Trang chủ » Chương 4 – THIÊN TÀI ĐƯỢC SINH RA NHƯ THẾ NÀO?

Chương 4 – THIÊN TÀI ĐƯỢC SINH RA NHƯ THẾ NÀO?

by Hậu Học Văn
149 views

1.

Đây là ví dụ được nhà văn Pháp Rousseau đưa ra trong cuốn Emile: “Giả sử ta có hai con chó. Chúng được sinh ra từ cùng một mẹ, được nuôi dưỡng và dạy dỗ như nhau, nhưng một con rất thông minh nhanh nhẹn, con kia lại ngốc nghếch chậm chạp. Điều này hoàn toàn là do bẩm sinh”. Hay một ví dụ khác lấy từ truyện ngụ ngôn của nhà sư phạm Thụy Sĩ Pestalozzi: “Có hai con ngựa. Một con được người nông dân tham lam dạy bảo. Người này ngay lập tức sử dụng nó để kiếm tiền và kết quả không thu được bao nhiêu. Con thứ hai được người nông dân khôn ngoan dạy bảo, kết quả là con ngựa trở nên rất có ích”.

Hai câu chuyện này đại diện cho hai quan điểm về tư chất và hoàn cảnh. Người thứ nhất đề cao tư chất bẩm sinh và cho rằng số phận con người hoàn toàn là do Chúa Trời ban cho, không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Người thứ hai thì ngược lại – cho rằng hoàn cảnh là yếu tố quan trọng hơn.

Từ xưa đến nay, đa số chúng ta vẫn nghĩ như Rousseau, chỉ rất ít người có suy nghĩ như Pestalozzi. Người tiên phong ủng hộ quan điểm của Pestalozzi là triết gia người Pháp Helvetius. Ông cho rằng trẻ con sinh ra hoàn toàn giống nhau. Việc chúng trở thành thiên tài, nhân tài, người bình thường hay kẻ dốt nát, đều là do tác động của môi trường sống, nhất là trong những năm đầu đời. Ông phủ nhận hoàn toàn vai trò của tư chất. Cha của Witte đã tiếp thu tư tưởng của Helvetius, tuy nhiên ông tiến bộ hơn ở chỗ không phủ nhận giá trị của tư chất. Điều này thể hiện rất rõ trong phần đầu cuốn sách của ông: “Độc giả có thể nghĩ rằng cuốn sách của tôi viết ra là để cho các nhà giáo dục tham khảo, nhưng không phải như vậy. Các nhà giáo dục coi tôi như kẻ thù và tôi có muốn viết cho họ tham khảo cũng không được. Từ rất lâu rồi, tôi vẫn nói rằng giáo dục tốt có thể khiến một đứa trẻ bình thường trở nên phi phàm.

Và kết quả sự giáo dục của tôi là con trai tôi đã trở thành người đúng như thế. Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi: vậy tại sao các nhà giáo dục không dạy dỗ học trò theo cách của Witte? Phải chăng họ không đủ năng lực? Đòi hỏi này là vô lý và tôi đã cố làm rõ ngay từ đầu, nhưng vô hiệu.

Vì tôi mà các nhà giáo dục bị coi là bất tài, thế nên việc họ có coi tôi như kẻ thù cũng dễ hiểu. Trên thực tế, nếu giáo dục trong gia đình không tốt thì các nhà giáo dục có tài ba đến mấy cũng không thể dạy dỗ trẻ thành tài được.

Vậy tại sao tôi lại công bố cuốn sách này? Bởi vì những người ghét tôi dù rất nhiều, nhưng những người ủng hộ tôi cũng không ít. Đó là những người bạn luôn tin tưởng, động viên tôi trong suốt thời gian qua. Từ đáy lòng mình, tôi rất biết ơn họ. Chính họ đã khuyến khích và mong mỏi tôi công bố phương pháp giáo dục mà tôi đã áp dụng với con trai mình. Tôi không cam đoan rằng phương pháp giáo dục của tôi, nếu được áp dụng, sẽ mang lại hiệu quả giống như tôi. Hơn nữa, không phải đứa trẻ nào cũng cần được giáo dục như con tôi. Nhưng tôi tin rằng phương pháp của tôi ít nhiều cũng sẽ mang lại hiệu quả với bất kỳ ai.

Pestalozzi là người đầu tiên thừa nhận phương pháp giáo dục của tôi và tin rằng tôi chắc chắn sẽ thành công. Ông cũng là người khuyên tôi công bố cuốn sách. Giáo sư Julian ở trường Đại học Paris cũng khuyên như vậy. Khi tôi quyết định viết sách cũng là lúc tôi nhận được thư của Pestalozzi (ngày 4 tháng 9 năm 1817), trong đó có đoạn viết. “Tôi nhớ 14 năm trước, anh đã từng nói về vấn đề giáo dục ở Buseto, Ý. Hồi đó, anh nói sẽ áp dụng phương pháp giáo dục đặc biệt của mình để đạt hiệu quả tốt nhất cho con. Nay đã 14 năm trôi qua, tôi thấy con trai anh còn vượt xa cả dự định ban đầu của anh. Nhưng nhiều người không biết điều đó. Họ nghĩ con trai anh sinh ra đã tài giỏi như thế, chứ không phải nhờ anh giáo dục mà nên. Nhân dịp này, anh hãy công bố phương pháp của mình, chắc chắn nó sẽ giúp ích cho nhiều trẻ em khác. Tôi nghĩ đây là việc nên làm và tôi tha thiết mong anh hãy nhanh chóng thực hiện”.

Tiếc rằng đến nay vẫn rất ít người có suy nghĩ như cha của Witte.

2.

