1. Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể

Theo quan niệm của Nho giáo thì Con người sinh ra đã bẩm thụ cái Lý và cái Khí của Trời Đất, tức là cùng với Trời Đất có thể tương liên tương cảm và tương ứng nhau được. Sự tương  cảm ấy lúc nào cũng có, nhưng khi ta để cho lòng tư dục dấy lên mạnh mẽ, chỉ biết tính toán để làm lợi riêng cho mình thì cái tinh thần bị rối loạn đi, cái trực giác trở nên ám muội, nên cái cảm ứng ta không biết được.

Nhưng nếu ta biết đè nén lòng tư dục, giữ cho lúc nào cũng có thái độ điều hòa, thì  trực giác trở nên mẫn huệ, biết được các điều sâu xa bí ẩn, tức là tương  cảm được với Trời. Trời sinh ra con người và vạn vật, nên Trời có gì thì con người có nấy, nên gọi Trời là Đại Thiên Địa, và con người là Tiểu Thiên Địa. Trời và người đồng thể nên tương liên tương cảm với nhau là điều dĩ nhiên.

3.2. Trung Dung

Trung là không lệch về phía nào, Dung là không thay đổi. Trung  là đường chính trong thiên hạ, Dung là nhất định trong thiên hạ. Vậy, Trung Dung là không lệch về phía nào,  luôn luôn giữ thái độ dung hòa, không thái quá, cũng không bật cập, trong quan hệ đối với người hay xử lý các việc.

Vũ trụ và vạn vật luôn luôn biến hóa theo lẽ điều hòa và tương  đối, lưu hành mãi mãi không lúc nào ngừng nghỉ. Thiên đạo đã không cố định thì việc đời có gì là cố định? Vậy ta cứ tùy thời mà hành động, miễn sao giữ được sự điều hòa và trung chính. Làm việc gì cũng phải lấy Trung Dung làm căn bản, tức là không thái quá, cũng không bất cập, luôn luôn thích hợp với Đạo Trung hòa của Trời Đất.

Đức Khổng Tử đem cái tôn chỉ ấy lập thành một Nhân sinh triết học, tức là một nền luân lý rất hòa nhã, êm ái, làm cho người ta sống thư thái vui vẻ, không buồn bã lo sợ. Những điều: Hiếu, Nghĩa, Trung, Tín, cũng đều do đó mà ra cả.

4. Học thuyết của Nho giáo

Học thuyết của Nho giáo tóm gọn trong 3 điều sau đây:

– Sự biến hóa của vũ trụ quan hệ đến vận mạng của nhân loại.

– Luân thường đạo lý trong đời sống xã hội.

– Lễ Nhạc trong việc tế Trời Đất, Quỉ Thần và Tổ Tiên.

Đó là những điều căn bản xác định Nhân sinh quan và Vũ trụ quan  của một nền tôn giáo. Do đó, ta có thể nói rằng, trước thời Đức Khổng Tử, chỉ là Nho học, nhưng sau thời Đức Khổng Tử, Nho học được Ngài hoàn chỉnh, trở thành một tôn giáo hẳn hoi, gọi là Nho giáo, giống như Phật giáo, Lão giáo, hay Thiên Chúa Giáo.

Đứng về phương diện tôn giáo, học thuyết của Nho giáo được chia làm 2 phần rõ rệt:

– Hạ học.

– Thượng học.

4.1. Hạ học

Hạ học là cái học thuộc về Hạ thừa, làm căn bản cho Thượng thừa, là cái học cụ thể về những điều quan hệ đến cuộc sống của con người một cách thiết thực. Chủ yếu Hạ học là dạy về Nhân đạo. Không có một nền tôn giáo nào dạy về Nhân đạo một cách kỹ lưỡng và sâu sắc bằng Nho giáo. Sau đây là một số điểm chính:

– Quân tử, Tiểu nhân.

– Tu thân.

– Công bình, Bác ái.

– Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức.

– Lễ Nhạc.

– Chính danh định phận.

4.1.1. Quân tử  – Tiểu nhân

Nho giáo chia những người trong xã hội làm 2 hạng: Quân tử và Tiểu nhân.

– Quân tử  là người có đức hạnh hoàn toàn, nhân phẩm cao quí, chăm lo Đạo Thánh Hiền để sửa mình, dẫu nghèo khó cũng không làm điều trái đạo.                                            

– Tiểu nhân thì hoàn toàn trái ngược, kẻ tiểu nhân có chí khí hèn hạ, tham danh cầu lợi, miệng nói nhân nghĩa mà trong lòng tính chuyện bất nhân, dù giàu có nhưng tinh thần vẫn đê tiện.

Người Quân tử  bao giờ cũng tòng Thiên lý, cho nên tâm tính quang minh, thích làm việc nghĩa, càng ngày càng cao thượng; kẻ Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, chí khí thấp thỏi, nên luôn luôn bị vật dục khiến sai, chỉ biết cái lợi riêng cho mình, càng ngày càng thêm hèn hạ.

Quân tử thì trung dung vì hiểu được cái thấp cái cao, Tiểu nhân thì phản trung dung vì chỉ biết tư lợi. Quân tử  chỉ cầu ở mình, nên cái đức càng ngày càng sáng thêm; Tiểu nhân thì mong cầu ở người, nên cái lòng dục càng lúc càng buông xổng thêm ra. Học làm Quân tử thì phải thành thật, không bao giờ tự dối mình mà làm hại cái biết của mình.

Muốn học cho đạt cái đạo của người Quân tử thì phải theo đúng như lời Đức Khổng Tử dạy: “Dốc lòng tin, ham sự học, giữ cho vững, dẫu chết cũng không thay đổi, làm cho cái Đạo hay hơn lên. Không vào nước đã nguy, không ở nước có loạn. Đời có Đạo thì ra làm mọi việc, đời không Đạo thì ẩn mà sửa mình. Nước có Đạo mà mình nghèo và hèn là xấu hổ; nước không Đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ.”

4.1.2. Tu thân

Người Quân tử cần phải học hỏi luôn luôn để biết mà sửa mình. Muốn sửa mình (Tu thân), trước hết phải giữ cái Tâm cho chính, cái Ý cho thành, rồi mới Cách Vật, Trí Tri được. Do đó, Nho giáo đưa ra Bát Điều Mục, tức là 8 bước thực hành theo thứ tự sau đây:

– Cách vật: Cách ly sự vật để quan sát cho rõ ràng.

– Trí tri: Nghiên cứu để biết tận gốc rễ của sự vật.

– Thành ý: Rèn luyện ý chí thành thật dũng mãnh.

– Chính tâm: Thanh lọc tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm của vật dục.

– Tu thân: Sửa đổi những điều sai lầm của mình.

– Tề gia: Sắp đặt các việc gia đình cho đúng phép.

– Trị quốc: Cai trị dân theo đường lối chân chính.

– Bình Thiên hạ: Đem lại thanh bình và hạnh phúc cho toàn dân.

4.1.3. Tam Cương – Ngũ Thường – Tam Tòng – Tứ Đức

Đức Khổng Tử dạy về Nhân đạo :

+ Nam thì giữ Tam Cương và Ngũ Thường.

+ Nữ  thì  giữ  Tam Tòng và Tứ Đức.

– Tam Cương: Ba Giềng mối gồm: Quân thần cương, Phụ tử cương, Phu thê cương.

