Trang chủ » Chương 54 – 59. Ý thức sinh khởi – Thế giới sinh khởi

Chương 54 – 59. Ý thức sinh khởi – Thế giới sinh khởi

by Hậu Học Văn
375 views

54. Tâm và Thân là những hiện tướng của Vô minh

Hỏi: Hôm trước chúng ta có bàn về con người, nhân chứng và cái tuyệt đối – Vyakti-VyakTa-AvyakTa. Theo như tôi còn nhớ, ông có nói rằng chỉ có cái tuyệt đối là chơn thật, còn nhân chứng chỉ là cái tuyệt đối ở vào một điểm nào đó trong không gian và thời gian. Con người chỉ là cơ thể, thô cũng như tế, được soi sáng bởi sự có mặt của nhân chứng. Tôi không nắm được vấn đề một cách trọn vẹn, liệu chúng ta có thể bàn lại được không? Ông cũng dùng những từ ngữ như Mahadakash, ChidadashParamakash. Chúng liên quan như thế nào với con người, nhân chứng, và cái tuyệt đối?

Maharaj: Mahadakash là tự nhiên giới, là đại dương của mọi sự sống, là không gian vật lý với tất cả những gì có thể tiếp xúc qua các giác quan. Chidakash là sự bao la của tính biết, là không gian tâm của thời gian, tri giác và nhận thức. Paramakash là thực tại phi thời phi xứ, phi tâm, bất khả phân biệt, tiềm năng vô biên, nguồn gốc và khởi thủy, chất liệu và thể tánh, cả vật lý lẫn ý thức – nhưng siêu vượt cả hai. Nó không thể được nhận thức, nhưng có thể được kinh nghiệm như thường xuyên chứng kiến nhân chứng, nhận thức người nhận thức, khởi thủy và chung cuộc của mọi sự thể hiện, gốc rễ của thời gian và không gian, nguyên nhân đầu tiên trong mọi chuỗi tương quan nhân quả.

H: Thế còn sự khác biệt giữa VyakTaAvyakTa?

M: Không có sự khác biệt nào cả. Cũng giống như ánh sáng và ánh sáng ban ngày. Vũ trụ đầy ánh sáng mà ông không thấy, nhưng cũng ánh sáng ông thấy là ánh sáng ban ngày. Cái mà ánh sáng ban ngày làm cho hiển lộ là Vyakti. Con người luôn luôn là đối tượng, nhân chứng là chủ thể; mối quan hệ tương thuộc lẫn nhau giữa con người và nhân chứng phản ảnh tính đồng nhất tuyệt đối của chúng. Ông tưởng chúng là những trạng thái riêng biệt và tách rời nhau, nhưng không phải thế. Chúng là cùng một ý thức, lúc tịnh và lúc động; trạng thái này biết trạng thái kia. Trong Chit con người biết Thượng đế và Thượng đế biết con người. Trong Chit con người hình thành thế gian và thế gian hình thành con người. Chit là sự liên kết, là cầu nối giữa hai thái cực, là yếu tố quân bình và hợp nhất trong mọi kinh nghiệm. Toàn thể những gì được nhận thức là cái mà ông gọi là vật. Toàn thể những người nhận thức là cái mà ông gọi là tâm vũ trụ. Tính đồng nhất của hai cái – thể hiện chính nó thành khả năng nhận thức và nhận thức, sự hài hòa và trí tuệ, sự đáng yêu và yêutái khẳng định tự thân mãi mãi.

H: Thế còn ba thuộc tính của Gunas: Sattva – Rajas – Tamas, chúng chỉ ở trong vật, hay còn ở trong tâm?

M: Dĩ nhiên là trong cả hai, vì tâm và vật không tách rời nhau. Chỉ có cái tuyệt đối mới ở ngoài Gunas. Thực ra, đó chỉ là những quan điểm hay cách nhìn. Chúng chỉ tồn tại trong tâm. Ra khỏi tâm mọi phân biệt không còn nữa.

H: Vũ trụ có phải là sản phẩm của các giác quan?

M: Khi ngủ dậy ông tạo dựng lại thế gian của ông thế nào thì vũ trụ cũng được trải ra như thế. Tâm – với năm cơ phận nhận thức, năm cơ phận hành động, và năm phương tiện của ý thức – thể hiện thành ký ức, tư duy, lý luận và ý thức về cái Ta.

H: Khoa học đã đạt được nhiều tiến bộ. Ngày nay chúng ta biết về thân và tâm rõ hơn người xưa rất nhiều. Luận thuyết cổ điển của ông – mô tả cũng như phân tích tâm và vật – không còn giá trị nữa.

M: Thế các khoa học gia của ông và các môn khoa học của họ ở đâu vậy? Một lần nữa, không phải đó là những hình ảnh trong tâm ông hay sao?

H: Sự khác biệt căn bản nằm ở đây! Đối với tôi họ không phải là những phóng ảnh của chính tôi. Họ có trước khi tôi được sinh ra và vẫn còn đó sau khi tôi chết đi.

M: Dĩ nhiên. Một khi chấp nhận thời gian và không gian là có thật, ông sẽ cho chính mình là nhỏ bé và chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Nhưng liệu chúng có thật hay không? Liệu thời gian và không gian tùy thuộc ông hay ông tùy thuộc không gian và thời gian? Là thân xác, ông ở trong không gian. Là tâm, ông ở trong thời gian. Nhưng có phải ông chỉ là thân xác với một cái tâm trong đó? Có bao giờ ông tìm hiểu điều này không?

H: Tôi không có lý do mà cũng chẳng có phương cách để tìm hiểu.

M: Ta đề nghị với ông cả hai. Nhưng công việc tìm hiểu sự sáng suốt và vô tư – Viveka-Vairagya – là thuộc về ông.

H: Động cơ duy nhất mà tôi có thể biết được là hạnh phúc phi nhân duyên và phi thời của tôi. Vậy phương pháp là gì?

M: Hạnh phúc thì ngẫu nhiên. Động cơ thực sự và hữu hiệu là lòng yêu thương. Ông thấy con người đau khổ và ông tìm cách hữu hiệu nhất để cứu giúp họ. Câu trả lời thật hiển nhiên – trước tiên phải đặt ông ra ngoài sự cần cứu giúp. Chắc chắn thái độ của ông phải xuất phát từ thiện ý thuần túy, không mong đợi bất cứ gì.

Những người chỉ tìm kiếm hạnh phúc có thể cuối cùng sẽ đạt được sự thanh thản tuyệt vời, còn tình yêu thì không bao giờ ngưng nghỉ.

Về phương pháp, duy nhất chỉ có một: ông phải biết chính ông – cả cái mà ông có vẻ như là, lẫn cái mà ông . Sự trong sáng và lòng từ ái đi cùng với nhau – cái này cần đến cái kia và gia tăng sức mạnh cho cái kia.

H: Từ bi hàm ý sự tồn tại của một thế giới khách quan, đầy những đau khổ khả tránh.

M: Thế gian này không phải khách quan và đau khổ của nó thì bất khả tránh. Từ bi chỉ là một từ ngữ khác thay cho sự khước từ đau khổ vì những lý do tưởng tượng.

H: Nếu các lý do là tưởng tượng thì tại sao đau khổ lại bất khả tránh?

M: Chính cái hư giả luôn luôn làm cho ông đau khổ, lòng tham ái và sự sợ hãi hư giả, những giá trị và ý tưởng hư giả, những quan hệ hư giả giữa con người. Bỏ đi cái hư giả ông không còn đau khổ nữa; chân lý đem lại hạnh phúc – chân lý là giải thoát.

H: Sự thật là: tôi, một cái tâm bị giam hãm trong một thân xác, và đây là một sự thật vô cùng bất hạnh.

M: Ông không phải thân xác và cũng không ở trong thân xác – không có cái gì là thân xác. Ông đã hiểu lầm chính ông một cách nghiêm trọng; để hiểu một cách đúng đắn – hãy tìm cho ra lẽ.

H: Nhưng tôi được sinh ra như một thân xác, trong một thân xác và sẽ chết đi với thân xác, như một thân xác.

M: Đó là quan niệm sai lầm của ông. Tìm hiểu, tìm ra sự thật, đặt nghi vấn về chính mình và người khác. Để tìm ra sự thật, ông không được bám víu vào những gì ông tin tưởng; nếu ông cho rằng cái tức thời là chắc chắn thì sẽ không bao giờ ông đạt đến cái tối hậu. Cái ý tưởng cho rằng ông đã được sinh ra và sẽ chết đi thật ngớ ngẩn: Nó mâu thuẫn cả về logic lẫn kinh nghiệm.

H: Thôi được. Tôi sẽ không cố chấp cho rằng mình là thân xác. Ông nói đúng đấy. Nhưng ở đây và ngay bây giờ, trong lúc nói chuyện với ông, tôi ở trong thân xác của tôi, rõ ràng là như thế. Thân xác này có thể không phải là tôi, nhưng nó là của tôi.

M: Toàn thể vũ trụ không ngừng góp phần cho sự tồn tại của ông. Do đó toàn thể vũ trụ là thân xác của ông. Trong ý nghĩa đó – Ta đồng ý.

H: Thân xác tôi ảnh hưởng tôi một cách sâu xa. Về nhiều phương diện, thân xác tôi chính là định mệnh của tôi. Cá tính của tôi, tính tình của tôi, bản chất các phản ứng của tôi, những tham ái và lo sợ của tôi – bẩm sinh hay thụ đắc – tất cả đều dựa trên thân xác tôi. Chỉ cần ít rượu, chút ma túy hay cái gì đó là tất cả đều thay đổi. Tôi trở thành một con người khác cho đến khi ảnh hưởng của ma túy tan đi.

M: Tất cả những điều đó xảy ra vì ông nghĩ chính ông là thân xác. Hãy nhận ra cái Ta thật của ông thì ngay cả ma túy cũng chẳng có uy lực gì đối với ông.

H: Ông hút thuốc lá sao?

M: Thân xác Ta còn giữ một vài thói quen, những thói quen đó có thể tiếp tục cho đến khi thân xác chết đi. Chúng vô hại.

H: Ông ăn thịt?

M: Ta đã được sinh ra giữa những người ăn thịt, các con của Ta đều ăn thịt. Ta ăn rất ít. Đừng quan trọng hóa.

H: Ăn thịt là hàm ý sát sinh.

M: Ta không tự nhận theo một nguyên tắc nào đó. Ông cho rằng nguyên tắc là tuyệt đối khả hữu? Thử chứng minh bằng một ví dụ nào đó đi. Đừng thuyết giáo nếu không hành đạo.