Chúng ta biết rằng Francis Galton là người khởi xướng Thuyết Ưu sinh. Ông cho rằng năng lực trí tuệ là tư chất, là đặc tính di truyền, cũng như màu mắt hay nhóm máu vậy. Vì thế, những người thông minh và khỏe mạnh nên được đối xử tốt, trả lương cao và nên khuyến khích họ sinh nhiều con cái. Còn những người “chẳng ra gì” chỉ cần được đối xử tử tế, miễn là họ phải chịu khó làm việc và sống độc thân. Học thuyết đó đưa ra ví dụ sau:

“Cách đây hơn 200 năm, ở Mỹ có một nhà bác học đa tài là Jonathan Edwards. Ông là nhà thần học, triết học, nhà thuyết giáo nổi tiếng nhất trong cộng đồng Tin Lành ở Mỹ thời đó. Con cháu ông hiện đã đến đời thứ 7, 8. Trong số đó, hiệu trưởng các trường đại học có 13 người, giảng viên đại học hơn 100 người, sáng lập viên đại học 14 người, bác sĩ hơn 60 người, mục sư hàng trăm người, quân nhân 75 người, nhà văn hơn 80 người, phó tổng thống 1 người, đại sứ 1 người, thượng hạ viện hơn 20 người, chủ bút các báo và tạp chí 18 người… Có thể nói đây là dòng họ vô cùng thành đạt.

Cũng khoảng 200 năm trước có một người nghiện rượu tên là Marks Juke. Con cháu đến nay cũng được 7, 8 đời. Trong số đó, nghèo khổ thiếu ăn hơn 300 người, phạm tội bị tử hình 7 người, cướp bóc trộm cắp 63 người, chết và tàn phế vì nghiện rượu hơn 400 người, bị đưa vào trại giáo dưỡng 50 người. Số người sống bình thường khoảng 20 người và 10 người trong số đó làm việc trong các nhà tù”.

Trong các cuốn sách của những học giả thuộc trường phái Ưu sinh có rất nhiều những ví dụ tương tự, qua đó có thể thấy vấn đề di truyền rất được coi trọng.

Ta lại xem đến một ví dụ khác.

“Ở New York có một Hiệp hội Tương trợ Trẻ em. Hiệp hội này chuyên nuôi dưỡng trẻ em nghèo, trẻ em bị bỏ rơi, cô nhi. Nhưng hội này có cách làm khác với cô nhi viện. Với phương châm là những đứa trẻ này phải được giáo dục tốt trong những gia đình tốt, chúng được cho làm con nuôi (cùng với một số tiền tương ứng) tại những gia đình đã được lựa chọn kỹ càng.

Hội này đến nay đã có lịch sử hơn 50 năm và số trẻ được cho làm con nuôi lên khoảng 28.000 trẻ. Chúng hầu hết là con của những người bần hàn, khốn khổ, vì thế nếu nhìn từ quan điểm của Thuyết Ưu sinh thì tương lai của chúng sẽ rất u ám, không có triển vọng gì. Nhưng thực tế chúng lại có thành tích rất tốt. Theo báo cáo gần đây, 87% trong số họ là người thành đạt, trong đó có cả những người đứng đầu bang. Thống đốc Alaska cũng xuất thân từ đó. Có người làm thẩm phán cấp cao, có người làm thị trưởng, có người làm thanh tra tài chính bang, 2 người trong hạ viện, ủy viên bang 9 người, quan chức trọng yếu hơn 20 người, mục sư 24 người, luật sư 35 người, bác sĩ 19 người, phóng viên 16 người, chủ ngân hàng 29 người, giáo viên 86 người, hiệu trưởng trường trung học 7 người, giảng viên đại học 2 người, ngoài ra những người thành công trong nông nghiệp, kinh doanh nhiều không kể xiết. Số còn lại thì 8% trở về New York, 2% bị trả về cho Hiệp hội, có người chết, có người bỏ trốn, có người phạm tội, nhưng đó hầu hết là những trẻ được đưa vào Hiệp hội khi đã khá lớn. Về cơ bản, có thể nói rằng Hiệp hội này đã đạt được những thành quả rất đáng ngưỡng mộ. Vậy nguyên nhân của thành công này là gì? Nói một cách đơn giản thì đó là nhờ môi trường tốt và sự giáo dục tốt.

Người đứng đầu bang Dakota và thống đốc bang Alaska, Mỹ, đều là con nhà nghèo và bị cha mẹ bỏ rơi, sau được Hiệp hội này cho làm con nuôi trong những gia đình nông dân, nhưng họ đều được hưởng nền giáo dục rất tốt. Một chi tiết khá thú vị là con cháu đời thứ 9 của Marks Juke trong ví dụ trước cũng được đưa vào Hiệp hội và đã được một gia đình nhận nuôi. Hiện cậu bé 12 tuổi, đang là học sinh xuất sắc và được đánh giá là có nhiều triển vọng”.

Đưa ra những ví dụ trên không có nghĩa tôi hoàn toàn phản đối Thuyết Ưu sinh. Tôi thừa nhận vai trò của di truyền, nhưng nếu chỉ bám vào thuyết này rồi cho rằng vận mệnh con người cũng di truyền và phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sinh học, từ đó coi nhẹ ý nghĩa của giáo dục thì thật sai lầm.

Nếu được giáo dục đúng cách ở một môi trường lành mạnh thì ngay cả những trẻ em không hề có triển vọng, theo quan điểm của Thuyết Ưu sinh, vẫn hoàn toàn có thể trở thành nhân tài. Tôi khẳng định rằng giáo dục có thể mang lại kết quả lớn hơn rất nhiều lần so với những gì người ta có thể tưởng tượng.

3.

Khi nói về vấn đề thiên tài, Galton không hề nhìn vào khía cạnh nào khác, ngoài di truyền. Vì thế cũng như rất nhiều người, ông không công nhận giá trị của giáo dục, nhất là giáo dục từ sớm. Ông chỉ đưa ra những ví dụ về thiên tài mang yếu tố di truyền rồi tập trung lập luận theo hướng đó.

Tuy nhiên, thiên tài do di truyền lại đặc biệt hiếm. Tại sao vậy? Theo Thuyết Ưu sinh thì khả năng của con người cũng là một yếu tố di truyền – điều này là có thực. Nhưng sự di truyền của khả năng không giống như sự thừa kế tài sản. Tài sản là thứ hữu hình, còn khả năng là vô hình. Cái mà cha mẹ truyền cho con chính là khả năng tiềm tàng mà nếu cứ để nguyên như thế thì chúng sẽ chỉ ở trạng thái tiềm tàng, không thể phát huy tác dụng. Những người theo Thuyết Ưu sinh cho rằng khả năng tỉ lệ thuận với tư chất. Nghĩa là nếu đứa trẻ có sẵn tư chất “thiên tài bẩm sinh” là 80 thì dù tốt xấu thế nào, khả năng của nó cũng sẽ được gần 80; nếu tư chất là 60 thì sau cùng khả năng sẽ đạt gần 60… Nhiều người còn tin rằng trẻ sinh ra mà sẵn có tư chất ưu việt thì sớm muộn gì cũng thành thiên tài.