+ Quân thần cương: Quan hệ vua tôi, tức là Trung: Trung với nước, trung với dân. Không nên quan niệm hẹp hòi là trung với một cá nhân ông vua hay một dòng họ vua, vì đó là ngu trung. Chỉ trung với vua khi nào gặp được vị vua sáng suốt (Quân minh thần trung), chúa Thánh tôi hiền.

+ Phụ tử cương: Quan hệ cha con, cha mẹ phải hiền, hết dạ thương con và con phải hiếu thảo với cha mẹ.

+ Phu thê cương: Quan hệ vợ chồng. Nghĩa là: xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người phụ nữ khi đi lấy chồng thì phụng sự chồng, khi chồng chết thì ở vậy nuôi con mới là người tiết hạnh.

–  Ngũ Thường: Năm điều thường có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

+ Nhân: Lòng thương người mến vật.

+ Nghĩa: Việc đối xử theo lẽ phải, biết đền ơn đáp nghĩa đối với người và vật.

+ Lễ: Thể hiện sự tôn kính và trật tự trong ý nghĩ, lời nói và việc làm.

+ Trí: Sự hiểu biết sáng suốt, phân biệt phải quấy.

+ Tín: Không gian dối, gạt gẫm.

– Tam Tòng: Ba điều phải theo của người phụ nữ: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử.

+ Tại gia tòng phụ: Ở nhà thì nghe theo lời của cha mẹ.

+ Xuất giá tòng phu: Có chồng thì phải tòng theo chồng.

+ Phu tử tòng tử: Chồng chết thì ở vậy nuôi con cho nên người, không nên tái giá.

– Tứ Đức: Bốn Đức của người phụ nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

+ Công: Chăm lo làm công việc gia đình.

+ Dung: Chăm sóc thân thể cho tốt đẹp, sạch sẽ.

+ Ngôn: Lời nói dịu dàng, đoan chính.

+ Hạnh: Ngay thẳng, nhân ái trong mọi việc.

4.1.4. Công bằng – Bác ái

Người ta sinh ra ở đời, ai cũng bẩm thụ cái Lý và Khí của Trời Đất như nhau, nên đều chịu mệnh Trời như nhau. Như vậy, mọi người đều bình đẳng và là anh em với nhau. Một hôm, Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: Có lời nào khả dĩ thi hành được chung thân không? Đức Khổng Tử đáp: Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. (Chữ Thứ chăng! Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.) Đó là Công bình và Bác ái. Nó nằm trong cái Đạo Nhất Quán của Đức Khổng Tử: Đạo Nhân.

4.1.5. Lễ Nhạc

– Lễ

Nho giáo dùng Lễ cốt để tạo thành một tập quán Lễ Nghĩa, khiến cho người ta làm điều lành điều phải một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ. Dùng Lễ có cái hay là ngăn cản những việc xấu không  cho  xảy ra, còn dùng pháp luật là để trị những cái xấu đã xảy ra. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ chớ không trọng Hình phạt.

Chữ Lễ, trước tiên dùng với ý nghĩa là các hình thức cúng tế cầu Thần linh ban phước và cúng tế Tổ tiên. Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hợp với phong tục và tập quán của dân chúng trong việc Quan, Hôn, Tang, Tế. Sau nữa, chữ Lễ còn có nghĩa thật rộng, gồm cả cái quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của dân chúng cho thích hợp với cái lẽ tự  nhiên của Trời Đất. Cho nên Kinh Lễ của Nho giáo nói rằng: “Lễ giả, Thiên chi tự.” Nghĩa là: Lễ là cái trật tự của Trời. Do đó, Nho giáo rất chú trọng về Lễ, và dùng Lễ vào 4 mục đích :

+ Dùng Lễ để hàm dưỡng tính tình của con người

Dùng Lễ để tạo thành một không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tập quán tốt, khiến người ta làm điều phải điều lành một cách tự nhiên mà không biết. Vậy nhờ Lễ mà con người được khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao thượng.

+ Dùng Lễ để giữ thích hợp với đạo Trung Dung

Không cho thái quá, mà cũng không cho bất cập. Nhờ vậy, thể xác và tinh thần của con người được quân bình, hành động lúc nào cũng được sáng suốt và chừng mực. Đức Khổng Tử  bảo thầy Nhan Uyên (Nhan Hồi) là người đã hiểu rõ đạo Nhân hơn người là vì do Lễ. “Phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn, phi Lễ vật động.” Nghĩa là : Không phải Lễ thì chớ nhìn, không phải Lễ thì chớ nghe, không phải Lễ thì đừng nói, không phải Lễ thì chớ làm.

+ Dùng Lễ để định lẽ phải trái, tình thân sơ, và trật tự trên dưới phân minh                                                    

Nhờ Lễ mà phân biệt được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui định sự đối xử khác nhau một cách rõ rệt. Do đó không còn chỗ hiềm nghi, định rõ lẽ phải trái. Nhờ Lễ mà định được cái Chính danh. Có Chính danh  mới định cái phận cho thích hợp. Do đó mà có tôn ti trật tự, phép tắc luân lý, từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự  thái bình.

+ Dùng Lễ để tiết chế lòng dục                            

Dục vọng của con người thì không cùng và lúc nào cũng đòi hỏi để được thỏa mãn. Nếu không dùng Lễ để chế giảm, tất dục vọng sẽ làm con người hư  hỏng. Dùng  Lễ  để chế giảm mà còn hướng dẫn dục vọng vào con đường cao thượng nữa. Lễ và Pháp luật đều có mục đích ngăn chặn sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có ưu điểm là nó có thể ngăn cản được những việc chưa xảy ra; còn dùng pháp luật là để trừng trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Pháp luật, tuy phải đặt ra, nhưng dùng sự giáo hóa về lễ mà ngăn ngừa  sự phạm tội thì  mới ưu việt.

Tóm lại, chữ Lễ trong nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về mặt giáo hóa và ngăn ngừa sự hư hỏng; còn luật pháp thì chú trọng sự trừng phạt những điều hư hỏng và phạm tội. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì, không nên làm điều gì, và tại sao như thế. Còn pháp luật thì cấm không cho làm việc này việc nọ, mà hễ vi phạm thì bị trừng phạt. Người làm trái Lễ thì bị chê cười, có tính cách trừng phạt về phương diện  tinh thần; người làm trái pháp luật thì bị trừng phạt về  thể xác.

–  Nhạc

Nhạc là sự hòa hợp các thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm của lòng người  đứng trước ngoại vật. Hay nói khác đi, chính sự rung động trong lòng người  mới tạo thành tiếng nhạc. Nhạc có thế lực quan trọng nên bậc Đế vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để cảm hóa dân chúng, khiến dân trở nên lương thiện. Sách Nhạc có viết rằng: “Nhạc là cái vui của Thánh nhân, mà có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và làm phong tục dời đổi được. Cho nên Tiên vương  mới đặt ra việc dạy Nhạc.”

Nhạc cũng phải giữ cái đạo Trung Dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất cái chính, mà buồn cách mấy cũng không làm mất cái hòa. Như thế, Nhạc  mới có thể điều hòa được cái tính tình của con người.

– Sự phối hợp của NHẠC và LỄ                            

Nhạc và Lễ đều có cái chủ đích chung là sửa đổi tâm tính con người cho ngay chính, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu, nhưng  mỗi bên có cách thức riêng biệt. Lễ cốt ở sự cung kính để giữ cho trật tự phân minh, Nhạc cốt ở sự điều hòa khiến cho tâm tính được tao nhã. Vậy nên  có Lễ phải có Nhạc, có Nhạc phải có Lễ, để cho cái này bổ khuyết cho cái kia thì  mới tạo được sự điều hòa tốt đẹp và một trật tự  ổn định trong xã hội. Nhưng Đức Khổng Tử  lại nói: “Nhân nhi bất nhân như Lễ hà? Nhân nhi bất nhân như Nhạc hà? “Nghĩa là: Người mà không nhân đức thì làm sao dùng Lễ được? Người mà không nhân đức thì làm sao dùng Nhạc được?