Trở lại với ý tưởng được sinh ra. Ông không thể thoát ra khỏi những gì cha mẹ ông bảo ông: tất cả về sự thụ thai, có mang và sinh đẻ, sơ sinh, nhi đồng, thiếu niên, vị thành niên, vân vân. Thử gạt bỏ cái ý tưởng ông là thân xác bằng một ý tưởng trái ngược. Ông không phải là thân xác. Đây cũng là một ý tưởng, rõ ràng là như thế, và nhớ xem nó như một công cụ cần buông bỏ khi dùng xong. Cái ý tưởng Ta không phải là thân xác làm cho thân xác trở thành hiện thực, trong khi thật ra không có cái gì là thân xác; nó chỉ là một trạng thái của tâm. Ông có thể có vô số thân và đủ loại hình tướng mà ông thích; nhưng luôn luôn nhớ rõ cái ông muốn, và vất bỏ những cái không thích hợp.

H: Tôi giống như một cái hộp ở trong cái hộp khác, và cái hộp khác lại ở trong cái hộp khác; cái hộp ngoài cùng được xem là thân xác, và cái hộp kế bên trong là linh hồn. Lấy đi cái hộp bên ngoài, cái hộp kế bên trong trở thành thân xác, và cái hộp kế bên trong nữa thành linh hồn. Đây là một chuỗi diến tiến bất tận, một cuộc mở hộp không bao giờ  chấm dứt, liệu cái cuối cùng có phải là linh hồn tối hậu?

M: Nếu có một thân xác, ông phải có một linh hồn; trường hợp này sự ví von của ông về bộ hộp xếp lồng vào nhau là đúng. Nhưng ở đây và ngay bây giờ – tánh biết, tức ánh sáng thuần túy của Chit chiếu rọi xuyên suốt các thân và hồn của ông. Hãy bám chặt lấy nó không lơi lỏng. Nếu không có tánh biết, thân xác không tồn tại quá một giây. Trong thân xác có một giòng sinh lực, tình cảm và trí tuệ; nó hướng dẫn, duy trì và truyền sức sống cho thân xác. Hãy phát hiện cái giòng đó và ở với nó.

Dĩ nhiên tất cả chỉ là những cách nói. Ngôn từ vừa là một chướng ngại, vừa là một cây cầu. Hãy phát hiện tia lửa của sự sống đan kết các mô tế bào của cơ thể ông, và ở với nó. Nó là thực thể duy nhất mà thân xác có được.

H: Sau khi chết, chuyện gì sẽ xảy ra cho tia lửa của sự sống đó?

M: Nó siêu vượt thời gian. Sinh và tử chỉ là những điểm trong thời gian. Sự sống không ngừng đan kết vô số những mạng lưới của nó. Sự đan kết ở trong thời gian, nhưng tự thân sự sống thì vô thời. Ông có thể gán cho những thể hiện của nó bất cứ danh xưng hay hình tướng nào; nó giống như đại dương – không bao giờ thay đổi, mà luôn luôn thay đổi.

H: Những gì ông nói nghe có vẻ thuyết phục một cách tuyệt mỹ, nhưng tôi vẫn luôn luôn có cảm tưởng mình chỉ là một con người trong một thế giới xa lạ, thường xuyên thù nghịch và nguy hiểm. Là một con người – hữu hạn trong không gian và thời gian – làm sao tôi có thể nhận ra mình là một cái gì đó ngược lại – cái tánh biết vô cá biệt, phi nhân cách và vũ trụ hóa?

M: Ông khẳng định mình là cái mà ông không phải, nhưng lại chối bỏ cái mà chính ông là. Ông bỏ qua yếu tố nhận thức thuần túy – tánh biết hoàn toàn không có những xuyên tạc của con người. Chỉ khi nào nhìn nhận thực tế của Chit, ông mới biết được chính ông.

H: Tôi phải làm gì? Tôi không thấy tôi như ông thấy tôi. Có thể ông đúng mà tôi sai, nhưng làm sao tôi có thể chấm dứt là cái mà tôi cảm thấy tôi là?

M: Một ông hoàng cứ nghĩ mình là kẻ ăn mày thì chỉ có một cách để thuyết phục: Ông ta phải hành xử như một ông hoàng rồi xem chuyện gì xảy ra. Cứ hành xử như thể là những gì Ta nói là đúng đi, rồi phán xét qua những gì thực sự xảy ra. Tất cả những gì Ta đòi hỏi chỉ là đôi chút tín tâm để tiến hành bước đầu tiên. Sự tin tưởng sẽ đến với kinh nghiệm và ông sẽ chẳng cần đến Ta nữa. Ta biết cái mà ông là, và Ta bảo cho ông biết. Cứ tin Ta một thời gian ngắn xem.

H: Để ở đây và bây giờ, tôi cần thân xác và những giác quan của nó. Để hiểu, tôi cần một cái tâm.

M: Thân và tâm chỉ là những hiện tướng của vô minh, và hiểu biết sai lầm, hãy hành xử như thể ông là tánh biết thuần túy, vô thân và vô tâm, vô xứ và vô thời, vượt ra khỏi “ở đâu”, “khi nào”, và “làm thế nào.” Hãy ở với nó, suy nghĩ về nó, học cách chấp nhận thực tế của nó. Đừng luôn luôn chống đối nó và phủ nhận nó. Ít ra thì cũng giữ một cái tâm cởi mở. Yoga là uốn cái bên ngoài vào bên trong. Hãy làm cho tâm và thân ông thể hiện cái chơn thật – cái là tất cả và siêu vượt tất cả. Bằng hành động ông thành công, chứ không phải bằng biện luận.

H: Vui lòng cho tôi trở lại câu hỏi đầu tiên. Sự sai lầm cho mình là một con người bắt đầu như thế nào?

M: Cái tuyệt đối có trước thời gian. Tánh biết có trước. Một mớ ký ức và thói quen tâm lý thu hút sự chú ý, thế là tánh biết được xác định tiêu điểm và một con người đột nhiên xuất hiện lấy đi ánh sáng của tánh biết: Khi ngủ hay bất tỉnh – con người biến mất. Con người – Vyakti – thì chập chờn nhấp nháy; tánh biết – VyakTa – dung chứa tất cả không gian và thời gian; cái tuyệt đối – AvyakTa – HIỆN HỮU.

❁ ❁ ❁

55. Cho đi tất cả thì sẽ được tất cả

Hỏi: Trạng thái của ông ngay bây giờ là gì?

Maharaj: Một trạng thái phi kinh nghiệm, nó dung nhiếp tất cả kinh nghiệm trong đó.

H: Liệu ông có thể nhập vào tâm thức hay trái tim của người khác và chia sẻ kinh nghiệm của người đó?

M: Không. Những chuyện như thế đòi hỏi một sự luyện tập đặc biệt. Ta giống như một người bán bột mì. Ta biết rất ít về bánh mì hay bánh ngọt. Ngay cả vị cháo lúa mì Ta cũng không biết, nhưng Ta biết rất rõ về hạt lúa mì. Ta biết nguồn gốc của tất cả kinh nghiệm, nhưng vô số những tướng trạng cá biệt của nó thì Ta không biết, mà Ta cũng chẳng cần biết. Từ lúc này sang lúc khác, Ta chỉ biết rất ít để sống cuộc sống của Ta, Ta biết một cách ngẫu nhiên.

H: Sự tồn tại cá biệt của ông và sự tồn tại cá biệt của tôi có cùng tồn tại trong tâm của Đại ngã – Brahma?

M: Vũ trụ không biết cái cá biệt. Sự tồn tại như một con người là vấn đề của con người. Một con người tồn tại trong không gian và thời gian, có danh xưng và hình tướng, có sự bắt đầu và chấm dứt; vũ trụ dung chứa tất cả những con người, và cái tuyệt đối là gốc rễ của tất cả nhưng ở bên ngoài tất cả.

H: Tôi không bận tâm đến cái toàn thể. Ý thức cá nhân của ông và ý thức cá nhân của tôi – cái gì liên kết hai cái?

M: Giữa hai kẻ chiêm bao, cái gì có thể là sự liên kết?

H: Họ có thể chiêm bao thấy nhau.

M: Đó là những gì người ta đang làm. Mọi người đều tưởng tượng ra “người khác” và đi tìm sự liên kết với người khác. Người tìm kiếm là sự liên kết, ngoài ra chẳng có ai khác.

H: Chắc chắn phải có một cái gì đó chung nhất giữa nhiều điểm của ý thức mà chúng ta là.

M: Những điểm đó ở đâu? Trong tâm ông. Ông khăng khăng cho rằng thế giới của ông bất tùy thuộc vào tâm ông. Làm sao có thể như thế? Lòng ham muốn biết được tâm của người khác là do ông không biết chính tâm của ông. Trước tiên hãy biết tâm ông rồi ông sẽ nhận ra câu hỏi về tâm của người khác sẽ không sinh khởi, vì không hề có người khác. Ông là yếu tố chung, sự liên kết duy nhất giữa các tâm. Hiện hữu là ý thức; “Ta hiện hữu” áp dụng cho tất cả.

H: Thực tại Tối thượng – Parabrahman – có thể hiện diện trong tất cả chúng ta. Nhưng có ích lợi gì?

M: Ông giống như một người bảo: “Tôi cần một chỗ để giữ đồ đạc, nhưng không gian có ích lợi gì cho tôi?” hoặc: “Tôi cần sữa, trà, cà phê hay nước ngọt, nhưng nước thì tôi không dùng.” Ông không thấy được rằng Thực tại Tối thượng là cái làm cho mọi thứ khả hữu? Nhưng nếu ông hỏi Thực tại có ích lợi gì cho ông, thì Ta phải trả lời là: “không.” Trong những vấn đề thường nhật của đời sống, người biết cái thật chẳng có lợi gì, mà còn chịu thiệt, vì không còn tham ái và lo sợ nên người đó không cần phải bo bo cho chính mình. Người biết thực tại thì xa lạ với ý tưởng hưởng lợi, ghê tởm sự tích lũy của cải; cuộc sống của người đó là không ngừng từ bỏ chính mình, không ngừng chia sẻ, và cho đi.

H: Nếu đạt đến cái Tối thượng chẳng có lợi gì, thì tại sao lại chuốc lấy phiền trược?

M: Phiền trược chỉ có khi nào ông bám víu vào cái gì đó. Không bám víu vào cái gì thì chẳng phiền trược nào sinh khởi. Từ bỏ cái nhỏ là được cái lớn. Cho đi tất cả ông sẽ được tất cả. Lúc đó cuộc sống trở thành cái mà nó có ý nghĩa để là: Sự chiếu sáng thuần túy từ một nguồn sáng bất tận. Trong ánh sáng đó thế giới xuất hiện mờ nhạt như một cơn mộng huyễn.

H: Nếu thế giới của tôi là mộng huyễn và ông là một phần của thế giới đó, vậy ông có thể làm được gì cho tôi? Nếu mộng huyễn là không thật, không có thực thể, làm sao thực tại có thể tác động được nó?

M: Trong lúc đang diễn ra, cơn mộng có sự hiện hữu nhất thời của nó. Chính lòng tham ái của ông bám lấy nó, và điều này gây ra phiền trược. Hãy buông bỏ. Chấm dứt tưởng tượng cơn mộng là của ông.