Thật sai lầm!

Trên thực tế, nếu trẻ không được giáo dục đúng cách thì chỉ có thể phát huy một nửa khả năng. Đối với một thiên tài thì tư chất là quan trọng, nhưng quan trọng hơn là làm thế nào để phát huy tư chất đó. Nói như vậy không có nghĩa là tôi phủ nhận yếu tố di truyền. Tôi thừa nhận. Nhưng nếu chỉ có tư chất thôi chưa đủ. Tư chất đó phải được phát huy trọn vẹn thông qua sự giáo dục từ sớm. Đáng tiếc là rất nhiều người sẵn có tư chất, nhưng vì không được phát huy nên cuối cùng chỉ trở thành người bình thường. Thiên tài hiếm hoi là vì thế.

4.

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về tư chất cần có của một thiên tài. Triết gia Đức Schopenhauer cho rằng thiên tài là sự khách quan. Tuy nhiên, khách quan cần đặt trong phạm trù đối lập với chủ quan để hiểu rằng thiên tài là do nhiều yếu tố tạo thành.

Nhà tự nhiên học Pháp Buffon nói rằng thiên tài là kết quả của sự kiên nhẫn, còn nhà thơ Đức Goethe nói thiên tài là kết quả của sự cần cù. Tôi tin điều đó. Và tôi cũng tin rằng thiên tài là kết quả tổng hòa của nhiệt tình, say mê, nỗ lực, chăm chỉ, kiên nhẫn, và cả óc tưởng tượng. Những thiên tài mà chúng ta biết đều hội tụ các phẩm chất này.

Chúng ta thử kiểm chứng lại những đức tính này qua các ví dụ cụ thể.

Buffon là một tấm gương điển hình của tính nhẫn nại. Ông đã chỉnh sửa bản thảo cuốn Các kỷ nguyên của tự nhiên tới 11 lần mới cảm thấy hài lòng. Goethe là một ví dụ tiêu biểu cho sự cần cù. Tác phẩm Faust của ông mất 14 năm mới hoàn thành. Maro mất 11 năm để hoàn thành kiệt tác Aeneis. Edward Gibbon mất 15 năm để hoàn thành Lịch sử Roma. Montesquieu mất 25 năm để xong Tinh thần luật pháp, Butler tốn 20 năm để hoàn thành Analogy. Harvery cần 26 năm để hoàn thành Exercitatio de motu cordis et sanguinis in animalibus. Tuker cũng mất 18 năm để hoàn thành The Tight of nature Pursed. Ariosto mất 10 năm để hoàn thành Orlando furioso. Gibbon chỉnh sửa bản thảo Memories 7 lần. Bobois chỉnh sửa Provinciales tới 17 lần.

Năm 1814, mặc dù cả nước Pháp đang hỗn loạn bởi Paris bị các nước liên minh bao vây, nhưng Don Rumble vẫn giữ được sự bình thản để ngắm những vì sao đêm; Spinoza vẫn mải mê mài những chiếc thấu kính trong một căn phòng thuê. Họ là những tấm gương sáng về khả năng tập trung và tính kiên trì. Palissy quên ăn quên ngủ miệt mài vào việc chế tạo đồ gốm trong suốt 18 năm; Herschel suốt một đời sống cùng em gái trong cảnh cơ hàn nhưng vẫn không từ bỏ niềm say mê nghiên cứu thiên văn học. Những thành quả của nhà thiên văn học Halley, “vua phát minh” Edison và vô số những nhà khoa học khác cũng không thể không có sự say mê, nhiệt tình, nhẫn nại… Khi Định luật Vạn vật Hấp dẫn được công bố, có người đã hỏi Newton: “Làm sao ông phát hiện ra điều vĩ đại như vậy?”. “Đó là nhờ suy nghĩ không ngừng”, Newton trả lời không do dự. Michelangelo cũng nói: “Điêu khắc không hề làm tôi mệt mỏi vì đó là đam mê của tôi” và không ngày nào ông không dành thời gian cho công việc này. Họa sĩ Reynolds đã rất nhiều lần từ chối những chuyến đi chơi với bạn bè để chuyên tâm vào việc sáng tác – ông xem công việc như một nhu cầu thiết yếu, như không thể sống mà không ăn vậy. Trong một cuộc gặp gỡ cuối năm ở Manchester, nhà vật lý và hóa học Anh John Dalton nói rằng: “Nếu những việc tôi làm được mọi người ghi nhận thì đó không phải là kết quả tài năng của tôi, mà là kết quả của sự làm việc chăm chỉ và kiên nhẫn”.

Một trong những yếu tố làm nên thành công của Hoàng đế Napoleon là ông luôn dành thời gian suy nghĩ về các chiến thuật. Ngay cả những lúc đi xem nhạc kịch giải trí thì “thân xác ông ở trong rạp hát mà tâm trí ông dường như đang ở ngoài chiến trận”. Nhạc sĩ thiên tài Mozart lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc lựa chọn giai điệu cho các bản nhạc của mình. Dante viết Thần khúc bằng tinh thần say mê hiếm thấy trong nhiều ngày tháng làm việc miệt mài.

Những ví dụ như thế này không biết bao nhiêu mà kể. Nhà thơ Nhật Bản Raisanyo cũng từng nói: “Người nào nói biết rõ tài năng của thiên tài thì chỉ là những kẻ không biết gì. Chính những người hiểu rõ khó khăn của thiên tài mới là những người thật sự hiểu biết”. Đây là một câu nói thâm thúy.

5.