Đức Khổng Tử còn chủ trương không nghiêng về bên Lễ, cũng không nghiêng về bên Nhạc: “Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp tính tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc”. Lễ Nhạc có địa vị rất trọng yếu trong đạo trị nước và đặt ngang hàng với Hành chính và Hình pháp. “ Lễ để chỉ đạo ý chí, Nhạc để điều hòa thanh âm, Hành chính để thống nhất hành động, Hình pháp để ngăn ngừa tội ác. Lễ, Nhạc, Hành chính, Hình pháp, có mục đích cuối cùng là một, tức là thống nhất lòng dân để thực hiện một nền thạnh trị.”

Ý của Đức Khổng Tử  và các bậc Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần lần, từ đời nọ truyền qua đời kia, Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sai hết. Lễ thì biến ra thêm phiền toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ đủ loại mà không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc và Lễ hướng dẫn và kềm chế nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố sâu vực thẳm.

4.1.6. Chính danh Định phận

“Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành.”  Nghĩa là: Danh không chính đáng thì lời nói không xuôi, lời nói không xuôi thì việc không thành. Danh đã chính thì việc gì cũng có nghĩa lý rõ ràng của việc ấy, những điều tà thuyết không che khuất được chân lý. Danh và Phận đã được định rõ thì  mỗi người đều có địa vị và bổn phận chính đáng của mình, trật tự  phân minh.

4.2.  Thượng học

Thượng học thuộc về Đại thừa hay Thượng thừa, Là quan niệm về thế giới quan của Nho giáo, rất uyên áo cao viễn mà Đức Khổng Tử có nhiều điều nói rõ trong Kinh Dịch (sách căn bản  về triết Lý của Nho giáo) và trong sách Trung Dung (sách Triết học bàn về Thiên đạo và Nhân đạo rất sâu xa).

Sau đây là một số điểm tiêu biểu:

– Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý.

– Thiên mệnh.

– Quỉ Thần.

– Hồn phách.

– Đạo của Đức Khổng Tử.

4.2.1. Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý

Quan điểm của Nho giáo về thế giới quan (sự hình thành vũ trụ và vạn vật) được diễn tả như sau: Khởi đầu của Vũ trụ là một khối mờ mịt hỗn độn. Trong cái Hỗn độn ấy có một cái Lý rất linh diệu cương kiện gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, ta không thể biết rõ được, nhưng khi xem xét sự biến hóa của vạn vật thì ta có thể đoán biết được cái động và tịnh của Thái Cực. Động là Dương, tịnh là Âm. Dương lên đến cực độ lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ lại biến ra Dương. Hai cái Âm Dương ấy cứ xoay chuyển tương đối, điều hòa nhau mà biến hóa sinh ra Trời Đất và vạn vật.

Đó là điểm cốt yếu của Kinh Dịch, bởi vì Dịch là biến đổi. Trong Trời Đất, không có cái gì là không biến đổi, không có cái gì là nhất định. Tất cả đều biến đổi, xoay chuyển, lưu hành khắp nơi, nhưng đều phát sinh từ một Lý duy nhất là Thái Cực. Chỉ có Thái Cực là tuyệt đối, còn tất cả đều là tương đối. Do đó, Đức Khổng Tử lấy chủ nghĩa “Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể “ làm căn bản cho học thuyết của Nho giáo.

4.2.2. Thiên mệnh

Trời là Chủ thể của cả Càn khôn Vũ trụ và vạn vật nên có cái sức mạnh bí mật điều khiển tất cả sự biến hóa và xoay chuyển trong Vũ trụ cho được điều hòa. Đó là Thiên mệnh, tức là Mệnh Trời.

Làm người phải biết mệnh Trời để nương theo đó mà sinh hoạt cho phải đạo. Nhưng con người cũng có cái tự chủ riêng để tự cường kiện lấy mình, khiến cho cái tâm linh của ta luôn luôn mẫn huệ, để hành động của ta lúc nào cũng phù hợp mệnh Trời, chớ không, chúng ta cứ hèn yếu nhu nhược đợi chờ số mạng. Sách Trung Dung viết: “Trời sinh ra muôn vật, nhân cái tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào. Cho nên, vật nào có thể vun đắp được thì vun đắp vào cho tốt lên, vật nào nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi”.

4.2.3. Quỉ Thần

Nho giáo dạy người ta tin ở Trời, tin ở Thiên mệnh, tất nhiên tin có Quỉ Thần.

Sự cúng tế Quỉ Thần là để mình tỏ lòng thành kính, chớ không phải để cầu phúc riêng cho mình. Quỉ Thần đều sáng suốt và chính trực, nên chẳng hề tư vị ai. Người đời cứ  theo điều công chính mà làm thì ắt có Quỉ Thần chứng giám hộ trì cho. Nếu ai bất nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, phải tội với Trời, thì dẫu có cầu nguyện cúng tế quanh năm cũng không ích gì. “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo đao” (Phải tội với Trời thì còn cầu nguyện vào đâu được).

Chúng ta là người đang sống, chúng ta tin và biết có Quỉ Thần, nhưng chúng ta không thể biết các việc của Quỉ Thần, cho nên chúng ta không nên nói điều huyễn hoặc mà gây thành mối mê tín dị đoan. “Vụ dân chi nghĩa, kính nhi viễn chi.” Nghĩa là: Vụ lấy làm việc nghĩa của người, còn Quỉ Thần thì nên kính trọng mà xa ra.

4.2.4. Hồn phách

Đức Khổng Tử nói: “Nhân sinh hữu khí, hữu hồn, hữu phách. Khí, Hồn, Phách hội chi vị sinh.” Nghĩa là: Người sinh ra có Khí, có Hồn, có Phách. Khí, Hồn, Phách hội lại gọi là sống.

Con người có sinh ắt phải có tử. Chết rồi thì hài cốt dần dần tan rã vào đất, còn cái Khí tinh anh thì lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ. Vậy, chết không phải là hết, chỉ hết cái hình hài, còn cái Khí tinh anh vẫn còn và đi lên chỗ sáng rõ trong vũ trụ. Cái Khí tinh anh ấy ở trong con người thì gọi là Tâm. Tâm là cái thần minh, là cái tia sáng mà Trời phú cho con người để hiểu biết các sự vật. Khi ta chết, cái tia sáng ấy trở về Trời, còn cái thể xác vật chất thì bị hủy hoại đi. Bởi cái tư tưởng ấy nên  mới nói: Sinh ký tử qui (Sống gởi thác về).

4.2.5. Đạo của Đức Khổng Tử

Đức Khổng Tử  căn cứ trên lẽ biến hóa mà điều hòa của Trời Đất và đem những tư tưởng và hành vi của bậc Thánh nhân đời trước mà lập thành Đạo để dạy thiên hạ. Ở trong cái Đạo ấy, muôn vật đều hóa dục mà không hại lẫn nhau, các Đạo đều được thi hành mà không trái nhau. Đức nhỏ thì phân minh như nước sông chảy, đức lớn thì đôn hậu mà sinh hóa vô cùng. Đức Khổng Tử nói: “Công kích Đạo khác chỉ hại mà thôi”.