H: Hình như ông mặc nhiên cho rằng có thể có cơn mộng mà không có người nằm mơ, và tôi đồng hóa mình với giấc mộng của ý muốn êm ái của chính tôi. Nhưng tôi là người nằm mơ và cũng là giấc mộng. Ai là người chấm dứt giấc mộng?

M: Cứ để giấc mộng tự trải ra cho đến khi chấm dứt. Ông không thể làm gì được nó. Nhưng ông có thể nhìn giấc mộng như một giấc mộng, đừng đóng lên nó dấu ấn của thực tại.

H: Tôi đang ở đây, ngồi trước mặt ông. Tôi đang mơ và ông đang nhìn tôi nói trong mơ. Sự liên kết giữa ông và tôi là gì?

M: Ý định của Ta muốn đánh thức ông là sự liên kết. Lòng Ta muốn ông tỉnh thức. Ta thấy ông đau khổ trong giấc mơ của ông và Ta biết rằng ông phải tỉnh thức để chấm dứt những đau khổ của ông. Khi thấy giấc mơ của ông là mơ thì ông tỉnh giấc. Ta không quan tâm đến chính giấc mơ của ông. Đối với Ta – biết ông phải tỉnh thức – thế là đủ. Ông không cần phải đưa giấc mơ của ông đến một kết thúc nhất định, hoặc làm cho nó cao thượng, vui thú, hay đẹp đẽ; tất cả những gì ông cần là nhận ra ông đang nằm mơ. Chấm dứt tưởng tượng, chấm dứt tin tưởng. Phải thấy được những mâu thuẫn, phi lý, hư giả và nỗi đau khổ của trạng thái làm người, cũng như sự cần thiết phải vượt ra ngoài. Trong sự bao la vô tận của không gian vật vờ một nguyên tử nhỏ bé của ý thức, và toàn thể vũ trụ được dung chứa trong nó.

H: Trong mơ nhiều tình cảm có vẻ như rất thật và miên viễn. Liệu những tình cảm đó biến mất khi tỉnh thức?

M: Trong mơ ông yêu người này nhưng không yêu người khác. Khi tỉnh thức ông nhận ra ông chính là tình yêu, bao trùm tất cả. Tình yêu cá nhân, dù mãnh liệt và trung thực đến đâu, luôn luôn ràng buộc; yêu tất cả là yêu trong tự do.

H: Mọi người đến rồi đí, một người không thể yêu tất cả mọi người, mà chỉ có thể yêu người mình gặp.

M: Khi là tự thân tình yêu, ông vượt ra ngoài thời gian và số lượng. Khi yêu một ông yêu tất cả, khi yêu tất cả ông yêu từng người, từng vật một. Cái một và cái nhiều không loại trừ lẫn nhau.

H: Ông bảo ông ở trong trạng thái phi thời. Điều này có nghĩa là quá khứ và tương lai lúc nào cũng rộng mở với ông? Ông có gặp Vashista Muni, Tôn sư của Rama?

M: Câu hỏi ở trong thời gian và về thời gian. Một lần nữa ông lại hỏi Ta về nội dung của một giấc mơ. Tính cách phi thời thì siêu vượt ảo tưởng về thời gian, nó không phải là một sự kéo dài trong thời gian. Người nào nhận mình là Vashista thì người đó biết Vashista. Ta ở ngoài mọi danh xưng và hình tướng. Vashista là một cơn mơ trong giấc mơ của ông. Làm sao Ta biết Vashista? Ông quá bận tâm với quá khứ và tương lai. Tất cả là do lòng ham muốn tiếp tục của ông, bảo vệ ông khỏi sự diệt vong. Vì ông muốn tiếp tục, ông muốn người khác duy trì ông thân cận với họ, cho nên ông quan tâm đến sự tồn tại của họ. Nhưng cái mà ông gọi là tồn tại chỉ là sự tồn tại của một giấc mơ. Giấc mơ đó cần phải chết đi. Cơ hội tỉnh thức vẫn có đó.

H: Vì biết cái vĩnh cửu, nên ông không bận tâm với sự tồn tại,

M: Thật ra là ngược lại. Tự do không còn tham ái là vĩnh cửu. Tất cả ràng buộc hàm ý lo sợ, vì tất cả là vô thường. Lo sợ biến một người thành nô lệ. Tự do thoát khỏi mọi ràng buộc không do tu tập mà có; nó là tự nhiên khi một người biết rõ sự hiện hữu đích thực của chính mình. Yêu thì không bám víu, mà bám víu thì không phải là yêu.

H: Như vậy không có cách nào đạt được sự thanh thản.

M: Chẳng có gì để đạt. Quẳng đi tất cả tưởng tượng và biết chính ông như ông là. Hiểu biết chính mình là thanh thản. Mọi khao khát đều do cảm tưởng thiếu thốn. Khi biết rằng ông chẳng thiếu gì, tất cả những gì hiện hữu là ông và của ông thì tham ái chấm dứt.

H: Để biết chính mình, tôi có cần phải thực hành tỉnh thức?

M: Chẳng có gì để thực hành. Để biết chính ông, hãy chính ông. Để là chính ông, hãy chấm dứt tưởng tượng ông là thế này hay thế kia. Chỉ hiện hữu. Hãy để bản chất chơn thật của ông xuất hiện. Đừng bận tâm với sự tìm kiếm.

H: Nếu chỉ chờ đợi sự tự giác ngộ thì lâu lắm.

M: Việc gì phải chờ đợi khi cái ông chờ đợi đang ở đây và bây giờ? Ông chỉ cần quan sát và thấy. Hãy quan sát chính ông, quan sát sự hiện hữu của chính ông. Ông biết ông hiện hữu và ông thích điều đó. Bỏ đi tất cả những gì tưởng tượng, chỉ có thế thôi. Đừng trông đợi thời gian. Thời gian là chết. Kẻ nào chờ đợi thì chết. Sự sống chỉ là bây giờ. Đừng nói với Ta về quá khứ và tương lai – chúng chỉ tồn tại trong tâm ông.

H: Cả ông rồi cũng chết.

M: Ta đã chết. Cái chết vật lý chẳng có gì là quan trọng với Ta. Ta là sự hiện hữu vô thời. Ta hoàn toàn tự do không còn tham ái và lo sợ, vì Ta không nhớ về quá khứ hay tưởng đến tương lai. Khi không còn danh xưng và hình tướng thì làm sao có thể có tham ái và lo sợ? Vô thời đến cùng với vô tham ái. Ta luôn luôn an ổn vì cái không hiện hữu thì không thể tác động đến cái hiện hữu. Ông cảm thấy bất an vì ông tưởng tượng ra sự nguy hiểm. Dĩ nhiên, thân xác phức tạp và dễ bị thương tổn của ông cần được bảo vệ. Nhưng ông thì không cần. Khi nhận ra sự hiện hữu bất khả xâm phạm của chính ông – ông sẽ an ổn.

H: Làm sao tôi có thể tìm được sự an ổn trong lúc thế gian đau khổ?

M: Thế gian đau khổ vì nhiều lý do hợp lý. Nếu muốn cứu thế gian ông phải ở ngoài sự cần cứu giúp. Lúc đó tất cả những gì ông làm cũng như không làm sẽ giúp thế gian này một cách hữu hiệu nhất.

H: Vì sao không làm lại hữu ích khi hành động được cần đến?

M: Khi hành động được cần đến thì hành động xảy ra. Con người không phải là người hành động. Hành động của con người là biết những gì đang diễn ra. Chính sự hiện diện của con người là hành động. Khung cửa sổ là khoảng trống của bức tường, nó đem lại không khí và ánh sáng vì nó trống không. Hãy trống không với tất cả nội dung tâm lý, với mọi sự tưởng tượng và cố gắng, rồi chính sự trống không, không còn chướng ngại, sẽ lùa thực tại vào trong ông. Nếu ông thật sự muốn cứu giúp một người thì hãy tránh xa. Nếu vì cảm xúc mà cam kết cứu giúp thì ông không giúp được. Ông có thể rất bận rộn và hài lòng với bản tính thương người của ông, nhưng chẳng làm được bao nhiêu. Một người được giúp thật sự chỉ khi nào người đó không còn cần đến giúp đỡ. Mọi cách khác đều vô ích.

H: Không có đủ thời gian để ngồi chờ sự giúp đỡ xảy ra. Một người phải làm cái gì đó.

M: Bằng mọi cách, hãy hành động. Nhưng những gì ông có thể làm thì hữu hạn; chỉ cái Ta mới vô hạn. Hãy bố thí chính ông một cách vô hạn. Những cái khác ông chỉ có thể cho với một số lượng nhỏ nhoi. Chỉ có ông mới là bất khả đo lường. Cứu giúp là bản tánh của ông. Ngay cả khi ông ăn uống là lúc ông giúp cơ thể của ông. Còn đối với ông, ông chẳng cần gì cả. Ông là sự bố thí thuần túy, vô thủy, vô chung và vô tận. Khi thấy phiền não và đau khổ, hãy ở cùng nó. Đừng vội vàng hành động. Cả biết lẫn hành động đều không thật sự giúp. Hãy ở với đau khổ và đánh bật gốc rễ của nó lên; giúp sự hiểu biết mới thật là giúp.

H: Cái chết của tôi đang cận kề.

M: Thân xác ông sắp tận, không phải ông. Thời gian và không gian chỉ ở trong tâm. Ông không hề bị ràng buộc. Chỉ cần hiểu rõ chính ông – chính đó là sự vĩnh hằng.

❁ ❁ ❁

56. Ý thức sinh khởi, thế giới sinh khởi

Hỏi: Chuyện gì xảy ra khi một người bình thường chết đi?

Maharaj: Mọi chuyện sẽ xảy ra theo những gì người đó tin tưởng. Cuộc đời trước khi chết chỉ là tưởng tượng thì cuộc đời sau khi chết cũng vậy. Giấc chiêm bao vẫn tiếp tục.

H: Thế còn Gnani – bậc giác ngộ?

M: Gnani không chết vì chưa bao giờ được sinh ra.

H: Đối với người khác, Gnani có vẻ cũng như thế.

M: Nhưng với chính Gnani thì không. Trong chính mình, người giác ngộ tự do với tất cả – vật lý cũng như tâm lý.

H: Nhưng ông vẫn phải biết trạng thái của một người chết. Ít ra là từ những tiền kiếp của ông.

M: Trước khi gặp Tôn sư, Ta biết rất nhiều thứ. Bây giờ Ta không biết gì cả, vì tất cả kiến thức chỉ có trong chiêm bao và chẳng có giá trị. Ta biết chính Ta, Ta không tìm thấy sinh hay tử trong Ta, mà chỉ có hiện hữu thuần túy – không phải hiện hữu thế này hay thế nọ, mà chỉ hiện hữu.