Kiên trì, cần cù, nhẫn nại là phẩm chất không thể thiếu của thiên tài và họ sẵn sàng dành ra nhiều năm tháng để hoàn thành tác phẩm tâm huyết của mình. Tuy nhiên, có những tác phẩm được sáng tác trong khoảng thời gian rất ngắn, chẳng hạn như Erasmus viết Encomium Moriae chỉ trong 7 ngày, Dumas viết Bá tước Monte Cristo trong vòng 16 ngày, Byron viết Người tù ở Chillon chỉ trong vòng hai ngày tại một căn phòng trọ trong một lần ông đi du lịch vào năm 1816…

Khi bàn đến vấn đề tốc độ nhanh hay chậm để đạt được thành công, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện vui. Có lần, họa sĩ Pháp Émile Jean-Horace Vernet đã ký tên bằng bút chì lên một cuốn sổ tay kỷ niệm. Sau đó, ông nhận được khoản thù lao 1.000 Franc. Mọi người nói đùa: “Chỉ mất 5 phút mà kiếm được 1.000 Franc, có quá nhiều chăng?”.Vernet trả lời: “Để mất 5 phút như thế này tôi đã phải rèn luyện suốt 30 năm vất vả”.

Tuy nhiên, tôi cho rằng vấn đề ở đây không phải là thời gian. Việc tác phẩm hoàn thành nhanh hay chậm không phải là tiêu chuẩn để đánh giá người đó có được “xếp vào nhóm” thiên tài hay không, mà quan trọng là ở tính kiên nhẫn, tinh thần lao động nghiêm túc và quyết tâm theo đuổi ý tưởng đến cùng.

6.

Chúng ta hãy quay lại vấn đề chính. Các thiên tài, như đã đề cập ở trên, có một tính cách đặc trưng là niềm say mê mãnh liệt và sự tập trung cao độ. Trẻ nhỏ ngay từ khi còn ẵm ngửa đã có khả năng tập trung và hứng thú với mọi vật. Chỉ cần chịu khó quan sát kỹ trẻ nhỏ một chút là chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy điều này. Thực tế là trẻ nhỏ hoàn toàn có khả năng tập trung. Cha Witte cũng viết trong cuốn sách của mình: “Khi thấy con tập trung chú ý vào cái gì, tôi liền hướng vào cái đó để nói”. Nếu biết nắm bắt đúng thời điểm và tích cực tác động, chúng ta có thể giúp trẻ phát huy tối đa năng lực.

Thế nhưng tại hầu hết các gia đình, niềm hứng thú và nhiệt huyết của trẻ lại thường bị dập tắt, chẳng khác nào mầm cây mới nhú ra đã bị dẫm nát. Thế giới khan hiếm thiên tài chính là bởi lý do đó. Tiềm năng này, nếu được trợ giúp và khuyến khích để phát triển, chắc chắn sẽ tạo ra một thiên tài, hay ít ra là một nhân tài. Vấn đề then chốt ở đây là sự giáo dục từ sớm.

Nhưng từ xưa đến nay đã mấy ai áp dụng phương pháp giáo dục từ sớm, vậy thiên tài do đâu mà có? Đương nhiên, một phần do họ thừa hưởng bộ mã di truyền tốt với khả năng thiên phú dồi dào, cũng như sẵn có niềm hứng thú và nhiệt huyết. Và quan trọng là tinh thần ham học hỏi của họ không bị “vùi dập” kiểu dẫm nát mầm cây. Họ là những người may mắn được phát triển đúng hướng. Nói cách khác, họ may mắn bởi vì nhiều trẻ dù có sẵn tư chất thiên tài nhưng vẫn không có cơ hội để phát huy hết khả năng. Do không biết bí quyết của thiên tài nằm ở sự say mê và lòng kiên nhẫn nên nhiều bậc cha mẹ đã không rèn luyện đức tính này cho trẻ từ sớm.

Việc nuôi dạy để một người trở thành thiên tài cũng giống như trò chơi xổ số vậy, tỉ lệ trúng rất thấp, một trong hàng vạn. Tuy nhiên, nếu biết giáo dục khôn khéo, đúng cách thì chúng ta muốn có bao nhiêu thiên tài cũng được. Và điều này đòi hỏi cha mẹ phải nắm bắt “thời điểm vàng” khi trẻ thể hiện sự hứng thú và tập trung cao độ. Việc này càng để lâu càng khó và hiệu quả càng ngày càng giảm. Cho nên, giáo dục sớm và đúng lúc là hết sức cần thiết.

7.

Tuy ở phần lớn các gia đình, niềm hứng thú và lòng say mê của con trẻ thường bị người lớn dập tắt, nhưng đôi khi đam mê đó lại ngày càng bùng cháy và thiên tài chính là từ đó sinh ra. Trường hợp của nhà soạn nhạc Handel là một ví dụ. Cha Handel có ý định cho ông theo ngành luật, nhưng ngay từ lúc 5 tuổi Handel đã có hứng thú đặc biệt với âm nhạc. Cha ông tìm đủ mọi cách ngăn cấm, thậm chí không cho ông đến trường vì ở trường có dạy môn âm nhạc. Nhưng mọi biện pháp khi đó đều không ngăn được đam mê âm nhạc của Handel. Cậu bé giấu cha mẹ mua một cây đàn và buổi tối sau khi cả nhà đã ngủ say, ông trèo lên mái nhà và say sưa tập đàn trên đó. Trường hợp của Bach cũng tương tự như vậy. Anh trai Bach vốn là một nhạc sĩ, nhưng vì ganh ghét với em nên không cho mượn các bản nhạc. Nhưng Bach nghĩ ra một cách. Chờ lúc đêm khuya, ông lấy trộm các bản nhạc của anh và chép lại dưới ánh trăng. Cuối cùng, cả Handel và Bach đều trở thành những nhạc sĩ vĩ đại như mọi người đều biết.

Chúng ta thấy con của nhạc sĩ lớn lên thường có xu hướng trở thành nhạc sĩ, con của học giả lớn lên lại thành học giả… đó là vì sống trong cùng một gia đình, trẻ dễ dàng được nhìn, nghe và bắt chước những người đi trước. Thuyết Ưu sinh cho rằng đây là do yếu tố di truyền, nhưng như thế là không đúng. Thực ra, do sớm được nhìn, được nghe, nên trẻ sẽ có hứng thú, mà khi hứng thú thì trẻ sẽ dễ dàng tập trung.

