Trang chủ » Chương 17 – Văn hóa và trí tưởng tượng

Chương 17 – Văn hóa và trí tưởng tượng

by Hậu Học Văn
191 views
❁ Lời nói đầu Chương 1. Vai trò của trẻ nhỏ trong việc tái thiết Thế giới ❁ Chương 2. Giáo dục quyết định cả cuộc đời ❁ Chương 3. Những giai đoạn phát triển của trẻ ❁ Chương 4. Con đường mới ❁ Chương 5. Kì tích của tạo hóa Chương 6. Phôi thai học và hành vi ❁ Chương 7. Phôi tinh thần ❁ Chương 8. Sự độc lập của trẻ ❁ Chương 9. Khởi nguồn của Sự sống Chương 10. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ Chương 11. Tiếng gọi của ngôn ngữ Chương 12. Ảnh hưởng của những trở ngại Chương 13. Tác dụng của vận động đối với sự phát triển của trẻ Chương 14. Đôi tay và trí tuệ Chương 15. Phát triển và mô phỏng Chương 16. Từ người sáng tạo đến người lao động Chương 17. Văn hóa và trí tưởng tượng Chương 18. Sự hình thành tính cách của trẻ Chương 19. Để trẻ phát triển bình thường Chương 20. Sự hình thành tính cách phụ thuộc vào bản thân trẻ Chương 21. Tâm lý chiếm hữu của trẻ và sự chuyển hóa tâm lý chiếm hữu Chương 22. Trẻ em và sự phát triển của xã hội Chương 23. Sự gắn kết của xã hội Chương 24. Sai lầm và cách sửa chữa Chương 25. Ba giai đoạn của sự phục tùng Chương 26. Giáo viên và tính kỷ luật Chương 27. Công tác chuẩn bị của giáo viên Chương 28. Trẻ em - ngọn nguồn của tình yêu thương    

Việc phác họa hình ảnh những sự vật chưa từng được nhìn thấy đòi hỏi trẻ phải có một năng lực tâm lí cực kì đặc biệt. Nếu bộ não chỉ có thể ghi nhớ những gì đã được trông thấy thì việc đưa trẻ ra ngoài tiếp xúc với môi trường là việc vô cùng cần thiết.

Dưới ảnh hưởng của quy luật tự nhiên, trẻ sẽ nỗ lực tìm kiếm những kinh nghiệm tích cực từ môi trường xung quanh. Cũng chính vì thế mà việc sử dụng đôi tay không chỉ là để thỏa mãn mục đích thực hành mà còn nhằm thu được tri thức. Nếu đưa trẻ vào một môi trường mới mà chúng ta tạo ra cho trẻ, biểu hiện của trẻ sẽ vượt quá cả những dự liệu của chúng ta. Chúng sẽ có vẻ vui hơn, hào hứng trước tất cả mọi thứ, và làm việc rất lâu mà không cảm thấy mệt mỏi. Vì thế bộ não của trẻ dường như cũng rộng mở hơn, khát khao học hỏi cũng mãnh liệt hơn.

Những điều này xuất hiện sau giai đoạn “bùng nổ chữ viết”. Sự xuất hiện của nó đầu tiên sẽ khiến trẻ cảm thấy vô cùng hào hứng.

“Bùng nổ chữ viết” thực tế không đại diện cho điều gì, nó chẳng qua chỉ là “làn khói nhẹ trong đám cháy”, là một loại biểu trưng mà thôi. Sự bùng nổ thật sự thể hiện ở tính cách nội tại của con người, giống như một ngọn núi lửa vậy. Bề ngoài ngọn núi lửa không hề có bất cứ thay đổi nào, nhưng một ngày, ngọn núi bỗng bùng lên những ngọn lửa dữ dội. Từ những hình thái ngọn lửa, khói và vật chất rắn phát ra từ ngọn núi lửa, các chuyên gia có thể nghiên cứu về hình thái bên trong lòng đất.

Chúng tôi đã cung cấp cho trẻ những đồ dùng nhỏ, kích thước của những món đồ này phù hợp với trẻ. Trẻ phát hiện ra mình đang được sống cuộc sống thực thụ, phản ứng của trẻ với điều đó khiến chúng ta ngạc nhiên. Không còn nghi ngờ gì nữa, người lớn chúng ta nên tự mình nỗ lực lí giải ý nghĩa của những phản ứng đó, đồng thời thúc đẩy thực thi phương thức giáo dục này.