Nhưng ngay khi tâm, lôi ra từ kho ký ức, và bắt đầu tưởng tượng thì nó đem các vật thể vào không gian, và các sự kiện vào thời gian. Ngay cả kiếp này Ta còn không biết thì làm sao Ta có thể biết được các kiếp trước? Chính tâm, vì động thấy mọi thứ đều động, và vì tạo ra thời gian, nên nó lo âu về quá khứ và tương lai. Toàn thể vũ trụ được đặt trong chiếc nôi của ý thức – Maha Tattva, nó xuất hiện khi có sự ổn định và hài hòa tuyệt đối – Maha Sattva. Cũng như tất cả sóng đều ở trong biển thì tất cả mọi thứ – vật lý và tâm lý – đều ở trong tánh biết. Vì thế tự thân tánh biết – không phải nội dung của nó – quan trọng hơn tất cả. Hãy đào sâu và khơi rộng sự thấy biết về chính ông thì mọi công đức sẽ tuôn trào. Ông không cần phải tìm kiếm, tất cả sẽ đến với ông một cách tự nhiên nhất và dễ dàng nhất. Năm giác quan, bốn chức năng của tâm: ký ức, tư duy, hiểu và ý thức về cái Ta; ngũ đại: đất, nước, gió, lửa và không; và hai phương diện của sáng tạo: Vật chất và tinh thần – tất cả đều ở trong tánh biết.

H: Nhưng ông phải tin rằng có tiền kiếp.

M: Kinh điển thì nói như thế, nhưng Ta không biết gì về điều đó. Ta biết chính Ta như Ta là, vì trong kinh nghiệm của Ta không hề có Ta đã xuất hiện hay Ta sẽ xuất hiện. Không phải vì Ta không nhớ, mà thật ra không có gì để nhớ. Luân hồi hàm ý một cái Ta đi luân hồi. Không hề có chuyện như thế. Một mớ ký ức và hy vọng, được gọi là “Ta”, tưởng tượng chính nó tồn tại mãi mãi, và tạo ra thời gian để dung chứa sự trường tồn hư giả của nó. Để hiện hữu, Ta không cần quá khứ hay tương lai. Tất cả kinh nghiệm đều do tưởng tượng mà có; Ta không tưởng tượng nên sinh và tử không xảy ra đối với Ta. Chỉ những ai nghĩ rằng mình được sinh ra mới nghĩ mình được tái sinh. Ông buộc tội Ta đã được sinh ra. Ta tự biện hộ: vô tội!

Tất cả đều tồn tại trong tánh biết và tánh biết không chết mà cũng chẳng tái sinh. Nó chính là thực tại bất biến.

Toàn thể vũ trụ của kinh nghiệm được sinh ra với thân xác và sẽ chết đi cùng với thân xác; nó có sự khởi đầu và chấm dứt trong tánh biết, nhưng tánh biết thì không biết đến sự khởi đầu hay chấm dứt. Nếu suy nghĩ đến nơi đến chốn, và nghiền ngẫm thật lâu, ông sẽ nhận ra ánh sáng của tánh biết với tất cả sự trong sáng của nó, và thế giới sẽ mờ dần và biến mất trong tầm nhìn của ông. Cũng như nhìn một cây nhang đang cháy, ông thấy cây nhang và khói trước; khi để ý kỹ đốm lửa ông sẽ nhận ra nó có năng lực đốt hết hàng núi cây nhang và tỏa đầy khói vào vũ trụ. Cái Ta hiện thực hóa tự thân bất kể mọi tác động của thời gian, mà không hề cạn kiệt những khả năng vô biên của nó.

Trong trường hợp cây nhang đang cháy, cây nhang là thân xác, và khói là tâm. Chừng nào tâm còn bận rộn với những uốn lượn thì nó không nhận ra nguồn gốc của chính nó. Vị Đạo sư xuất hiện và xoay sự chú ý của ông vào đốm sáng bên trong. Do bản chất của nó, tâm luôn luôn hướng ngoại, tâm có khuynh hướng tìm kiếm nguồn gốc của sự vật trong chính sự vật. Khi được bảo tìm kiếm nguồn gốc bên trong có nghĩa là: Bằng một cách nào đó, bắt đầu một cuộc sống mới. Tánh biết thay chỗ cho ý thức; trong ý thức có cái “Ta” – là người ý thức, còn tánh biết thì không phân chia: tánh biết biết chính nó. Cái “Ta hiện hữu” là một ý nghĩ, còn tánh biết không phải là một ý nghĩ; không hề có “Ta biết” trong tánh biết. Ý thức là một thuộc tính còn tánh biết thì không; một người có thể biết mình đang ý thức, nhưng không ý thức được tánh biết. Thượng đế là tổng thể của ý thức, còn tánh biết thì siêu vượt tất cả – hiện hữu lẫn phi hiện hữu.

H: Tôi bắt đầu với câu hỏi về trạng thái của một người sau khi chết. Khi thân xác hư hoại, chuyện gì xảy ra với ý thức của người đó? Liệu người đó mang theo hay để lại các thức như nhãn thức, nhĩ thức, vân vân? Và, nếu người chết không còn các thức kia thì ý thức của người đó trở thành cái gì?

M: Các thức chỉ là những hình thái của nhận thức. Khi những hình thái thô biến mất, những trạng thái vi tế hơn của ý thức xuất hiện.

H: Không có sự chuyển tiếp sang tánh biết sau khi chết?

M: Không thể có sự chuyển tiếp từ ý thức sang tánh biết, vì tánh biết không phải là một hình thái của ý thức. Ý thức chỉ có thể trở nên vi tế và tinh lọc hơn, đó là những gì xảy ra sau khi chết. Khi các phương tiện thể hiện của người chết hư hoại dần thì các hình thái của ý thức do chúng tạo ra cũng từ từ mờ nhạt.

H: Cho đến khi chỉ còn lại vô thức?

M: Hãy nhìn chính ông đang nói về vô thức như một cái gì đến và đi! Ai ở đó để biết vô thức? Bao giờ cửa sổ còn mở thì còn có ánh sáng trong phòng. Khi cửa sổ đóng lại, mặt trời vẫn còn đó, nhưng liệu mặt trời có thấy bóng tối trong căn phòng? Có cái gì như là bóng tối đối với mặt trời? Không hề có cái như vô thức, vì vô thức thì không thể kinh nghiệm được. Chúng ta phỏng đoán về vô thức khi có sự ngắt quãng trong ký ức hay truyền đạt. Nếu Ta ngưng phản ứng, ông sẽ cho rằng Ta vô thức. Trong thực tế, có thể Ta ý thức rất bén nhạy vào lúc đó nhưng chỉ không thể truyền đạt hay nhớ.

H: Tôi hỏi một câu rất đơn giản: Có vào khoảng bốn tỉ người trên thế giới [vào thời điểm đối thoại] và tất cả chắc chắn sẽ chết đi. Trạng thái của họ như thế nào sau khi chết – không phải vật lý, mà là tâm lý? Liệu ý thức của họ sẽ tiếp tục? Nếu tiếp tục, thì dưới hình thức nào? Đừng bảo là tôi đặt sai câu hỏi, hay ông không biết câu trả lời, hay là trong thế giới của ông câu hỏi của tôi vô nghĩa. Ngay khi nói rằng thế giới của ông và thế giới của tôi hoàn toàn khác biệt, không tương hợp thì ông dựng lên một bức tường giữa ông và tôi. Hoặc là chúng ta sống trong một thế giới, hoặc là kinh nghiệm của ông chẳng ích lợi gì cho chúng tôi.

M: Dĩ nhiên ông và Ta sống trong một thế giới. Chỉ có điều Ta thấy nó như nó là, còn ông thì không. Ông thấy chính ông trong thế giới, còn Ta thấy thế giới trong chính Ta. Với ông, ông được sinh ra và chết đi, còn với Ta thế giới xuất hiện và biến mất. Thế giới của chúng ta là thật, nhưng cái nhìn của ông về thế giới thì không đúng thật. Chẳng có bức tường nào giữa ông và Ta, ngoại trừ bức tường được ông dựng lên. Không có gì sai với các nhận thức, chỉ có sự tưởng tượng của ông mới làm cho ông sai lầm. Sự mê lầm của ông ngăn che thế giới như chính nó là bằng cái mà ông tưởng tượng nó là – một cái gì đó tồn tại độc lập với ông nhưng lại rập khuôn những mô thức được thừa hưởng, hay thụ đắc của ông. Có một sự mâu thuẫn sâu sắc trong thái độ của ông mà ông không thấy, và đó chính là nguyên nhân của phiền não. Ông khăng khăng với ý tưởng là ông được sinh vào một thế giới của đau khổ và phiền não. Ta biết rằng thế giới là một đứa trẻ của tình yêu, có sự khởi đầu của nó, trưởng thành và thỏa mãn trong tình yêu. Nhưng Ta còn ở ngoài tình yêu.

H: Nếu ông tạo ra thế giới bằng tình yêu, tại sao nó lại đầy đau khổ?

M: Ông nói đúng – từ cái nhìn của thân xác. Nhưng ông không phải thân xác. Ông là sự bao la vô tận của ý thức. Đừng thừa nhận những gì không thật thì ông sẽ thấy sự vật như Ta thấy chúng. Đau khổ và lạc thú, tốt và xấu, đúng và sai chỉ là những điều kiện tương đối và không thể được xem như tuyệt đối. Chúng đều hữu hạn và vô thường.

H: Trong truyền thống đạo Phật, một Nirvani, tức một vị Phật giác ngộ, hoàn toàn tự do đối với vũ trụ. Bậc giác ngộ có thể biết và chứng nghiệm tất cả những gì tồn tại. Bậc giác ngộ có thể điều khiển, can thiệp vào thiên nhiên, vào chuỗi tương quan nhân quả, thay đổi trình tự các diễn tiến, và thậm chí có thể hóa giải quá khứ! Thế giới vẫn có với bậc giác ngộ nhưng bậc giác ngộ hoàn toàn tự do trong thế giới.

M: Những gì ông mô tả là Thượng đế. Dĩ nhiên, khi nào có thế giới thì đều có cái đối ứng với nó, tức là Thượng đế. Nhưng Ta siêu vượt cả hai. Có một vương quốc nọ đi tìm một vị vua. Họ tìm ra đúng người và phong làm vua. Người được phong vương đó không thể nào đã thay đổi. Người đó đơn thuần chỉ được ban cho một tước vị, uy quyền và trách nhiệm của một ông vua. Bản chất của người đó không hề bị ảnh hưởng, mà chỉ có hành động. Tương tự như thế với người giác ngộ, nội dung ý thức của người đó trải qua một sự chuyển hóa tận căn bản. Nhưng người giác ngộ không lầm lẫn. Người ấy biết rõ cái bất biến.

H: Cái không thay đổi thì không thể ý thức. Ý thức luôn luôn thuộc về thay đổi. Cái không thay đổi không lưu lại dấu vết nào trong ý thức.