Cha của nhà toán học và thiên văn học người Ý Galilei là một nhà toán học. Nhưng nhìn vào cuộc sống không mấy sung túc của mình, ông nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu có thể tránh để con theo nghiệp toán. Nhưng trước khi ông nghĩ đến điều này niềm đam mê toán học của Galilei-con đã được nhóm lên, vì thế dù cố gắng đến mấy ông cũng không thể dập tắt đam mê đó. Trường hợp của nhà thơ Ấn Độ Tagore cũng giống như vậy: cha ông cũng không muốn ông trở thành nhà thơ, nhưng cuối cùng đam mê mãnh liệt và sự kiên nhẫn của ông đã chiến thắng.

Như vậy có thể xem niềm đam mê được thắp lên từ thời thơ ấu cùng với nỗ lực miệt mài là cơ sở để hình thành thiên tài. Đam mê chính là “phép thuật” tạo nên những điều kỳ diệu. Nhưng đam mê này, nếu trong thời thơ ấu không có thì sau này cũng khó mà có được. Nhìn lại tiểu sử của các thiên tài, ta thấy họ đều là những người sớm bộc lộ đam mê, vì thế họ trở thành thiên tài cũng là lẽ tự nhiên. Theo cách nghĩ này thì việc tạo ra người bình thường (tầm thường) thật đơn giản. Đó là không cho trẻ tập trung vào thứ gì cả. Nếu không tập trung thì sẽ không hứng thú – đấy chính là đặc trưng của người tầm thường.

8.

Từ xưa đến nay, thiên tài thường được biết đến như những tài năng bộc lộ sớm. Tìm hiểu về tiểu sử các thiên tài thì thấy quả đúng như vậy, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật.

Các thiên tài được gọi là “thần đồng âm nhạc” thường bộc lộ tài năng từ rất sớm, khi mới chỉ 6, 7 tuổi, hay thậm chí từ lúc 3, 4 tuổi. Đa số họ sáng tác nhạc khi 11,12 tuổi. Mozart bắt đầu sáng tác từ khi mới 4 tuổi, viết nhạc kịch La finta semplice khi 12 tuổi, Mitridate re di Ponto khi 14 tuổi, Lucio Silla khi 17 tuổi, Idomeneo khi 25 tuổi và đã khiến cả châu Âu thời đó phải kinh ngạc. Beethoven cũng sáng tác từ năm 3 tuổi. Weber năm 12 tuổi đã trở thành nhạc trưởng của dàn nhạc cung đình và tác phẩm ca kịch Bellerophon ra đời khi ông 25 tuổi. Mendelssohn năm 16 tuổi đã viết vở ca kịch Đám cưới của Camacho, 19 tuổi viết bản nhạc Giấc mộng đêm hè và 20 tuổi đã sáng tác rất nhiều ca khúc.

Ngoài âm nhạc, lĩnh vực hội họa, mĩ thuật cũng có nhiều thiên tài được giáo dục từ sớm như Michelangelo, Raphael. Raphael hoàn thành tác phẩm Trận chiến của Centaurus năm 18 tuổi, Eros say ngủ và Dante năm 20 tuổi. Vernet vẽ tranh từ 5 tuổi và nổi tiếng trước 20 tuổi. Bức tượng Đấu sĩ bò tót của Botta được sáng tác khi ông 20 tuổi.

Rất nhiều nhà thơ nổi tiếng cũng sớm bộc lộ tài năng. Milton từ 4 tuổi đã làm thơ bằng tiếng La-tinh. Pope khi 4 tuổi đã sáng tác thơ bằng tiếng Hy Lạp, 12 tuổi viết Ode on Solitude và 16 tuổi viết The Pastorals. Wieland từ 3 tuổi đã đọc sách, 7 tuổi đọc thông thạo tiếng La-tinh và viết DieVollkomenmenste Welt năm 16 tuổi. Molière đã sáng tác rất nhiều vở kịch khi mới 10 tuổi. Voltaire 12 tuổi đã làm thơ.

Nhà toán học, vật lý học, triết gia người Pháp Blaise Pascal cũng là nhân tài sớm bộc lộ tài năng. Pascal nổi tiếng là thần đồng và tỏ rõ niềm say mê toán học từ năm 12 tuổi. Năm 16 tuổi, Pascal đã viết một luận án quan trọng về đối tượng của hình học ánh xạ. Tác phẩm này khiến rất nhiều nhà toán học nổi tiếng thời đó ngạc nhiên. Pascal cùng với Pierre de Fermat đã xây dựng nên lý thuyết xác suất – đây là công trình có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của kinh tế học hiện đại và các khoa học xã hội. Sau đó, ông đã từ bỏ lĩnh vực khoa học, dành tâm huyết vào nghiên cứu triết học và thần học.

Nhà toán học, nhà thiên văn người Ý- Pháp Joseph-Louis Lagrange đã trở thành giáo sư toán học tại trường Pháo binh Hoàng gia ở Torino năm 18 tuổi. Nhà toán học Scotland Colin Maclaurin trở thành giáo sư ở Đại học Aberdeen năm 19 tuổi. Luật sư, nhà triết học, thần học người Anh Francis Bacon vào Đại học Cambridge năm 13 tuổi và hoàn thành Novum Oraganum ngay khi còn học đại học, công bố Of the State of Europe năm 19 tuổi.

Nhà toán học, thiên văn học, địa lý học người Pháp Alexis Claude de Clairaut bộc lộ năng khiếu toán học từ nhỏ. Năm 13 tuổi, ông đã công bố luận văn liên quan đến đường cong thứ tư và xuất bản sách về vấn đề đó năm 16 tuổi. Năm 1731, ở tuổi 18, ông đã là thành viên của viện Hàn lâm Khoa học Pháp.

Nhà toán học Đức Gotthold Ephraim Lessing khi còn học trung học đã dịch tập 3 và 4 quyển hình học của Euclide, 15 tuổi đã diễn thuyết bằng tiếng La-tinh về luận đề toán De Mathematica Barbaroru. Luật sư Alexander Hamilton thông thạo 13 thứ tiếng khi mới 13 tuổi. Nhà vật lý, nhân chủng học người Đức Johann Friedrich Blumenbach viết Nhân loại luận khi 23 tuổi. Bác sĩ, nhà phẫu thuật người Anh Edward Jenner tìm ra phương pháp chữa bệnh đậu mùa khi chưa đầy 20 tuổi. Triết gia, nhà hùng biện, chính khách và nhà lý luận chính trị La Mã Marcus Tullius Cicero khi 13 tuổi đã viết luận văn liên quan đến thuật hùng biện.