Đạo của Đức Khổng Tử là theo lẽ thường, việc phải thì làm, việc trái thì bỏ, cốt giữ cái Tâm cho sáng suốt, đừng để tư dục làm cho ám muội. Đạo của Đức Khổng Tử không lấy việc Quỉ Thần mà đặt ra điều mê tín, không lấy sự sống chết mà huyễn hoặc lòng người. Ngài chỉ cốt lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Kính làm đạo thường. Đạo của Ngài tòng theo Thiên lý, làm cho sáng cái đức sáng, khiến người ta càng lúc càng mẫn huệ đến chí thiện  mới thôi (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện). Đạo không xa cái bổn tính con người, nếu người theo Đạo để cho xa cái bổn tính con người thì đó không phải là Đạo. (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo).

Tóm lại, Đạo của Đức Khổng Tử  dạy rất kỹ về Nhân đạo. Nhân đạo xong thì  mới có thể đến gần được Thiên đạo.

5. Triết lý của Nho giáo

Triết lý của Nho giáo thuộc về phần Thượng học. Sau đây, chúng ta sẽ xem quan niệm của Nho giáo về Vũ trụ và Nhân sinh, về Thượng Đế và con người.

5.1. Vũ trụ quan của Nho giáo

Quan niệm về Vũ trụ của Nho giáo được nói rõ trong Kinh Dịch, giải thích Vũ trụ căn cứ trên thuyết Âm Dương và Ngũ Hành. “Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái.” Đạo Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh ra Hai Nghi: Nghi Âm và Nghi Dương; Hai Nghi sinh ra Bốn Tượng là: Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương; Bốn Tượng sinh ra Tám Quẻ là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Vũ trụ quan của Nho Giáo theo Kinh Dịch

“Thoạt đầu tiên, Vũ trụ ra thế nào? Cứ như những ý tưởng của người xưa thì lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối mờ mịt hỗn độn, tức là đời Hỗn mang. Trong cuộc Hỗn mang ấy, có cái Lý vô hình rất linh diệu, rất cương kiện, gọi là Thái Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, không thể biết được bản thể của Lý ấy như thế nào. Ta tuy không biết rõ cái chân tính và cái chân tướng của Lý ấy, song ta có thể xem sự biến hóa của vạn vật mà biết được cái động thể của Lý ấy. Cái động thể của Lý ấy phát hiện ra bởi 2 cái thể khác nhau là: Động và Tĩnh. Động là Dương, Tĩnh là Âm. Dương đến cực độ thì lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ thì lại biến ra Dương. Hai thể ấy cứ theo liền nhau, rồi tương  đối điều hòa với nhau để biến hóa mà sinh ra Trời Đất và vạn vật.

Vậy, khởi điểm của Tạo Hóa là do 2 cái tương đối Âm và Dương mà Đạo Trời Đất cũng khởi đầu bởi sự biến hóa của 2 tương đối ấy. Trước 2 cái tương  đối ấy thì dẫu có gì cũng như không, vì không sao mà biết được. Khi 2 cái tương  đối ấy đã phát hiện ra thì cái gì cũng hiển nhiên, không thể nói là không có được.” (Trích Nho giáo của Trần trọng Kim).

Theo quan niệm này thì Đạo Trời Đất lúc đầu rất giản dị, sau  mới biến hóa dần dần đến chỗ phức tạp, càng biến hóa thì càng phức tạp, thiên hình vạn trạng. Đó là “Nhất bổn tán vạn thù”, cái Nhất bổn ấy là Thái Cực, nhưng dầu phức tạp đến đâu, rồi cuối cùng cũng qui về một, ấy là “Vạn thù qui nhất bổn”. Đức Khổng Tử cho rằng cái Lý Thái Cực rất huyền vi mầu nhiệm, mà tri thức con người thời đó khó đạt tới, nên Ngài không chú trọng xét tới, mà chỉ chú trọng cái động thể của nó, tức là Luật Biến hóa của Trời Đất, tức Luật DỊCH. Ngài thấy Đạo Dịch chi phối vạn vật, phù hợp với hiện thực. “Dịch không xa sự thật, mà đạo Dịch biến đổi luôn, không ở nhất định chỗ nào, lưu truyền khắp cả vũ trụ.”

Bỏ cái bản thể mà nghiên cứu cái động thể của Lý Thái Cực là một quan niệm rất thực tiễn, và đó cũng là khởi điểm cho thuyết tùy thời của Đạo Nho.

5.2. Nhân sinh quan của Nho giáo

Người là con cưng của Trời. Sách Thượng Thư viết: Chỉ có Trời Đất là cha mẹ của vạn vật, trong vạn vật Người là linh hơn cả. Người là con của Trời mà cũng là dân của Trời, vua là người thay mặt Trời để cai trị muôn dân. Cho nên, trong các sách của Nho giáo, chữ dân thường dùng để thay cho chữ Nhân là Người.

Người và Trời đều đồng một thể. (Thiên Địa Nhân đồng nhất thể.). Đổng Trọng Thư  có viết rằng: “Không gì tinh vi hơn khí Âm Dương, phong phú hơn Địa, thần linh hơn Thiên, cái tinh của Trời Đất để sinh ra muôn vật không gì là quí hơn Người. Người nhận lấy mệnh Trời, cho nên siêu nhiên hơn muôn vật. Muôn vật lo sợ tai vạ và không thể thi hành được lòng nhân nghĩa, chỉ riêng có Người  mới có khả năng làm được điều nhân nghĩa. Muôn vật lo sợ tai vạ nên không thể sánh vai với Trời Đất, chỉ riêng con Nguời  mới có thể sánh vai với Trời Đất.

Người có 360 tiết sánh với số Trời, hình thể xương thịt sánh với Đất. Ở trên có tai mắt thông minh, là hình tượng của nhật nguyệt. Thân thể có cửa mở, có mạch lạc, tượng hình sông ngòi và thung lũng. Tâm có thương vui, mừng giận, cùng loại với Thần khí. Muôn vật nương dựa lấy khí Âm Dương của Trời để sinh hoạt, chỉ có Người lại sáng tỏ rực rỡ với văn vẻ của Trời. Thế nên, phàm vật hiện hình ra chẳng cái nào không tuân theo mệnh Trời mà thi hành, ở địa vị nương tựa, chỉ riêng Người đứng lên trực tiếp với Trời nên xứng đáng với Trời. Cho nên, tiếp nhận  ít của Trời Đất thì ở địa vị nương tựa, tiếp nhận nhiều của Trời Đất thì ở địa vị chính đáng. Ở đây thấy loài người biệt lập với muôn vật mà tham hợp với Trời Đất.

Cho nên, thân thể của Người có đầu rộng mà tròn, tượng hình nội dung của Trời; lông tóc tượng hình các vì sao; tai mắt lanh lợi tượng hình mặt trăng mặt trời; mũi mồm hô hấp tượng trưng gió và không khí; trong bụng đạt đến hiểu biết tượng hình Thần minh, bụng ruột đầy rổng tượng hình muôn vật. Tượng trưng của Trời Đất, tương quan của khí Âm Dương thường thấy thiết dụng ở thân Người. Thân Người cũng như Trời, tương  tham hợp với số Trời, nên cùng liên hệ với Trời bằng sinh mệnh.