M: Có và không. Tờ giấy không phải là chữ viết nhưng nó chứa đựng chữ viết. Mực không phải là bản văn được viết ra, và bản văn không phải là tâm của người đọc – nhưng tất cả đều làm cho bản văn khả hữu.

H: Ý thức xuất phát từ thực tại hay là một thuộc tính của vật chất?

M: Ý thức như thế là một đối ứng vi tế của vật chất. Cũng như quán tính – tức là lực ì – và năng lượng là những thuộc tính của vật chất, thì sự hài hòa thể hiện chính nó thành ý thức. Ông có thể xem nó như là một hình thức năng lượng vô cùng vi tế. Bất cứ nơi nào vật chất tự tổ chức thành một cơ thể ổn định thì ý thức tự xuất hiện một cách tự sinh khởi. Khi cơ thể hủy hoại thì ý thức biến mất.

H: Thế cái gì còn lại?

M: Cái mà vật chất và ý thức là những phương diện của nó, còn lại. Nó bất sinh bất diệt.

H: Nếu nó ở ngoài cả ý thức lẫn vật chất thì làm sao nó có thể được kinh nghiệm?

M: Nó có thể được biết qua những tác động của nó lên cả hai; hãy tìm nó trong cái đẹp và trong hạnh phúc chơn thật. Nhưng ông chỉ có thể hiểu được thân xác và ý thức là gì khi nào ông vượt ra ngoài cả hai.

H: Vui lòng cho chúng tôi biết một cách huỵch toẹt: Ông có ý thức hay vô thức?

M: Người giác ngộ không ý thức mà cũng chẳng vô thức. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong sự giác ngộ của người đó. Tánh biết dung chứa mọi kinh nghiệm. Nhưng người biết ở ngoài mọi kinh nghiệm. Người đó ở ngoài cả tánh biết.

H: Có một nền tảng của kinh nghiệm, gọi đó là vật. Có người kinh nghiệm, gọi đó là tâm. Cái gì là cầu nối giữa vật và tâm?

M: Chính khoảng trống giữa hai cái là cầu nối. Cái – một đầu trông như vật, và một đầu giống như tâm – là cây cầu trong chính nó. Đừng phân chia thực tại thành tâm và thân thì chẳng cần đến cầu.

Ý thức sinh khởi thì thế giới sinh khởi. Khi chiêm ngưỡng trí tuệ và cái đẹp của thế giới, ông gọi đó là Thượng đế. Khi biết nguồn gốc của tất cả – ở ngay trong chính ông – ông sẽ nhận ra mọi câu hỏi của ông đều đã được giải đáp.

H: Người thấy và cái bị thấy là hai hay một?

M: Chỉ có sự thấy; cả người thấy và cái bị thấy đều ở trong nó. Đừng tạo ra khác biệt thì không có khác biệt.

H: Tôi bắt đầu với câu hỏi về một người khi chết. Ông bảo rằng kinh nghiệm của người đó sẽ hình thành chính nó tùy theo sự mong đợi hay tin tưởng của người đó.

M: Trước khi được sinh ra, ông mong đợi sẽ sống theo một phương án nào đó mà ông đã lập ra. Ý chí của ông chính là xương sống định mệnh của ông.

H: Nhưng chắc chắn nghiệp xen vào.

M: Nghiệp tạo ra cảnh ngộ, còn thái độ là của chính ông. Xét cho cùng, cá tính của ông định hình cuộc đời ông, và chỉ ông mới có thể định hình cá tính của ông.

H: Một người định hình cá tính của mình như thế nào?

M: Bằng cách thấy nó như nó là, và bằng sự thành khẩn hối lỗi. Sự thấy biết cảm thọ đồng nhất này có thể làm được những phép lạ. Cũng như đúc một ảnh tượng bằng đồng; chỉ riêng kim loại hay lửa thì vẫn chưa đủ, mà ngay cả khuôn đúc cũng vô dụng. Ông phải nấu chảy kim loại trong sức nóng của lửa rồi đổ vô khuôn.

❁ ❁ ❁

57. Bên ngoài tâm không hề có đau khổ

Hỏi: Thấy ông ngồi trong nhà con trai chờ bữa ăn trưa, tôi thắc mắc không biết nội dung ý thức của ông có giống với của tôi, hay một phần nào đó khác biệt, hay hoàn toàn khác biệt. Không biết ông có cảm thấy đói và khát như tôi, mong cho bữa ăn sớm được dọn ra, hay tâm ông ở trong một trạng thái hoàn toàn khác biệt?

Maharaj: Chẳng có gì khác biệt lắm trên bề mặt, nhưng ở dưới sâu thì rất nhiều. Ông chỉ biết ông qua các cảm thọ và tâm, ông cho ông là những gì chúng đề khởi. Vì không có được sự hiểu biết trực tiếp về chính mình, ông chỉ có những ý tưởng về ông mà tất cả đều tầm phào, gián tiếp, và nghe nói. Ông cho bất cứ gì ông nghĩ ông là – là sự thật. Cái thói quen tưởng tượng rằng ông là một cái gì đó có thể nhận thức được và mô tả được – rất mãnh liệt trong ông.

Ta thấy như ông thấy, nghe như ông nghe, nếm như ông nếm, ăn như ông ăn. Ta cũng cảm thấy đói, khát và mong đợi thức ăn được dọn đúng giờ. Khi nhịn đói hay đau ốm thân và tâm Ta suy yếu. Tất cả những trạng thái như thế Ta nhận thức rất rõ, nhưng một cách nào đó Ta không ở trong chúng. Ta cảm thấy như thể Ta nổi trên chúng, xa lìa và bất tùy thuộc. Có sự xa lìa và bất tùy thuộc, cũng có cảm giác đói và khát, cũng có cả sự biết về tất cả những thứ đó, và một ý thức về một khoảng cách mênh mông, như thể là thân, tâm và tất cả những gì xảy ra cho thân, tâm ở một nơi nào đó xa xăm tận chân trời. Ta giống như một màn ảnh xinê – trong sáng và trống không – phim ảnh đi ngang qua đó và biến mất, để lại màn ảnh trong sáng và trống không như trước kia. Màn ảnh không hề bị tác động bởi phim chiếu, và phim chiếu cũng không hề bị tác động bởi màn ảnh. Màn ảnh ngăn ánh sáng lại và phản chiếu các hình ảnh, nó không tạo ra các hình ảnh. Màn ảnh chẳng có liên quan nào với cuốn phim. Cuốn phim là cuốn phim – một mớ định mệnh – không phải định mệnh của Ta mà là định mệnh của những người trên màn ảnh.

H: Ông không có ý nói rằng những người trong phim ảnh có định mệnh! Họ thuộc về một chuyện phim, mà chuyện phim thì không phải của họ.

M: Thế còn ông? Ông định hình cuộc đời hay cuộc đời định hình ông?

H: Vâng, ông nói đúng. Một câu chuyện đời tự trải ra và tôi là một trong các diễn viên trong đó. Tôi không có hiện hữu nào ngoài nó, cũng như nó không thể hiện hữu mà không có tôi. Tôi chỉ là một nhân vật, chứ không phải một con người.

M: Khi bắt đầu định hình cuộc đời của chính mình – thay vì chấp nhận cuộc đời như nó đến – thì nhân vật trở thành con người, rồi đồng hóa chính mình với cuộc đời.

H: Khi tôi hỏi và ông trả lời, một cách chính xác chuyện gì xảy ra?

M: Câu hỏi và câu trả lời – cả hai đều xuất hiện trên màn ảnh. Môi cử động, thân xác nói, rồi màn ảnh lại trở về với sự trong sáng và trống không.

H: Khi nói trong sáng và trống không, ông muốn nói gì?

M: Ta muốn nói là hoàn toàn không có nội dung. Ta không thể nhận thức được hay hiểu được đối với chính Ta; không có gì để Ta có thể chỉ vào đó và bảo: “Đây là Ta.” Ông đồng hóa chính ông với bất cứ gì một cách dễ dàng, Ta thì không thể như thế. Nhận thức: “Ta không phải là cái này hay cái kia, hay không có gì là của Ta” mãnh liệt trong Ta đến nỗi ngay khi có một cái gì, hay một ý nghĩ xảy ra thì lập tức ý thức “Cái này không phải Ta” xuất hiện.

H: Ông muốn nói rằng suốt đời ông, ông chỉ lập đi lập lại “Cái này không phải Ta, cái kia không phải Ta?”

M: Dĩ nhiên là không. Ta nói ra để cho ông hiểu. Nhờ ân đức của Tôn sư, Ta đã nhận ra một lần và vĩnh viễn rằng Ta không phải là đối tượng hay chủ thể, Ta không cần lúc nào cũng nhắc nhớ chính mình.

H: Tôi không nắm bắt một cách chính xác ý ông khi ông bảo rằng ông không phải là đối tượng hay chủ thể. Ngay lúc này, khi ông và tôi đang nói chuyện, không phải tôi là đối tượng mà ông kinh nghiệm, còn ông là chủ thể?

M: Ông xem đây, ngón tay cái của Ta chạm vào ngón tay trỏ. Cả hai cùng chạm và bị chạm. Khi sự chú ý của Ta đặt vào ngón cái thì ngón cái là người cảm nhận, và ngón trỏ là – cái Ta. Thay đổi tiêu điểm của sự chú ý thì tương quan đảo ngược. Ta nhận thấy rằng một cách nào đó, bằng cách thay đổi tiêu điểm của sự chú ý, Ta trở thành chính cái mà Ta quan sát và kinh nghiệm ý thức của nó; Ta trở thành nhân chứng nội tại của cái đó. Ta gọi cái khả năng thể nhập những tiêu điểm khác của ý thức là tình yêu. Ông có thể đặt cho nó bất cứ cái tên nào ông thích. Tình yêu bảo: “Ta là tất cả.” Trí tuệ bảo: “Ta không là gì cả.” Ở giữa hai cái là cuộc sống của Ta trôi chảy. Vì vào bất cứ điểm nào trong thời gian và không gian Ta đều có thể trở thành cả chủ thể lẫn đối tượng của kinh nghiệm, nên Ta bảo: Ta là cả hai, mà chẳng phải cả hai, và ở ngoài cả hai.

H: Ông phát biểu những điều rất lạ lùng về chính ông. Điều gì khiến ông nói như thế? Ông nói ông ở ngoài không gian và thời gian nghĩa là thế nào?