Những ví dụ như thế kể cả ngày cũng không hết. Vậy tại sao hầu hết các thiên tài lại có thể bộc lộ tài năng từ sớm? Nhìn vào những ví dụ ở trên, chúng ta thấy có những thiên tài thành công chỉ bằng cách tự tìm tòi học hỏi mà không hề được khuyến khích hay hỗ trợ. Điều này khiến không ít người nghĩ rằng trên thế giới có những người đặc biệt, không cần giáo dục mà vẫn thành thiên tài. Đây là suy nghĩ sai lầm! Các thiên tài chắc hẳn đều là những người được giáo dục từ sớm, nhưng các ghi chép về họ lại không mấy lưu ý đến vấn đề này. Tôi tin chắc rằng dù là thiên tài hay nhân tài, dù tự học hỏi hay nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, họ đều được lớn lên trong nền giáo dục sớm.

9.

Nhiều thiên tài có kết quả học tập lúc nhỏ rất kém cỏi, thậm chí có người còn bị đánh giá là ngốc nghếch.

Có hai người bạn học thời tiểu học. Trong hai người thật khó phân định ai xứng đáng ở vị trí “đội sổ” hơn ai. Sau 12 năm, hai người tình cờ gặp lại nhau. Một người đã trở thành giám đốc nhà hát kịch ở Vienne, còn người kia là nhà hóa học nổi tiếng Liebig. Khi Liebig còn học ở trường, một lần hiệu trưởng đã đích thân đến gặp và bảo: “Kết quả học tập của em thực sự làm thầy cô rất buồn, mà đối với cha mẹ thì như thế em cũng không phải là đứa con ngoan. Cứ học tập như thế này thì tương lai của em không thể sáng sủa được”. Nhưng không muốn làm Liebig buồn nên ông đổi cách trò chuyện: “Sau này em muốn làm gì?”, ông hỏi. Liebig trả lời không do dự: “Em muốn trở thành nhà hóa học”. Nghe vậy, thầy hiệu trưởng phì cười. Câu chuyện này chính Li- ebig đã ghi lại trong cuốn tự truyện của mình. Vì điểm số ở trường của Liebig quá kém nên cha cậu bắt nghỉ học và gửi vào trường cho theo học nghề thuốc. Sau 10 tháng “quản thúc” không hiệu quả, cha đành cho Liebig về nhà.

Nhà thực vật học, bác sĩ, nhà động vật học người Thụy Điển Carl von Linné, tuy được coi là “ông tổ” của ngành thực vật học nhưng thời tiểu học cũng là một trong những học sinh kém. Một lần, thầy hiệu trưởng đã gửi cho cha Linné lá thư với nội dung: “Con trai ông có vẻ không phù hợp với con đường học vấn. Theo ý tôi, nên sớm cho cháu nghỉ học, kiếm cho cháu một công việc liên quan đến tay chân thì tốt hơn”. Thậm chí giấy chứng nhận tốt nghiệp của Linné cũng có lời nhắn nhủ của thầy hiệu trưởng: “Các học sinh ở trường này đều như những hạt mầm đang được ươm trồng trong vườn. Có một vài hạt tuy không thể nảy mầm, trổ bông, nhưng nếu nỗ lực chăm sóc thì một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, hạt sẽ nảy mầm, đơm hoa kết trái. Tôi chỉ có một mong muốn nhỏ nhoi này gửi gắm các em trong lễ tốt nghiệp”. Tờ giấy chứng nhận tốt nghiệp đó sau này trở thành kỷ vật quý giá của Linné. Tuy nhiên, nó cũng như một bằng chứng về kết quả học tập tồi tệ của ông thuở nhỏ.

Hồi cấp hai, Darwin cũng thường bị rầy la vì tội học dốt, lại lười biếng. Trong nhật ký của mình, Darwin ghi rằng: “Tôi làm cả thầy cô và cha mẹ đều thất vọng vì tôi chỉ là một đứa trẻ bình thường, không có gì thú vị, thậm chí năng lực tiếp thu còn kém hơn những đứa trẻ bình thường khác. Cha thường mắng tôi: ‘Mày lười học quá, chỉ lêu lổng suốt từ sáng đến tối, hẳn rồi tương lai sẽ mù mịt và làm ô danh dòng họ Darwin thôi’. Trong đầu tôi lúc đó xuất hiện một loạt câu hỏi: Tương lai của tôi rồi sẽ ra sao? Tôi dốt nát thế sao? Tôi có phải là kẻ vô dụng không?”.

Napoleon lúc còn nhỏ cũng bị gọi là đứa trẻ đần độn với thành tích học tập kém xa các bạn, dù vẫn được khen là “có sức mạnh phi thường”. Sau này, khi tốt nghiệp trường Quân binh Paris, ông cũng chỉ được xếp hạng 42. Tuy không biết số sinh viên tốt nghiệp khi đó là bao nhiêu, nhưng hạng 42 chắc hẳn không phải là một thành tích xuất sắc. Nghe nói ông khá giỏi về toán học, nhưng các môn khác đều dở tệ. Khi đó, mọi người cũng nhận xét rằng sau này “tương lai tăm tối” vì Napoleon không chỉ kém về ngôn ngữ mà ông nói, viết cũng rất khó khăn. Thật trùng hợp là Thống chế Arthur Wellesley, người đã đánh bại Napoleon Bonaparte trong trận Waterloo năm 1815, hồi nhỏ cũng bị gọi là đứa trẻ đần độn với kết quả học tập rất kém. Mẹ ông còn gọi ông là “đồ bỏ đi”.

Newton khi học tiểu học cũng thường bị bạn bè và thầy cô gọi là “kẻ đần độn”. Thời đi học của ông kéo dài hơn các bạn do ông thường… bị lưu ban. Năm 15 tuổi, mẹ ông do quá thất vọng vì kết quả học tập của con mình nên đã buộc ông nghỉ học để phụ giúp công việc đồng áng. Sau đó, mặc dù ông vào đại học nhưng do thành tích học tập quá kém nên thường xuyên bị giáo viên rầy la.