Trời lấy số ngày trong một năm để lập nên thân thể của Người, cho nên 360 tiết nhỏ để tương  hợp với số ngày, tiết lớn 12 phần tham hợp với số tháng. Ở trong có 5 tạng tham hợp với số Ngũ Hành. Ở ngoài có Tứ Chi (2 tay và 2 chân) tham hợp với 4 mùa. Chợt thấy chợt mở tham hợp với ngày đêm, chợt rắn chợt mềm tham hợp với mùa đông mùa hạ. Chợt thương đau, chợt vui mừng tham hợp với khí Âm Dương. Tâm có tính toán suy nghĩ, tham hợp với độ số . . .  Ở đâu đếm được thì tham hợp với số, ở đâu không đếm được thì tham hợp với loài. Ở đây có sự đồng nhất ở cả 2 bên, và chỉ có một sự  tham hợp của Người với Trời.” (Trích trong Nhân phó Thiên số, Phồn lộ, Quyển 13, Đổng Trọng Thư).

Cho nên Trời Đất là Đại Thiên Địa thì Người là Tiểu Thiên Địa; Trời Đất là Đại Vũ trụ thì Người là Tiểu Vũ trụ. Vũ trụ mà không có Người là vũ trụ không hoàn toàn, bởi vì vũ trụ là một đại hòa điệu của Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân), mà thiếu đi một yếu tố thì sự hòa điệu không còn. Trời và Người quan hệ mật thiết với nhau, bởi thế  mới lấy phép tắc tự nhiên  của Trời làm mô phạm của Người, lấy Thiên luân làm Nhân luân, lấy Thiên đạo làm Nhân đạo. Nho giáo lấy ý dân làm ý Trời, sự sáng suốt của Trời hiện ra ở trong sự sáng suốt của dân, dân muốn chính là Trời muốn. Sự sáng suốt của Người thường bị mất đi là do lòng vật dục che khuất,  do đó mà không cảm ứng được với Trời.

Con người có 2 phần: Một phần là thân thể vật chất hữu hình, và một phần vô hình phú bẩm nơi Trời Đất. Cái phần vô hình ấy là Lý Thái Cực, cũng gọi là Thần minh, Tâm hay cái tia sáng linh diệu (Linh quang). Khi chết rồi, thân xác chôn xuống đất, thối rã tan nát trở thành đất (Địa), còn cái phần tinh anh linh diệu thì bay lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ. Vậy chết không phải là hết, chỉ hết cái hình hài xác thịt mà thôi, còn cái Khí tinh anh tức là Tinh thần thì lại về chỗ sáng rõ ở trong vũ trụ. Cái phần chiêu minh ấy ở trong người gọi là Tâm. Tâm là cái Thần minh ở trong vạn vật, là cái tia sáng linh diệu của Trời phú cho ta để hiểu biết sự vật. Vũ trụ sở dĩ có là bởi có tia sáng ấy, chứ không thì dẫu có cũng như không. Vạn vật nhờ có cái tia sáng ấy mà biết là có và biết có Trời. Người ta có cái phẩm giá tôn quí là cũng nhờ bởi cái Tâm. Có cái Tâm thì Trời Đất rõ ràng, vạn vật linh hoạt.

Đến khi người ta mệnh chung thì cái tia sáng ấy trở về Trời, còn cái thân vật chất thì hẩm nát đi. Bởi  lý tưởng ấy, cổ nhân nói rằng: “Sinh ký dã, tử qui daõ”. Nghĩa là: Sống là gởi vậy, chết là về vậy. Trong câu nói ấy hàm chứa sự Luân hồi. (Theo Nho giáo Trần trọng Kim).

5.3. Quan niệm về Thượng Đế

Nho giáo gọi Thượng Đế là Thiên, tức là Trời.

“Nhưng ta phải biết rằng quan niệm của Đức Khổng Tử về Trời hay Thượng Đế không giống như quan niệm của phần nhiều người thường tưởng tượng là Trời hay Thượng Đế là một Đấng có hình dáng, có tình cảm, có tư dục như người ta. Trời hay Thượng Đế chỉ là cái Lý vô hình, rất linh diệu, rất cương kiện, mà khi đã định sự biến động ra thế nào thì dẫu làm sao cũng không cưỡng lại được” (Nho giáo Trần tr. Kim). Thượng Đế là vua của Càn Khôn Vũ trụ, thống ngự vạn vật và loài người. “Hoàng hỹ Thượng Đế, lâm hạ hữu hách, giám qua Tứ phương, cầu dân chi mạc”. Đấng Thượng Đế rất lớn, soi xuống rất rõ ràng, xem xét 4 phương để tìm nỗi thống khổ của dân mà cứu giúp.

Trong Nho giáo, Thượng Đế chính là Thái Cực, là Đấng Tạo Hóa duy nhất, hóa sinh vạn vật. “Thiên giả vạn vật chi tổ, vạn vật phi Thiên bất sinh. Độc Âm bất sinh, độc Dương bất sinh. Âm Dương dữ Thiên Địa tham, nhiên hậu sinh.” Trời là tổ của muôn vật, muôn vật không có Trời không sinh ra được. Một mình khí Âm không sinh, một mình khí Dương không sinh. Âm Dương cùng với Trời Đất tham hợp, rồi sau  mới sinh.

Nho giáo quan niệm vua (Nhân quân) là người thay mặt cho Trời mà cai trị dân chúng và mưu cầu hạnh phúc cho dân chúng, nên gọi vua là Thiên tử (con của Trời).

6. Kinh điển của Nho giáo

Trước thời Đức Khổng Tử, Đạo của Thánh Hiền được chép trong các sách: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc.

Đức Khổng Tử nghiên cứu các sách ấy, rồi Ngài chú giải Kinh Dịch, chỉnh đốn Kinh Lễ và Nhạc, san định Kinh Thi Kinh Thư, và cuối cùng Đức Khổng Tử sáng tác ra Kinh Xuân Thu.

Sau khi Đức Khổng Tử mất, các sách ấy bị mất mát ít nhiều. Đến đời Tần Thủy Hoàng, có cuộc đốt sách và chôn học trò (Phần thư khanh Nho), thành ra kinh sách của Nho giáo không còn được bao nhiêu. ến đời nhà Hán, Đạo Nho mới được phục hưng. Hán Cao Tổ sai người tìm nhặt các sách thì không tìm được quyển nào còn nguyên vẹn, nhất là Kinh Nhạc mất gần hết, chỉ còn lại một thiên, phải đem ghép vào Kinh Lễ.

Hiện nay, những sách ấy tuy có sai lạc đi ít nhiều, nhưng các hậu Nho đã góp nhặt và phụ họa thành Ngũ Kinh, kể ra sau đây :

1. Kinh Dịch.  2. Kinh Thi.

3. Kinh Thư.  4. Kinh Lễ Nhạc.

5. Kinh Xuân Thu.

Những sách do các môn đệ của Đức Khổng Tử làm ra sau thời Đức Khổng Tử gồm 4 quyển, gọi là Tứ Thư, kể ra:

1. Luận Ngữ của Tăng Tử.

2. Đại Học của Tăng Tử.

3. Trung Dung của Tử Tư.

4. Mạnh Tử của Mạnh Tử.

 

7. Tiểu sử của Đức Khổng Tử

Đức Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất  (551 trước Tây lịch), đời vua Linh Vương năm thứ 21 nhà Châu, tương  ứng với đời vua Lỗ Tương Công năm thứ 22, tại làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, nước Lỗ, bây giờ là tỉnh Sơn Đông – Trung Quốc.