M: Ông hỏi và câu trả lời bật ra. Ta quan sát chính Ta – Ta quan sát câu trả lời và thấy không có gì mâu thuẫn. Ta biết rõ rằng Ta đang nói với ông sự thật. Tất cả chỉ đơn giản như thế. Miễn là ông tin Ta nói điều Ta muốn nói, và Ta rất nghiêm túc. Ta đã nói với ông rồi, Tôn sư chỉ cho Ta bản tánh chơn thật của Ta – và bản tánh chơn thật của thế giới. Khi nhận ra Ta là một với thế giới nhưng vẫn ở ngoài thế giới thì Ta trở nên tự do đối với tham ái và lo sợ. Ta đã không biện luận rằng Ta phải tự do – Ta nhận ra chính Ta tự do – một cách bất ngờ, mà không hề cố gắng. Từ đó đến nay sự tự do đối với tham ái và lo sợ này vẫn còn trong Ta. Ta còn nhận ra một điều nữa là Ta không cần phải dụng công – hành động đi liền theo ý nghĩ, không chậm trễ hay va chạm. Ta cũng nhận thấy ý nghĩ trở nên tự viên mãn, và mọi thứ rơi vào đúng chỗ của nó một cách êm thấm. Sự thay đổi quan trọng xảy ra trong tâm; tâm trở nên tịnh và lặng, tâm phản ứng bén nhạy nhưng không làm cho phản ứng trở nên thường xuyên. An nhiên tự tại trở thành một lối sống, cái thật trở nên tự nhiên và cái tự nhiên trở nên thật. Và quan trọng hơn tất cả, tình cảm bao la, tình yêu, sự kín đáo và tĩnh lặng, chiếu sáng khắp mọi phương, bao trùm tất cả, làm cho tất cả trở nên thù thắng và đẹp đẽ, uy nghi và tốt lành.

H: Chúng tôi nghe nói các năng lực Yoga phát sinh tùy nghi trong một người đã nhận ra sự hiện hữu chơn thật của chính mình. Ông có kinh nghiệm nào về những năng lực như thế?

M: Năm thân của con người (vật lý, vân vân) có những năng lực tiềm tàng ngoài những mơ tưởng phóng túng nhất của chúng ta. Không những toàn thể vũ trụ được phản ảnh trong con người, mà cả cái năng lực điều hành vũ trụ lúc nào cũng sẵn sàng để con người sử dụng. Người có trí tuệ không nao nức sử dụng những năng lực như thế, trừ khi tình huống yêu cầu. Người đó nhận thấy các khả năng và sự khéo léo của tính cách con người đủ dùng trong những vấn đề của cuộc sống thường ngày. Bằng sự luyện tập chuyên biệt, người ta có thể phát huy một năng lực nào đó, nhưng ai còn phô trương những năng lực như thế thì còn trong vòng ràng buộc. Người có trí tuệ không cho bất cứ gì là của riêng mình. Nếu có một phép lạ ở một nơi nào đó, vào một thời điểm nào đó, được gán cho một ai đó, thì người trí tuệ không đặt ra một quan hệ nhân quả nào giữa các sự kiện và con người, và cũng không cho phép đưa ra một kết luận. Tất cả đã xảy ra như nó đã xảy ra vì nó đã phải xảy ra; mọi thứ xảy ra như mọi thứ xảy ra, bởi vì vũ trụ hiện hữu như nó hiện hữu.

H: Hình như vũ trụ không phải là một nơi hạnh phúc để sống. Vì sao lại có quá nhiều đau khổ đến thế?

M: Đau đớn là vật lý, đau khổ là tâm lý. Bên ngoài tâm không hề có đau khổ. Đau đớn chỉ là một dấu hiệu cho thấy thân xác gặp nguy hiểm và đòi hỏi phải được chăm sóc. Tương tự như thế, đau khổ báo cho chúng ta biết rằng cái cơ cấu của ký ức và thói quen mà chúng ta gọi là con người – Vyakti – bị đe dọa bởi sự mất mát hay thay đổi. Đau đớn là cần thiết cho sự sinh tồn của thân xác, nhưng không có gì buộc ông phải đau khổ. Đau khổ hoàn toàn do thái độ bám giữ hay cưỡng lại gây ra; nó biểu hiện thái độ miễn cưỡng của chúng ta trong sự tiến tới và tùy thuận với cuộc sống.

Một cuộc sống lành mạnh thì không còn đau đớn, một cuộc sống thánh thiện thì không còn đau khổ.

H: Chẳng có ai đau khổ hơn thánh nhân.

M: Họ nói với ông, hay chính ông nói thế? Điều quan yếu của sự thánh thiện là là hoàn toàn chấp nhận khoảnh khắc hiện tại, hòa hợp với tất cả như chúng đang xảy ra. Bậc thánh nhân không hề muốn sự vật khác với những gì chúng là, vì biết rằng – xét đến tất cả các yếu tố – chúng là bất khả tránh. Bậc thánh nhân thân thiện với cái bất khả tránh, và, do đó không đau khổ. Bậc thánh nhân có thể biết sự đau đớn nhưng sự đau đớn không thể khuất phục bậc thánh nhân. Bậc thánh nhân có thể làm những gì cần thiết để lập lại sự quân bình đã mất – hoặc cũng có thể bậc thánh nhân cứ để mọi chuyện xảy ra theo dòng luân lưu của chúng.

H: Bậc thánh nhân có thể chết.

M: Thế thì đã sao? Sống mãi người đó được gì, và chết đi người đó mất gì? Cái được sinh ra thì phải chết. Cái chưa bao giờ được sinh ra thì không thể chết. Cho mình là cái nào thì hoàn toàn tùy thuộc người đó.

H: Giả sử ông đau ốm thập tử nhất sinh. Ông có hối tiếc hay ân hận gì không?

M: Nhưng Ta đã chết, hay đúng ra là Ta không sống mà cũng chẳng chết. Ông thấy thân xác Ta hành hoạt theo thói quen của nó và đưa ra những kết luận. Ông không chịu nhìn nhận rằng mọi kết luận của ông không thể ràng buộc được ai ngoài chính ông. Hãy thấy được rằng hình ảnh mà ông có về Ta là hoàn toàn sai lầm; ngay cả hình ảnh mà ông có về chính ông cũng lầm nốt, nhưng đó là vấn đề của ông. Ông không cần thiết phải tạo ra vấn đề cho Ta, rồi yêu cầu Ta giải quyết. Ta không tạo ra vấn đề và cũng chẳng giải quyết vấn đề.

❁ ❁ ❁

58. Sự toàn hảo – vận mệnh chung

Hỏi: Khi được hỏi về phương tiện để giác ngộ chính mình, ông luôn luôn nhấn mạnh sự quan trọng của việc đặt tâm vào ý thức “Ta hiện hữu.” Đâu là yếu tố nhân quả? Tại sao ý nghĩ đặc thù này đưa đến sự giác ngộ chính mình? Suy tư về “Ta hiện hữu” tác động đến tôi như thế nào?

Maharaj: Chính thực tế sự quan sát thay đổi người quan sát và cái được quan sát. Xét cho cùng, cái ngăn che sự thấy biết rõ ràng bản tính chơn thật của mỗi người là sự nhu nhược và trì trệ của tâm, và khuynh hướng của tâm là bỏ qua cái tinh tế mà chỉ chú ý đến cái thô. Khi hành theo sự chỉ dẫn của Ta và tìm cách chỉ đặt tâm vào ý niệm “Ta hiện hữu” thì ông sẽ hoàn toàn biết rõ tâm và những dao động thất thường của nó. Tánh biết – là sự hài hòa trong sáng trong hành động – làm tan biến sự u tối và bất an của tâm, và sẽ từ từ nhưng chắc chắn thay đổi bản chất của tâm. Sự thay đổi này không nhất thiết gây chú ý và có thể rất khó nhận ra, nhưng là một sự chuyển hóa sâu sắc và căn bản từ tối sang sáng, từ không biết sang biết.

H: Bắt buộc phải là công thức “Ta hiện hữu”? Bất cứ câu nào khác không được hay sao? Nếu tôi tập trung vào câu “có một cái bàn” – There is a table – thì không phải cũng có cùng một mục đích?

M: Nếu để thực hành sự tập trung – thì đúng. Nhưng sự thực hành đó không đưa ông ra khỏi ý nghĩ về cái bàn. Ông không cần biết về cái bàn, mà ông muốn biết chính ông. Muốn vậy, phải luôn luôn giữ trong tiêu điểm của ý thức sự gợi ý duy nhất mà ông có: Tính chắc chắn về sự hiện hữu của ông. Hãy ở với nó, vui đùa với nó, tư duy về nó, tìm hiểu nó thật sâu xa, cho đến khi lớp vỏ vô minh bật mở, và ông thể nhập cảnh giới của thực tại.

H: Có quan hệ nhân quả nào giữa sự chú ý của tôi vào cái “Ta hiện hữu” và sự khai mở cái vỏ vô minh?

M: Sự thôi thúc tìm ra chính mình là một dấu hiệu cho biết ông sẵn sàng. Động lực luôn luôn khởi động từ bên trong. Nếu chưa đến lúc thì ông không thể có được ước muốn và sức mạnh để hết lòng dấn thân cho sự tìm hiểu chính mình.

H: Thế không phải phong thái của Đạo sư đã khiến cho chúng tôi ước muốn và mong được thỏa mãn ước muốn đó? Không phải vẻ mặt sáng ngời của Đạo sư đã thu hút chúng tôi và lôi chúng tôi ra khỏi vũng lầy đau khổ?

M: Chính vị Đạo sư bên trong đưa ông đến với Đạo sư bên ngoài, như một bà mẹ dẫn con đến gặp ông thầy. Hãy tin tưởng và quy thuận Đạo sư, vì Đạo sư là sứ giả của cái Ta chơn thật của ông.

H: Làm sao tôi có thể tìm được một Đạo sư khả tín?

M: Chính trái tim của ông sẽ cho ông biết. Tìm một Đạo sư không khó vì vị ấy lúc nào cũng sẵn sàng, còn ông thì không. Ông phải sẵn sàng tiếp thu, nếu không thì khi gặp Đạo sư ông có thể bỏ lỡ cơ hội vì sự lơ đễnh và cố chấp. Như trường hợp Ta, trong Ta chẳng có gì hứa hẹn lắm, nhưng khi gặp Đạo sư, Ta lắng nghe, tin tưởng và quy thuận.

H: Thế không phải tôi cần cẩn thận tìm hiểu một Đạo sư trước khi hoàn toàn giao trọn tôi cho vị ấy?

M: Bằng mọi cách hãy tìm hiểu! Nhưng liệu ông có thể tìm ra được gì? Ông chỉ có thể tìm ra những gì mà Đạo sư xuất hiện đối với ông trên bình diện của ông.

H: Tôi sẽ quan sát xem vị ấy có nhất quán, cuộc sống và giáo pháp của vị ấy có tương ứng với nhau không?

M: Nếu ông tìm ra rất nhiều sự bất tương ứng thì sao? Nó chẳng chứng minh được điều gì. Chỉ dụng tâm mới quan trọng. Làm sao ông biết được sự dụng tâm của vị ấy?

H: Ít ra, tôi mong đợi vị ấy là một người biết tự chế, có một cuộc sống ngay thẳng.