Heine cũng là một học sinh kém thời tiểu học. Heine rất ghét việc học, ghét luôn nề nếp kỷ luật của nhà trường. Ông thường bị bạn bè trêu chọc và thầy cô cũng đùa rằng “là người mang dòng máu di truyền về tính nguyên tắc và sự khô khan vốn có của người Đức như vậy thì làm sao có thể sáng tác ra những bài thơ lãng mạn chứ”. Khi He- ine vào đại học, thành tích học tập của ông cũng không được cải thiện là mấy. Vậy mà cuối cùng Heine lại trở thành một trong những nhà thơ có nhiều bài thơ tình rất nổi tiếng.

Nhà toán học, nhà triết học phân tích, nhà khoa học máy tính Anh Charles Babbage và nhà văn, nhà biên tập Frederick Marryat là bạn thời tiểu học. Cả hai đều là những học sinh có kết quả học tập đáng xấu hổ. Giáo viên thường bắt họ đứng trên ghế trước mặt tất cả học sinh trong lớp và nói: “Các em hãy nhìn xem. Hai bạn này chắc chắn không thể có tương lai sáng sủa được vì thành tích học tập quá kém. Các em cố gắng đừng bắt chước hai bạn này nhé”.

Nhà cải cách giáo dục Thụy Sĩ Johann Heinrich Pestalozzi; nhà vật lý học Augustin Jean Fresnellens, người đã phát minh ra thấu kính Fresnel với ứng dụng ban đầu dành cho đèn hải đăng; nhà toán học, thực vật học Pháp Buffon; một số đại văn hào Pháp như Denis Diderot, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas… khi còn nhỏ cũng là những nhân vật nổi tiếng về… học kém.

Tiếp nối danh sách này còn có nhà soạn kịch Na Uy, Henrik Johan Ibsen; nhà vật lý Pháp, Pierre Curie; nhà toán học, nhà khoa học Đức, Carl Friedrich Gauss; nhà vật lý, sinh vật học Đức, Helmholtz; nhà sinh vật học Đức, người sáng lập ra học thuyết tế bào, Rudolph Carl Virchow…

10.

Vậy tại sao thiên tài lại có kết quả học tập yếu kém? Điều này không được lý giải trong những ghi chép còn lưu lại đến ngày nay, việc tìm hiểu cũng không hề đơn giản. Nhìn chung, các thiên tài đều có ít nhất một lĩnh vực nào đó vượt trội. Kết quả học tập kém chẳng qua là do chương trình phổ thông yêu cầu học nhiều môn cùng một lúc, trong khi đa số họ chỉ tập trung và yêu thích một môn nào đó. Và do sự tập trung vào môn học hoặc lĩnh vực mà mình say mê nên họ sao nhãng những việc khác. Như trường hợp của nhà nghiên cứu Đông dương học, Krapmote, chẳng hạn. Ông bị xem là học sinh kém của trường Đại học Berlin. Giám thị thấy trong suốt giờ thi, ông không viết được chữ nào liền hỏi: “Em không biết gì cả sao?”. Ông trả lời: “Có chứ ạ. Em biết tiếng Trung Quốc”. Thì ra ông rất thích tiếng Trung Quốc nên đã tập trung vào môn này mà không để ý đến các môn khác.

Văn hào William Sott hồi nhỏ là một học sinh không có gì nổi bật, nhưng do đọc rất nhiều sách lịch sử và tiểu thuyết nên vốn kiến thức xã hội của ông rất rộng. Mỗi lần kể chuyện thì bạn bè đều trầm trồ thán phục. Nhà thơ lãng mạn người Anh William Wordsworth hồi nhỏ say mê đọc sách đến nỗi không muốn học môn gì khác. Những nhà thơ, nhà văn khác như Byron, Sherry, Tennyson, Goethe… cũng suốt ngày chìm đắm trong những trang sách và say mê sáng tác thơ.

Các nhà thơ, nhà văn lớn thì thường do ham mê đọc sách và sáng tác nên kết quả học kém, còn các nhà phát minh, tư tưởng do dành nhiều thời gian để suy tư ý tưởng nên kết quả học tập cũng không mấy xuất sắc. Nhà phát minh ra tàu thủy hơi nước Fulton thời đi học thường bị thầy cô la rầy vì “đầu óc để đâu mà không tập trung nghe giảng”. Newton do tập trung cao độ với những con số mà không để ý đến lời quát mắng của những người xung quanh. Emerson hồi học đại học suốt ngày chỉ mải mê nghiên cứu văn học mà không học các môn khác. Đối với Emerson, kiến thức nhà trường đem lại không có gì thú vị vì cậu có thể tự học qua sách vở.

11.

Sau khi nhà văn Nhật Natsume Soseki qua đời, thi thể ông đã được giải phẫu và kết quả cho thấy não ông nặng hơn người bình thường rất nhiều. Cuộc giải phẫu thi thể của chính trị gia Nhật Katsura trước đó cũng cho kết luận tương tự. Nhìn vào đó, nhiều người nghĩ rằng bộ não của vĩ nhân sẽ nặng hơn não của người bình thường. Cách nghĩ này cũng không có gì sai, tuy nhiên nếu cho rằng “hễ sinh ra với bộ não to thì sẽ trở thành vĩ nhân, não nhỏ sẽ chỉ là kẻ tầm thường” thì lại hoàn toàn không đúng. Chúng ta đã tiến hóa từ vượn người, đến người nguyên thủy cổ đại, người nguyên thủy cận đại, rồi thành người hiện đại ngày nay. So sánh kích thước não của từng giai đoạn, ta thấy kích thước não cũng lớn dần (vượn người: 600 cm3; người nguyên thủy cổ đại 1.200cm3; người nguyên thủy cận đại: 1.400cm3; người hiện đại:1.600cm3).

Năm 1892, nhà nhân chủng học, bác sĩ giải phẫu người Hà Lan là Eugene Dubois và các đồng nghiệp đã phát hiện ra di tích đầu tiên về vượn người tại đảo Java thuộc Indonesia. Kích thước não bộ của loài vượn người này khoảng 900 cm3, vừa đúng bằng kích thước não của người vượn, nhưng nhỏ hơn so với não của người nguyên thủy cổ đại. Ngoài ra, các nhà nhân chủng học Broca, Pritchard, Welcker, khi nghiên cứu bộ não của người Pháp, người Ý, người Anh, người Do Thái, người Ai Cập… cũng có kết luận tương tự. Tóm lại, tuy cùng chủng tộc nhưng bộ não của người hiện đại sẽ lớn hơn người cổ đại.