Khổng Tử – tự Trọng Ni – sinh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất (551 trước Tây lịch)

Đức Khổng Tử là dòng dõi của Vi Tử Khải và Vi Tử Diễn, 2 người này đều là anh ruột của vua Trụ, con của vua Đế Ất nhà Thương (cũng còn gọi là nhà Ân). Sau khi Châu Võ Vương diệt vua Trụ, mở ra nhà Châu, Ông Châu Công Đán hợp cùng Khương Thượng, sắp đặt cho Vi Tử  Khải làm vua nước Tống, để trông nom việc tế tự các vua nhà Thương. Vi Tử Khải mất, em là Vi Tử Diễn lên thay.

Cháu 13 đời của Vi Tử Diễn là Thúc Lương Ngột, làm quan Đại phu nước Lỗ, là thân phụ của Đức Khổng Tử. Ngài lấy họ Khổng, bởi vì Thúc Lương Ngột là dòng dõi của Khổng Phùng Thúc, biệt lập ra họ Khổng kể từ Khổng Phụ Gia, sau 5 đời Công Khanh thế tập ở nước Tống.

Thúc Lương Ngột có người vợ cả họ Thi, sinh được 9 người con gái, một người vợ lẽ sinh được một con trai nhưng bị què một chân, tên là Mạnh Bì, tự là Bá Ni. Năm Thúc Lương Ngột 70 tuổi, sợ không có người kế tự,  mới sai người  đến  nhà họ Nhan để cầu hôn. Họ Nhan có 5 người con gái đều chưa gả chồng, có ý chê Thúc Lương Ngột quá già,  mới bảo với các con rằng:

– Các con có đứa nào thuận kết duyên với quan Đại phu ở Châu Ấp đó không?

Bốn người con gái lớn đều làm thinh, người con gái út là Trưng Tại đứng dậy thưa rằng:

– Phép làm con gái, khi còn ở nhà thì theo lời cha, cha đặt đâu con xin ngồi đó.

Họ Nhan nghe con gái út nói thế thì lấy làm lạ, liền gả Trưng Tại cho Thúc Lương Ngột. Trưng Tại đã kết duyên với Thúc Lương Ngột rồi, vợ chồng lo về sự hiếm hoi không có con trai nối dõi, nên cùng nhau vào núi Ni Sơn cầu tự. Khi Trưng Tại trèo lên núi Ni sơn, bao nhiêu lá cây đều rung động lên cả. Khi làm lễ cầu tự xong, đi trở xuống thì lá cây lại rủ xuống như cũ. Đêm hôm ấy, Trưng Tại nằm mộng thấy Thần Hắc Đế triệu đến mà bảo rằng:

– Sau này, nàng sẽ sinh con Thánh, nhưng khi nào lâm sản thì nên vào ở trong hang núi Không Tang.

Đến khi nàng thức giấc tỉnh dậy thì biết mình có thai. Một hôm khác, Trưng Tại mơ mơ màng màng như người chiêm bao, chợt thấy một Ông già đến đứng ở sân, tự xưng là Ngũ Tinh, dắt theo một con thú giống như con trâu con mà lại có một sừng, mình có vằn. Con thú ấy trông thấy Trưng Tại thì nằm phục xuống và nhả ra một cái ngọc xích, trên đó có thấy đề chữ: “Con nhà Thủy Tinh, nối đời Suy Châu mà làm vua không ngôi”.

Trưng Tại biết là điềm lạ, liền lấy dải lụa buộc vào sừng con thú ấy. Khi tỉnh dậy, Trưng Tại thuật điềm chiêm bao ấy cho chồng nghe. Thúc Lương Ngột nói:

– Con thú ấy là con kỳ lân.

Gần đến sản kỳ, Trưng Tại hỏi Thúc Lương Ngột là hang núi Không Tang ở đâu ? Thúc Lương Ngột nói:

– Núi Nam sơn có một cái hang đá, tục gọi là hang Không Tang.

Trưng Tại liền sửa soạn đến đó ở và sinh đẻ trong hang Không Tang đúng theo lời Thần nhân mách bảo. Đêm hôm sinh ra Khổng Tử, có 2 con rồng xanh từ trên Trời bay xuống nằm phục ở 2 bên sườn núi và có 2 vị Thần  Nữ  đem nước hương lộ đến gội đầu cho Trưng Tại. Gội xong thì biến đi. Khi Trưng Tại lâm sản, bỗng thấy trong hang đá có một suối nước nóng chảy ra để cho Trưng Tại tắm. Tắm xong thì suối cạn ngay. Thúc Lương Ngột nói:

– Vì  ta cầu tự  nơi núi Ni sơn mà được đứa bé này, nên ta đặt tên cho nó là Khâu, tự là Trọng Ni.

Trưng Tại biết đứa con này sẽ làm nên việc lớn, nên hết sức nuôi nấng và chăm sóc con. Ông Khổng Tử có tướng lạ lắm: Môi như môi trâu, tay như tay hổ, vai như vai chim uyên, lưng rùa, miệng rộng, hầu lộ, trán phẳng và cao, khi lớn, mình cao 9 thước 6 tấc (thước Tàu), có tính ham học.

Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ngài sống với mẹ trong cảnh nhà nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học, Ngài chơi với trẻ hàng xóm, thích bày trò cúng tế. Năm 15 tuổi, lập chí học tập. Năm 19 tuổi, Ngài cưới vợ, vợ của Ngài là con của họ Thượng Quan nước Tống.

Năm 20 tuổi, vợ Ngài sinh đặng một con trai. Hôm đó, Lỗ Chiêu Công sai đem đến ban cho Ngài một con cá chép (Lý ngư), nên nhân đó, Ngài đặt tên con là Lý tự là Bá Ngư, để tỏ lòng tôn trọng vật của vua ban tặng. Về sau, Bá Ngư chết lúc 50 tuổi, chết trước Đức Khổng Tử. Con của Bá Ngư tên là Khổng Cấp, tự là Tử  Tư, sau theo học với Tăng Sâm, rồi làm ra sách Trung Dung.

7.1. Đức tính của Đức Khổng Tử

Đức Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất cứ việc gì, Ngài cũng để ý xem xét rất kỹ lưỡng để biết cho cùng tận  mới thôi. Tính Ngài ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận, đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào Thiên mệnh.

7.2. Thời kỳ tham chính và dạy học

Năm 21 tuổi, Đức Khổng Tử được cử làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân đo và gạt lúa. Sau đó, qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật dùng trong việc tế tự.

Năm Ngài 25 tuổi thì chịu tang mẹ. Năm 29 tuổi, Ngài học đàn với Sư Tương, ở nước Lỗ. Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng Đức Khổng Tử đã nổi tiếng là người học rộng, biết nhiều, nên quan Đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ, cho 2 người con trai là Hà Kỵ và Nam Cung Quát theo Ngài học Lễ.

Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương, kinh đô nhà Châu,  để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, nhưng vì nhà nghèo, không đủ tiền lộ phí, đành than thở mà thôi. Học trò Ngài là Nam Cung Quát nghe vậy, liền về tâu với Lỗ Chiêu Công. Vua liền ban cho Ngài một cổ xe song mã và vài tên quân hầu cận để đưa Ngài và Nam Cung Quát đi Lạc Dương. Đến nơi, Đức Khổng Tử quan sát nhà Tôn miếu, nhà Minh đường, khảo cứu luật lệ và thư tịch đời cổ, đi xem Giao đàn là nơi nhà vua tế Thiên Địa và Tinh tú, rồi đến Xã đàn là nơi vua tế Thần Nông và Thần Hậu Thổ.