M: Những người như thế thì rất nhiều, nhưng chẳng ích lợi gì cho ông. Đạo sư là người có thể chỉ cho ông con đường về nhà, con đường trở về với cái Ta chơn thật của chính ông. Sự chỉ dẫn này có liên quan gì đến cá tính, tính tình của con người mà vị Đạo sư có vẻ như thế? Thế không phải Đạo sư đã nói thẳng với ông là vị ấy không phải là một con người? Cách duy nhất mà ông có thể nhận xét là sự thay đổi trong chính ông khi ông thân cận với vị ấy. Nếu ông cảm thấy an lạc hơn, nếu ông hiểu chính ông rõ ràng và sâu sắc hơn bình thường, thì có nghĩa là ông đã gặp đúng Đạo sư.

Ông không cần phải vội vàng, nhưng một khi đã quyết định tin tưởng vị ấy thì hãy tin tưởng tuyệt đối, và hoàn toàn tuân theo mọi chỉ dẫn với tất cả tín tâm. Nếu ông không nhận vị ấy làm Đạo sư, mà chỉ thỏa mãn với sự kề cận với vị ấy, thì điều đó cũng chẳng quan trọng. Chỉ riêng Satsang cũng có thể đưa ông đến đích, miễn là nó không bị cấu nhiễm và nhiễu loạn. Nhưng một khi đã chấp nhận một người làm Đạo sư thì hãy lắng nghe, ghi nhớ, và quy thuận. Lừng chừng là một chướng ngại nghiêm trọng, và là nguyên nhân của mọi đau khổ do chính mình gây ra. Đạo sư thì không bao giờ sai lầm, sai lầm luôn luôn do sự u mê và ngoan cố của người môn đồ gây ra.

H: Khi đó Đạo sư có xua đuổi, hay khai trừ người môn đồ?

M: Người làm như thế thì không phải là một Đạo sư! Vị Đạo sư vẫn kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi người môn đồ trở nên kiềm chế, trấn tĩnh, và trở lại với một trạng thái sẵn sàng tiếp thu.

H: Động cơ là vật lý? Vì sao Đạo sư lại chuốc lấy phiền nhiễu như thế?

M: Đau khổ và chấm dứt đau khổ. Đạo sư thấy con người đau khổ trong chiêm bao, và muốn họ thức tỉnh. Tình yêu không dung thứ đau đớn và đau khổ. Lòng kiên nhẫn của Đạo sư thì vô hạn, và, do đó lòng kiên nhẫn đó không thể bị thất bại. Đạo sư không bao giờ thất bại.

H: Liệu Đạo sư đầu tiên cũng là Đạo sư cuối cùng, hay tôi phải theo đuổi hết Đạo sư này đến Đạo sư khác?

M: Toàn thể vũ trụ là Đạo sư của ông. Nếu tỉnh thức và thông minh, ông có thể học từ bất cứ gì. Nếu tâm ông trong và lòng ông sạch, ông có thể học ở bất cứ ai đi qua. Chính vì ông lười biếng hoặc bất an nên cái Ta bên trong ông thị hiện thành vị Đạo sư bên ngoài, khiến ông tin tưởng và quy thuận.

H: Liệu cần thiết phải có một Đạo sư?

M: Câu ông hỏi cũng giống như “Liệu cần thiết phải có một bà mẹ?” Để thăng tiến từ phương vị này đến phương vị khác trong ý thức, ông cần sự trợ giúp. Sự trợ giúp không luôn luôn phải mang hình tướng của một con người, mà có thể là một sự hiện diện vi tế, hay một thoáng trực giác – nhưng chắc chắn sự trợ giúp sẽ đến. Cái Ta bên trong theo dõi và chờ đợi đứa con trở về với cha của nó. Vào đúng lúc, cái Ta sẽ sắp đặt mọi chuyện một cách ân cần và hữu hiệu. Khi cần đến một sứ giả hay người hướng dẫn, cái Ta sẽ phái vị Đạo sư để giải quyết những điều cần thiết.

H: Có một điều tôi không nắm bắt được. Ông nói cái Ta bên trong khôn ngoan, tốt đẹp và toàn hảo về mọi mặt, và con người chỉ là một ảnh phản chiếu, mà tự thân không có thực thể. Ấy thế mà ông lại chuốc lấy đủ thứ phiền nhiễu để giúp con người nhận ra chính mình. Nếu con người quả thật tầm thường như thế thì cần gì phải bận tâm đến sự an sinh của nó? Cần gì phải đếm xỉa đến một cái bóng?

M: Ông vừa đưa nhị nguyên đối đãi vào chỗ không có. Có thân và có cái Ta. Giữa hai cái là tâm, trong tâm cái Ta được phản chiếu thành “Ta hiện hữu.” Chính vì những sai sót, tính thô thiển và bồn chồn, sự thiếu vắng nhận thức sâu sắc và trong sáng của tâm, nên tâm nhận lầm chính nó là thân xác, thay vì cái Ta. Tất cả những gì cần thiết là làm cho tâm trở nên trong sáng để tâm có thể nhận ra sự đồng nhất của nó với cái Ta. Khi tâm hội nhập với cái Ta, thân xác không gây ra một trở ngại nào. Thân xác vẫn như nó là: một công cụ nhận thức và hành động, một phương tiện và sự thể hiện của ngọn lửa sáng tạo bên trong. Giá trị tối hậu của thân xác là phục vụ cho sự khám phá thân vũ trụ, tức là vũ trụ trong tổng thể viên mãn của nó. Khi nhận ra chính ông trong sự thị hiện, ông sẽ tiếp tục khám phá rằng ông còn hơn cả những gì mà chính ông đã tưởng tượng.

H: Sự khám khá chính mình không bao giờ kết thúc?

M: Vì không có sự khởi đầu nên không có sự kết thúc. Nhờ ân đức của Tôn sư, Ta đã khám phá ra rằng: Tất cả những gì có thể chỉ vào được đều không phải là Ta; Ta không là “cái này” hay “cái kia.” Đây là một sự thật tuyệt đối.

H: Như vậy vượt ra khỏi chính mình để vào những giai tầng mới xảy ra khi nào trong sự khám phá không bao giờ kết thúc này?

M: Tất cả đều thuộc về phạm trù của sự thị hiện; nó ở ngay trong cơ cấu của vũ trụ – chỉ có thể đạt được cái cao hơn khi đã thoát ra khỏi cái thấp hơn.

H: Cái gì là cao hơn và cái gì là thấp hơn?

M: Hãy nhìn sự việc theo tánh biết. Ý thức sâu hơn và rộng hơn thì cao hơn. Tất cả mọi sự sống đều hành động cho sự bảo vệ, duy trì và mở rộng ý thức. Đây chính là ý nghĩa và mục đích duy nhất của thế giới. Đây chính là cốt tủy của Yoga – không ngừng nâng cao trình độ của ý thức, khám phá những giai tầng mới, cùng với những đặc tính, phẩm chất và năng lượng của những giai tầng đó. Trong ý nghĩa này, toàn thể vũ trụ trở thành – Yogakshetra – trường Yoga.

H: Liệu sự toàn hảo có phải là vệnh mệnh chung của toàn thể nhân loại?

M: Của tất cả chúng sinh – tối hậu là như thế. Khả năng sẽ trở thành tất định một khi ý niệm về giác ngộ xuất hiện trong tâm. Khi đã nghe và hiểu được rằng sự giải thoát ở ngay trong tầm với thì một người sẽ không thể quên được, vì đó là thông điệp đầu tiên từ bên trong. Nó sẽ bám rễ, mọc lên và vào đúng lúc sẽ mang lấy hình tướng của Đạo sư.

H: Như vậy, tất cả những gì mà chúng ta quan tâm là khôi phục lại tâm?

M: Còn gì khác? Tâm đi lạc, tâm trở về nhà. Ngay cả từ “lạc” cũng không chuẩn. Tâm phải biết chính nó trong từng trạng huống. Chẳng có gì là sai lầm, miễn là không tái phạm.

❁ ❁ ❁

59. Tham ái và lo sợ là các trạng thái hướng ngã

Hỏi: Tôi muốn trở lại với câu hỏi về sự thích thú và đau đớn, tham ái và lo sợ. Tôi hiểu rằng lo sợ có nghĩa là ghi nhớ và tiên liệu về sự đau đớn thì cần thiết cho sự duy trì cơ thể và mô thức sống của nó. Mọi nhu cầu khi cần đến thì đầy đau đớn, và tiên liệu về những nhu cầu đó thì đầy lo sợ; con người có lý do chính đáng để lo sợ không đáp ứng được những nhu cầu căn bản. Người ta cảm thấy nhẹ nhõm khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn, hoặc lo âu giảm đi hoàn toàn là do sự đau đớn chấm dứt. Chúng ta có thể đặt cho trạng thái đó những cái tên mang tính tích cực như sự thích thú, hoặc vui sướng, hay hạnh phúc, nhưng thực chất là thoát khỏi đau đớn. Chính sự sợ đau này đã liên kết tất cả các định chế xã hội, kinh tế và chính trị của chúng ta.

Điều làm tôi bối rối là chúng ta tìm kiếm lạc thú trong sự vật và các trạng thái của tâm – là những thứ hoàn toàn không có liên quan gì với sự sinh tồn. Trái lại, những lạc thú của con người thường mang tính hủy diệt. Chúng gây thiệt hại hay hủy diệt đối tượng, công cụ và ngay cả chủ thể của sự thích thú. Nếu không phải như thế thì lạc thú và sự theo đuổi lạc thú chẳng tạo ra vấn đề. Cốt lõi câu hỏi của tôi là: Tại sao lạc thú lại có tính cách hủy diệt? Tại sao người ta vẫn cần đến lạc thú bất kể tính hủy diệt của nó?

Có thể nói thêm là tôi không có trong tâm cái mô thức “lạc thú đau đớn” mà thiên nhiên buộc chúng ta đi theo con đường của nó. Tôi nghĩ đến những lạc thú do con người tạo ra, từ thỏa mãn các giác quan đến vi tế, từ thô thiển nhất như ăn uống no say đến thanh tao. Thói đam mê lạc thú bằng mọi giá thì chung nhất cho mọi người, như thế phải có một cái gì có ý nghĩa tại nguồn gốc của nó.

Dĩ nhiên, không phải mọi sinh hoạt của con người đều vụ lợi, nhằm thỏa mãn một sự cần cầu. Chẳng hạn như vui chơi thì rất tự nhiên, và con người là sinh vật ham vui nhất trong sự tồn tại. Sự vui chơi thỏa mãn nhu cầu khám phá chính mình và phát triển chính mình. Nhưng ngay cả khi vui chơi, con người vẫn tìm cách hủy diệt thiên nhiên, hủy diệt người khác, và hủy diệt chính mình.

Maharaj: Nói tóm lại, ông không phản đối lạc thú, mà chỉ chống lại cái giá của nó là đau đớn và đau khổ.