Chính điều này khiến người ta dễ nghĩ rằng khi có bộ não lớn hơn, người ta sẽ thông minh và thành đạt hơn. Nhưng sự thực không hẳn như vậy, dù có khá nhiều trường hợp những người ưu tú sở hữu bộ não lớn. Đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Còn rất nhiều nghiên cứu khác về các thiên tài cho thấy rằng não của họ hoàn toàn không lớn hơn người bình thường, thậm chí có trường hợp còn nhỏ hơn. Đã có những cuộc thử nghiệm nghiên cứu bộ não của một số nhân vật được gọi là thiên tài như nhà toán học Blaise Pascal, chính trị gia Hansemann, nhà sinh vật học Helmholtz, nhà khoa học Bunsen, nhà sử học Mommsen, họa sĩ Menzel – kết quả cho thấy bộ não của họ kích thước không khác mấy so với người bình thường. Kích thước bộ não của nhà thơ Byron, chính trị gia Bismarck, nhà tự nhiên học Cuvier, đại văn hào Turgenev lớn hơn người bình thường; nhưng bộ não của nhà hóa học Liebig, nhà thần học Dante, nhà thơ Housman thì nhỏ hơn người bình thường.

Chính trị gia Hansemann cho rằng não của một thiên tài không nhất thiết phải lớn hơn so với người bình thường, vì bộ não không phải là “dấu hiện nhận biết” của thiên tài. Vấn đề không nằm ở khối lượng hay kích thước bộ não, mà ở diện tích bề mặt và số lượng “mối nối” và tính hiệu quả của hệ thống tế bào thần kinh. Nếu không được kích thích để phát triển đúng thời điểm, các tế bào thần kinh sẽ mất dần khả năng kết nối, mà những cố gắng sau này chỉ mang lại hiệu quả rất hạn chế. Tóm lại, cấu tạo bộ não của con người về cơ bản là như nhau, nhưng sở dĩ mỗi người bộc lộ theo cách khác nhau – thành thiên tài hay chỉ là người bình thường – là do cách chúng ta kích thích năng lực tiềm tàng ấy.

12.

Gần đây đã có một vài nghiên cứu về tuổi thọ của các thiên tài. Người ta đã lựa chọn để tìm hiểu 400 vĩ nhân thuộc các quốc gia Âu – Mỹ trong vòng 16 thế kỷ ở 21 lĩnh vực khác nhau như thiên văn, toán học, triết học, thần học, thi ca, văn học… và kết quả cho thấy các thiên tài nói chung có tuổi thọ khá cao. Người đoản mệnh nhất là một thi sĩ 58 tuổi, người sống lâu nhất là một nhà phát minh 97 tuổi, và tuổi thọ trung bình của 400 vĩ nhân này là khoảng 66, 67 tuổi. Trong 400 người này thì có 65 người thọ trên 65 tuổi.

Một nghiên cứu khác với 850 vĩ nhân cho thấy 250 người tuổi thọ dưới 60, 130 người trên 60 tuổi, 470 người có tuổi thọ từ 60 đến 80.

Một cuộc điều tra nữa với 500 vĩ nhân cho thấy tuổi thọ bình quân của các thiên tài là 65. Tuy nhiên, nếu tính cả những người chết trẻ – dưới 20 tuổi – thì tuổi thọ bình quân là 51.

Không có sự khác biệt nào giữa thiên tài và người thường. Họ cũng như chúng ta, cũng chịu sự chi phối của quy luật sinh-lão-bệnh-tử. Cái làm cho họ có vẻ khác người đó chính là tinh thần miệt mài làm việc, làm việc đến sinh bệnh.

Có thể nói thiên tài có tuổi thọ cao là do đặc điểm tính cách của họ – giàu hứng thú và đầy nhiệt huyết. Người ta vẫn thường nói học sinh thức khuya thì có hại, nhưng học giả thức khuya thì không hề gì. Đó là vì học sinh thức khuya nhưng học trong cảm giác mệt mỏi, chán nản, còn học giả thì làm việc với tinh thần tích cực và hứng thú. Nếu chúng ta mà cứ nghĩ về những việc đáng ghét thì cuộc sống sẽ ngắn lại – đó là sự thật. Cuộc sống chỉ tốt khi người ta sống hết mình bằng cảm giác khoan khoái và hài lòng. Thiên tài là những người cần mẫn và sự cần mẫn đó dựa trên niềm say mê, hứng khởi, vì thế sự nỗ lực của họ không những không có hại mà còn có lợi cho sức khỏe. Kiên trì theo đuổi đam mê của mình – đó là hạnh phúc của các thiên tài mà người bình thường không mấy khi biết đến.

Có những thiên tài, vì quá cần mẫn, dẫn đến kiệt sức mà sinh bệnh – những chứng bệnh về tinh thần, sống độc thân, hay kết hôn cũng không có con cái. Đúng như người ta vẫn thường nói: “Thiên tài là những người điên, nhưng những người điên chưa chắc là thiên tài”. Còn Eugene Dubois nói rằng: “Mọi người đều ít nhiều khác nhau, chỉ có những người bệnh tâm thần là giống nhau”. Câu này không chỉ đề cập đến những người mắc bệnh tâm thần thực sự, mà còn là một cách nói ẩn dụ ám chỉ sự say mê, cuồng nhiệt đến không để ý tới bất cứ việc gì khác của thiên tài.

13.

Nước Nhật có câu thành ngữ “Dưỡng dục hơn gia thế”. Gia thế ở đây là sự di truyền, là yếu tố mang tính bẩm sinh; còn dưỡng dục là hoàn cảnh, là sự giáo dục mà trẻ thừa hưởng từ gia đình, nhà trường, xã hội. Chỉ một câu thành ngữ này đã mang đầy đủ những gì tôi muốn nói về sự hình thành thiên tài: môi trường sống và sự giáo dục là hai yếu tố quan trọng hơn bộ mã di truyền hay tài năng thiên bẩm.

❁ ❁ ❁
Tác giả: Kimura Kyuichi
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy để ủng hộ tác giả, dịch giả và nhà xuất bản)

5 1 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x