Nơi nào có quan hệ đến việc tế lễ thì Ngài đến quan sát và hỏi han cho tường tận. Ngài đến gặp Trành Hoành  để hỏi về Nhạc. Khi ở Lạc Dương, Đức Khổng Tử còn tìm đến gặp Đức Lão Tử để hỏi về Lễ. (Xem trở lại Tiểu sử của Đức Lão Tử trong phần  Lão giáo, để biết việc đối đáp giữa 2 vị Thánh nhân). Đức Khổng Tử ở Lạc Dương khảo sát các việc xong thì trở về nước Lỗ. Từ đó, sự học của Ngài càng rộng hơn nhiều nên học trò xin theo học càng lúc càng đông. Nhưng vua Lỗ vẫn chưa dùng Ngài vào việc nước.

Được mấy năm, trong nước Lỗ, Quý Bình Tử khởi loạn. Ngài theo Lỗ Chiêu Công tạm lánh sang nước Tề. Ở đây Ngài học được Nhạc thiều. Tề Cảnh Công mời Ngài tới để hỏi việc Chính trị. Vua Tề rất khâm phục, muốn đem đất Ni Khê phong cho Ngài, nhưng quan Tướng Quốc nước Tề là Yến Anh ngăn cản không cho. Năm sau, Ngài trở về nước Lỗ, thấy họ Quý dùng Dương Hổ để chuyên quyền, ý muốn tiếm đoạt. Ngài quay về quê lo việc dạy học, và nghiên cứu cho tường tận Đạo học của Thánh Hiền. Lúc đó Ngài được 36 tuổi.

Đến năm thứ 9 đời vua Lỗ Định Công, Ngài được 51 tuổi, được vua Lỗ mời ra làm quan, phong cho chức Trung Đô Tể lo việc cai trị ở Ấp Trung Đô, tức là đất Kinh thành. Một năm sau, 4 phương lấy chính sự của Ngài làm khuôn mẫu. Năm Lỗ Định Công thứ 10 (500 năm trước Tây lịch), Ngài phò vua Lỗ đi phó hội với Tề Cảnh Công ở Giáp Cốc. Nhờ tài ngôn luận và ứng đáp kịp thời, vua Tề rất khâm phục và trả lại cho nước Lỗ 3 khoảnh đất ở Quy Âm mà Tề đã chiếm của Lỗ từ mấy năm trước.

Qua năm sau, Đức Khổng Tử giữ chức Tư Không, rồi thăng lên Đại Tư Khấu (Hình Bộ Thượng Thơ) coi việc hình án. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn lộn, gian phi trộm cắp không còn nữa, xã hội được an bình thạnh trị.

Sau 4 năm, Lỗ Định Công phong Ngài lên làm Nhiếp Tướng Sự  (Tướng Quốc), coi  việc Chính trị trong nước. Ngài cầm quyền được 7 ngày thì tâu với vua Lỗ xin giết gian thần Thiếu Chính Mão để chỉnh đốn quốc chính.

7.3. Đức Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão

Thiếu Chính Mão là một nịnh thần rất nguy hiểm dưới trào Lỗ Định Công. Bấy giờ, Đức Khổng Tử đang làm quan Tướng Quốc nước Lỗ. Quý Tôn Tư, một vị Đại Thần quyền thế trong triều, nhưng luôn luôn hỏi ý kiến của Đức Khổng Tử  mỗi khi có một quyết định trong công việc trị nước. Nhưng phần Thiếu Chính Mão, khi Đức Khổng Tử nói ra câu gì thì liền gièm pha khiến cho người nghe phân vân và đôi khi bị mê hoặc. Đức Khổng Tử mật tâu với Lỗ Định Công:

– Nước Lỗ không cường thịnh lên được là vì trung nịnh không phân biệt, thưởng phạt không nghiêm minh. Thí dụ như muốn trồng lúa tốt tất phải trừ bỏ cỏ xấu. Xin Chúa công cho đem các đồ phủ việt (dùng vào việc hình) trong nhà Thái miếu bày ra ở dưới Lưỡng quán để dùng vào việc hình. Lỗ Định Công thuận cho. Sáng hôm sau, Lỗ Định Công truyền cho các quan triều đình hội nghị để bàn việc phá thành ấp xem lợi hại thế nào. Các quan người nói nên phá, người nói không nên phá. Thiếu Chính Mão đón ý Đức Khổng Tử, nói rằng:

– Phá thành có 6 điều tiện:

1. Để tôn trọng quyền vua không ai bằng.

2. Để tôn trọng cái quyền thế Đô thành.

3. Để ức quyền tư môn.

4. Để khiến cho kẻ gia thần lộng quyền không cho nương cậy.

5. Để yên lòng 3 nhà: Mạnh, Thúc, Quý.

6. Để khiến cho các nước nghe việc nước Lỗ ta làm mà phải kính phục.

Đức Khổng Tử tâu với Lỗ Định Công:

– Thành ấp nay đã thế cô còn làm gì được, huống chi Công Liễm Dương vẫn có lòng trung với vua, sao dám bảo là lộng quyền. Thiếu Chính Mão dùng lời nói khéo để làm loạn chính trị, khiến vua tôi ly gián, cứ theo phép thì nên giết.

Các quan trong triều tâu:

– Thiếu Chính Mão là người danh giá ở nước Lỗ ta, dầu có nói lầm đi nữa cũng chưa đến tội chết.

Đức Khổng Tử lại tâu với Lỗ Định Công:

– Thiếu Chính Mão là người dối trá mà lại biện bác, làm cho người ta mê hoặc. Nếu không giết đi thì việc chính trị không thi hành nổi. Xin Chúa Công cho đem phủ việt ra để trị tội.

Đức Khổng Tử truyền cho lực sĩ trói Thiếu Chính Mão đem đến  Lưỡng quán mà giết đi. Các quan trong triều đều sợ hãi, xám xanh cả mặt. Ba nhà: Mạnh, Thúc Quý, trông thấy cũng đều  kinh sợ.

Từ khi giết xong Thiếu Chính Mão, Lỗ Định Công và 3 nhà Mạnh, Thúc, Quý  mới một lòng nghe theo lời của Đức Khổng Tử. Nhờ vậy, Đức Khổng Tử chỉnh đốn kỷ cương trong nước, dạy dân những điều lễ, nghĩa, liêm, sĩ, nên dân không còn nhiễu loạn mà chính trị  mỗi ngày một hay.

Ba tháng sau, phong tục biến cải cả: Các nhà buôn gà và heo không dám nhồi cám vào để dối người mua; trong khi ra đường, trai gái đi phân biệt nhau, không hỗn loạn, thấy của rơi ngoài đường thì không ai lượm, người nước khác du lịch đến nước Lỗ được tiếp đãi tử tế, không để cho thiếu thốn. Dân nước Lỗ có làm một bài ca để tán tụng công đức của Khổng Tử. Bài ca ấy được truyền tụng sang nước Tề. Tề Cảnh Công lo ngại nói rằng:

– Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu ắt nên nghiệp Bá, tất họa đến nước Tề, ta biết làm thế nào?

Quan Đại Phu Lê Di tâu rằng:

– Chúa Công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không lập cách ngăn đi.

Tề Cảnh Công nói:

 – Nước Lỗ giao quyền chính trị cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được?

Lê Di tâu:

– Tính con người ta, hễ được cường thịnh tất sinh lòng kiêu mạn. Xin Chúa Công lập một Bộ Nữ Nhạc mà đem dâng vua Lỗ. Vua Lỗ mà nhận Bộ Nữ Nhạc tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ tất Khổng Khâu phải bỏ nước Lỗ mà đi, Chúa Công mới có thể ngồi yên được.