H: Nếu tự thân thực tại là an lạc thì lạc thú, một cách nào đó, phải có liên quan với thực tại.

M: Không nên tiếp tục bằng lý lẽ của ngôn từ. An lạc của thực tại không loại trừ đau khổ. Ông chỉ biết lạc thú, chứ ông không biết được sự an lạc của sự hiện hữu thuần túy. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu lạc thú trên bình diện của nó.

Nếu quan sát chính mình vào những lúc kích thích hay đau đớn, chắc chắn ông sẽ nhận ra rằng tự thân sự kiện không gây thích thú hay đau đớn, mà là tình huống trong đó sự kiện chỉ là một phần. Sự thích thú ở trong quan hệ giữa người thụ hưởng và cái được thụ hưởng. Và điều chính yếu trong quan hệ đó là sự chấp nhận. Dù tình huống là thế nào đi nữa, nếu được chấp nhận thì nó đem lại thích thú. Nếu không được chấp nhận thì nó gây đau đớn. Điều gì làm cho tình huống được chấp nhận thì không quan trọng; nguyên nhân có thể là vật lý, hay tâm lý, hoặc không thể biết được, nhưng chấp nhận là yếu tố quyết định. Một cách tương ứng, đau khổ là do không chấp nhận.

H: Đau đớn thì không thể chấp nhận được.

M: Tại sao không? Ông có bao giờ thử chưa? Cứ thử đi và ông sẽ nhận thấy rằng trong đau đớn có một sự vui sướng mà sự thích thú không thể đem lại; lý do thật đơn giản: Chấp nhận đau đớn sẽ khiến ông cảm nhận sâu sắc hơn là sự thích thú. Cái Ta cá nhân, do bản chất của nó, không ngừng theo đuổi lạc thú và né tránh đau đớn. Chấm dứt được mô thức này là đoạn trừ được cái Ta. Đoạn trừ được cái Ta với những tham ái và lo sợ của nó sẽ tạo cơ hội cho ông trở về với bản tính chơn thật của ông, cội nguồn của mọi an lạc. Nỗi khao khát lạc thú triền miên là phản ảnh của sự hài hòa nội tại phi thời. Sự thật hiển nhiên là một người chỉ biết về chính mình khi ở vào một tình huống xung đột giữa lạc thú và đau khổ, đòi hỏi phải có một sự chọn lựa hay quyết định. Chính sự va chạm giữa tham ái và lo sợ này gây nên sân hận, một công cụ hủy diệt mãnh liệt nhất đối với sự thanh thản của cuộc sống. Khi đau đớn được chấp nhận như nó là – một bài học và cũng là một cảnh báo – được tìm hiểu đến nơi đến chốn và được chú ý đến, thì sự phân biệt giữa đau đớn và thích thú không còn nữa, cả hai đều trở thành kinh nghiệm – đau đớn khi cưỡng lại, thích thú khi chấp nhận.

H: Ông không dạy trốn tránh lạc thú và theo đuổi đau đớn?

M: Không, chẳng theo đuổi lạc thú mà cũng không trốn tránh đau đớn. Chấp nhận cả hai khi chúng đến, vui thích với cả hai khi chúng có đó, và để chúng ra đi vì chúng phải ra đi.

H: Làm sao tôi có thể vui thích với đau đớn? Những đau đớn vật lý kêu gọi phải có hành động.

M: Tất nhiên, những đau khổ tâm lý cũng vậy. An lạc ở trong sự biết rõ đau khổ, chứ không ở trong sự co lại thủ thế, hay bằng mọi cách quay đi. Mọi hạnh phúc đều khởi sinh từ biết. Chúng ta càng biết nhiều thì niềm vui sướng càng sâu đậm. Chấp nhận đau đớn, không đề kháng, dũng cảm và chịu đựng là chìa khóa khai mở cội nguồn sâu thẳm và vĩnh cửu của hạnh phúc chơn thật, và an lạc đích thực.

H: Vì sao đau đớn được cảm nhận sâu sắc hơn thích thú?

M: Thích thú luôn luôn được chấp nhận, trong khi cái Ta dồn tất cả sức lực của nó để cưỡng lại đau đớn. Vậy chấp nhận đau đớn là phủ nhận cái Ta, mà cái Ta thì ngăn trở hạnh phúc chơn thật; do đó, thực tâm chấp nhận đau đớn là khai phóng những giòng suối của hạnh phúc.

H: Chấp nhận đau khổ cũng thế sao?

M: Thực tế của sự đau đớn có thể được đưa vào tiêu điểm của tánh biết một cách dễ dàng. Đau khổ thì không đơn giản như thế. Chú ý đến đau khổ vẫn chưa đủ, vì cuộc sống tâm lý – như chúng ta biết – là một giòng đau khổ liên tục. Để đạt đến những tầng lớp sâu hơn của đau khổ, ông phải tìm ra những gốc rễ của nó và phát hiện cái mạng lưới bao la ở bên dưới, nơi mà lo sợ và tham ái đan kết với nhau một cách chặt chẽ, và những giòng sinh lực đối kháng, ngăn trở và hủy diệt lẫn nhau.

H: Làm sao tôi có thể chấn chỉnh một tình trạng rối ren, hoàn toàn ở dưới bình diện của ý thức?

M: Bằng cách ở với chính ông – cái “Ta hiện hữu”; bằng cách quan sát chính ông trong cuộc sống hàng ngày với sự chú tâm tỉnh thức để hiểu, thay vì để phán xét, trong sự chấp nhận hoàn toàn bất cứ gì xuất hiện bởi vì nó có đó thì ông khuyến khích những gì tận sâu kín nổi lên trên mặt, và làm cho cuộc sống cũng như ý thức của ông trở nên phong phú với những nguồn năng lực mà trước kia đã từng bị giam hãm. Đây là một việc làm vĩ đại của tánh biết, nó tháo gỡ các chướng ngại và giải tỏa các nguồn năng lượng bằng sự hiểu rõ bản chất của cuộc sống và tâm. Trí tuệ là cánh cửa đi đến tự do, và sự chú ý tỉnh thức là mẹ của trí tuệ.

H: Còn một câu hỏi nữa. Tại sao lạc thú chấm dứt trong đau khổ?

M: Mọi cái đều có sự khởi đầu và sự chấm dứt, lạc thú cũng vậy. Đừng trông mong và cũng đừng nuối tiếc thì sẽ không có đau khổ. Chính ký ức và trí tưởng tượng tạo ra đau khổ.

Đau khổ đến sau lạc thú có thể là do sử dụng tâm hay thân một cách sai lầm. Thân biết rõ giới hạn của nó, nhưng tâm thì không. Những khao khát của tâm thì vô số và vô hạn. Hãy chuyên chú quan sát tâm ông, vì trong đó đầy những ràng buộc nhưng cũng có cả chìa khóa mở cánh cửa tự do.

H: Câu hỏi của tôi vẫn chưa được trả lời trọn vẹn: Tại sao lạc thú của con người mang tính hủy diệt? Tại sao con người cảm thấy vô cùng thích thú trong sự hủy diệt? Mối bận tâm của cuộc sống là bảo vệ chính nó, làm cho chính nó trở nên vĩnh cửu, và bành trướng chính nó. Trong điều kiện như thế cuộc sống bị sai sử bởi đau khổ và lạc thú. Tại điểm nào thì chúng trở nên hủy diệt?

M: Khi tâm thao túng, ghi nhớ và dự tính, nó phóng đại, xuyên tạc và lơ đễnh. Quá khứ được tâm phóng chiếu vào tương lai, và tương lai không xảy ra như mong đợi. Các công cụ của cảm giác và hành động bị kích thích quá khả năng và chắc chắn trở nên suy nhược. Các đối tượng của lạc thú không thể đem lại những gì mong đợi, sẽ trở nên hư hao, hay bị hủy hoại bởi sự sử dụng sai lầm. Kết quả là đau khổ chồng chất ở những nơi nào lạc thú được tìm kiếm.

H: Chúng ta không những hủy diệt chính mình, mà còn hủy diệt cả người khác!

M: Tự nhiên là như thế, lòng ích kỷ luôn luôn mang tính hủy diệt. Tham ái và lo sợ, cả hai đều là những trạng thái hướng ngã. Ở giữa tham ái và lo sợ, sân sinh khởi, cùng đến với sân là hận, cùng đến với hận là thói say mê hủy diệt. Chiến tranh là hận thù trong hành động, được tổ chức và trang bị với tất cả công cụ của cái chết.

H: Có cách nào chấm dứt tất cả những mối kinh hoàng này?

M: Khi nào có thêm nhiều người biết rõ bản tánh chơn thật của chính mình, lúc đó ảnh hưởng của họ, dù vi tế đến đâu, sẽ chiếm ưu thế, và không khí xúc cảm của thế giới sẽ trở nên hòa dịu. Người ta luôn luôn tuân theo các lãnh tụ của họ; và nếu trong số các lãnh tụ đó xuất hiện những người có trái tim, tâm trí vĩ đại, và hoàn toàn vô tư lợi thì ảnh hưởng của họ sẽ đủ để hóa giải những thô bạo và tội ác của thời đại hiện nay. Một thời đại hoàng kim sẽ xuất hiện, tồn tại một thời gian, rồi suy tàn khi đạt đến sự toàn hảo của nó. Vì, thủy triều bắt đầu xuống ngay khi đạt đến đỉnh cao nhất.

H: Thế không có gì là sự toàn hảo vĩnh hằng?

M: Có chứ, nhưng nó bao gồm tất cả những cái không toàn hảo. Chính sự toàn hảo thuộc bản tính chơn thật của cái Ta làm cho mọi cái khả hữu, có thể nhận thức được và lý thú. Cái Ta không hề biết đến đau khổ, vì nó không ưa thích mà cũng chẳng chán ghét, không chấp nhận mà cũng chẳng xua đuổi. Sáng tạo và hủy diệt là hai cực, và ở giữa hai cực đó nó đan dệt cái mô thức vô thường. Khi thoát ra khỏi mọi thiên kiến và sở thích, thì tâm cùng với gánh nặng phiền não của nó chấm dứt.

H: Nhưng tôi không phải là kẻ duy nhất đau khổ. Còn nhiều người khác nữa.

M: Khi đến với họ và đem theo những tham ái và lo sợ của ông thì ông chỉ góp thêm vào nỗi đau khổ của họ. Trước tiên chính ông hãy thoát ra khỏi đau khổ, rồi lúc đó mới hy vọng cứu giúp tha nhân. Mà thậm chí ông cũng chẳng cần hy vọng, vì cuộc sống của ông chính là sự cứu giúp vĩ đại nhất mà một người có thể cống hiến cho tha nhân.

❁ ❁ ❁

Nisargadatta Maharaj – Ta là Cái đó (I am That)
Người dịch: Vũ Toàn

Ảnh: Zac Durant on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x