Quả vậy, Lỗ Định Công, không nghe lời can gián của Đức Khổng Tử, nhận Bộ Nữ Nhạc thì mê say theo, bỏ bê việc triều chính, có khi luôn 3 ngày không ra coi triều, mọi việc đều giao cả cho Họ Quí. Đức Khổng Tử can gián vua Lỗ nhiều lần nhưng không được, lại có thể bị hại vì lời gièm siễm của bọn gian thần. Do đó, trong ngày Lễ Tế Giao, vua Lỗ không nhìn đến, cũng không đem phần thịt tế biếu cho các quan Đại Phu. Đức Khổng Tử nhân việc lỗi nhỏ của vua Lỗ mà xin từ chức, bỏ nước Lỗ đi chu du các nước chư hầu.

7.4. Thời kỳ soạn sách và dạy học trò

Khi trở về nước Lỗ, Đức Khổng Tử đã 68 tuổi. Ngài trở lại quê nhà để mở mang việc dạy học và soạn sách. Tổng số môn đệ của Đức Khổng Tử có lúc lên tới 3000 người (Tam thiên đồ đệ), trong đó có 72 người được liệt vào hạng tài giỏi, nên gọi là Thất thập nhị Hiền.

Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh Hiền đời trước như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch. Ngài ghi chú các lời nói của Thánh Hiền đời trước, xếp đặt lại cho có thứ tự, chú thích những chỗ khó hiểu, nhất là với Kinh Dịch, Ngài chú giải rất kỹ.

Sau đó, Đức Khổng Tử viết ra sách Xuân Thu để bày tỏ cái Đạo của Ngài.

Đức Khổng Tử là bậc Chí Nhân Chí Thánh, nhưng Ngài vẫn khiêm tốn không dám nhận mình là Thánh nhân. Đối với các môn đệ, Ngài rất dễ dãi. Hễ ai theo đúng lễ đến xin học thì Ngài không bao giờ từ chối. Ngài thâu nhận học trò, không kể giàu nghèo, con quan hay con dân. Ngài mở ra một nền giáo dục bình dân đại chúng, đào tạo được một lớp người trí thức mới, tài giỏi và có đức hạnh trong giới bình dân.

7.5. Đức Khổng Tử tạ thế

Mùa Xuân năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 trước Tây lịch), người nước Lỗ đi săn bắt được một con kỳ lân què một chân bên trái phía trước. Đức Khổng Tử đến xem rồi bưng mặt khóc. Khi trở về, Ngài than rằng: “Ngô đạo cùng hỹ!” (Đạo của ta đến lúc cùng !).

Sách Xuân Thu chép đến chuyện này thì hết, nên đời sau còn gọi sách Xuân Thu là Lân Kinh. Năm Nhâm Tuất đời Lỗ Ai Công thứ 17 (479 trước Tây lịch), một hôm Đức Khổng Tử chống gậy đi tản bộ trước nhà, vừa đi vừa hát: Thái sơn kỳ đồi hồ! Lương mộc kỳ hoại hồ! Triết nhân kỳ nuy hồ! (Núi Thái sơn đổ ư! Cây gỗ tốt hư hoại ư! Triết nhân mòn mỏi ư !). Học trò của Ngài là Tử Cống liền đến hỏi thăm Ngài. Ngài nói: “Ta biết mình sắp chết”. Đến ngày Kỷ Sửu, tức là ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất, Đức Khổng Tử tạ thế, hưởng thọ 73 tuổi.

Mộ của Ngài ở bên bờ sông Tứ Thủy, phía Bắc thành nước Lỗ, nay gọi là Khổng Lâm, thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Ba ngàn đồ đệ của Ngài đều thương tiếc và than khóc, nguyện để tang Thầy 3 năm. Có hơn 100 môn đệ làm nhà chung quanh phần mộ để lo phụng tự  trong 3 năm, riêng Tử Cống ở đó hết 6 năm  mới thôi. Chu vi đất quanh mộ của Đức Khổng Tử rộng chừng 100 mẫu mà không hề có cây gai và cỏ may mọc. Học trò bảo nhau đi tìm các thứ hoa thơm cỏ lạ ở các nơi đem về trồng khắp chung quanh.

8. Phần Kết

Xin trích ra sau đây lời nhận xét của Ông Phan Kế Bính, viết trong quyển Việt Nam Phong Tục, về Nho giáo VN, để làm phần kết của bài khảo luận về Nho giáo này. “ Đạo Nho là một đạo bình thường giản dị, thuận theo lẽ tự nhiên của Tạo Hóa, hợp với tính tình đương nhiên của người ta, ai cũng có thể noi theo được. Người mà có Nho học thì nên một người nết na, có phép tắc, có lòng nhân  ái. Nước mà dùng đạo Nho thì nên một nước có kỷ cương, có thể thống,  dễ cho việc cai trị, mà nhân dân cũng được hưởng phước hòa bình.

Duy có một điều: Triết lý thì nhiều điểm viển vông, khiến người ta khó hiểu, thủ lễ thì lắm sự câu thúc khiến người ta khó theo. Tính tình thì chuộng êm ái hòa nhã khiến cho dân khí nhu nhược, không hùng dũng hoạt động như tính người Âu Châu, nhu dụng thì chuộng cách tiết kiệm tầm thường, khiến cho kỹ nghệ thô sơ, không được tinh xảo phát đạt như các nước Âu Châu.

Nói rút lại, đạo Nho là một đạo tự trị rất hay, mà đem đối với đời cạnh tranh thì không mạnh. Còn như các thói hủ bại, phần nhiều là bởi tự người làm nên tệ, chớ không nên đổ cho tại Nho giáo. Tuy vậy, nước ta cũng nhờ có Nho học mới theo được các văn minh của nước Tàu, mà nên một nước có văn chương, có chính trị, có luân thường, có học thức.

Nếu trước khi chưa có Âu học, mà lại không có Nho học, thì nước ta chẳng qua cũng là một nơi mọi rợ mà thôi. Vậy thì cái công của Nho giáo truyền sang nước ta rất to, dẫu khi nào nhờ Âu học mà nên một nước thạnh vượng hơn trước, ta cũng không nên quên cái công ấy. Vì cái công ấy đã mở mắt cho ta, ví như đứa trẻ thơ, trước nhờ một ông thầy dạy bảo cho mở một đôi chút trí khôn, về sau dẫu có nhờ được ông thầy khác, học được thêm khôn thêm khéo, thì cũng không nên quên cái công của ông thầy trước. Và cứ theo Đạo Nho mà dùng cho khéo, bỏ những điều câu  thúc hủ bại, đem cách trí, tư  tưởng  mới để  bổ vào những nơi khuyết điểm thì cũng nên được một nước phú cường thạnh vượng, mà có lẽ lại hay hơn nữa.

Tôi thấy gần nay, các ông cựu Nho thở vắn than dài riêng với nhau rằng đạo Nho ta suy đồi, sắp đến ngày tiêu diệt. Tôi thiết tưởng, vật gì lâu ngày cũng phải mục nát, mà đạo nào cũng có lúc thạnh lúc suy. Huống chi, một thời biến đổi, là một cơ hội của Tạo Hóa xây vần, cái nền cũ có đổ nát thì  mới gây nên được cái nền  mới.

❁❁❁
Xem thêm: Tu thân theo Nho Gia.

5 1 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

1 Bình luận
Cũ nhất
Mới nhất Được bình chọn nhiều nhất
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
trackback

[…] 1. Tìm hiểu về Nho Giáo […]

1
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x