Trong số các phương pháp giáo dục chúng ta đã từng tiếp nhận, chưa có phương pháp nào từng thu được kết quả như vậy. Ngược lại, thành quả này cũng mang lại cho chúng ta những phương hướng mới trong giáo dục trẻ em. Trước hết chúng ta nên tạo cho trẻ những điều kiện tốt, trên con đường phát triển của trẻ không nên có các trở ngại, chúng ta cần cho trẻ được tự do lựa chọn phương thức hành vi trong số những gì chúng ta đã cung cấp cho trẻ. Có thể nói, đây là một phát hiện trong lĩnh vực tâm lí học trẻ em. Nhà thám hiểm Bắc cực – Peary đã gọi công việc của chúng tôi là “phát hiện tâm hồn con người”. Ông cho rằng đây không phải là một phương pháp giáo dục mà là lời đánh thức bản chất con người.

Ngay từ đầu đã có sự hiện diện của hai thực tế khác nhau. Một là độ tuổi mà bộ não của trẻ tiếp thu văn hóa sớm hơn rất nhiều so với tưởng tượng của chúng ta, nhưng phương thức tiếp thu tri thức của trẻ là hành vi có liên quan đến vận động. Trẻ ở độ tuổi này chỉ có thể học tập thông qua hành vi, trẻ tự phát triển thông qua làm việc gì đó. Giờ đây chúng ta đã biết rằng, khả năng tiếp thu của trẻ từ 3–6 tuổi rất tốt, không còn gì phải nghi ngờ về điều này nữa.

Có một thực tế khác có liên quan đến sự hình thành tính cách, chúng ta sẽ thảo luận kĩ hơn ở chương sau, còn bây giờ chúng ta sẽ tiến hành thảo luận về thực tế đầu tiên: Việc tiếp thu văn hóa thông qua hoạt động tự phát.

Trẻ nhỏ có hứng thú đặc biệt với những thứ mà chúng đã cảm thấy quen thuộc trước đó (thông qua quá trình học hỏi, tiếp thu), và trẻ có thể dễ dàng tập trung vào những sự vật đó. Ví dụ, sự xuất hiện của thời kì “bùng nổ chữ viết” của trẻ có liên quan đến năng lực cảm nhận đặc biệt của trẻ đối với ngôn ngữ. Nó càng có tác dụng ở thời kì sau khi trẻ đã bắt đầu có thể nói được. Khi trẻ được 5 tuổi rưỡi đến 6 tuổi, năng lực cảm nhận này sẽ biến mất. Vì vậy rõ ràng là chỉ có học chữ trước lứa tuổi này mới khiến trẻ cảm thấy hứng thú và nhiệt tình. Qua độ tuổi này, trẻ sẽ đánh mất cơ hội đặc biệt mà tạo hóa đã ban tặng cho mình, khi ấy việc học viết sẽ đòi hỏi những nỗ lực đặc biệt và có ý thức.

Tương tự, theo kinh nghiệm của chúng tôi, khả năng viết không chỉ là kết quả của những giai đoạn đã từng trải qua trước đó, mà còn là kết quả của sự luyện tập mang tính chuẩn bị đã từng tiến hành từ trước – tức là những bài tập khác nhau mà chúng tôi đã chuẩn bị nhằm rèn luyện khả năng phân biệt cho bàn tay trẻ. Vì vậy, trong số những phương pháp của chúng tôi có một nguyên tắc mới, đó chính là nguyên tắc “chuẩn bị gián tiếp”.

Giới tự nhiên có nguyên tắc làm việc của riêng mình. Trước hết, trong giai đoạn phôi thai, tự nhiên đã tạo ra các cơ quan nhằm phục vụ nhu cầu của cá thể trong tương lai, đồng thời ấn định các cơ quan này sẽ chỉ bắt đầu làm việc sau khi đã đủ trưởng thành.

Trong giai đoạn thứ hai, trẻ sẽ phát huy những gì đã được hình thành trong giai đoạn thứ nhất, vì vậy chúng ta có thể hiểu về giai đoạn thứ hai thông qua trình tự hình thành ở giai đoạn thứ nhất. Ví dụ như việc học ngôn ngữ, trong giai đoạn thứ nhất, trẻ phải lần lượt trải qua hàng loạt giai đoạn nhỏ, những giai đoạn này giống hệt như phương thức sắp xếp trong sách ngữ pháp của chúng ta. Đầu tiên trẻ học phát âm âm thanh, sau đó học phát âm âm tiết, rồi tiếp nữa là danh từ, động từ, tính từ, phó từ, giới từ, liên từ… Chúng ta có thể căn cứ vào trình tự đó để tìm ra cách giúp đỡ trẻ trong giai đoạn thứ hai. Như vậy, đầu tiên chúng ta nên dạy trẻ ngữ pháp. Điều này nghe có vẻ kì lạ. Làm sao chúng ta có thể dạy trẻ ngữ pháp trước tiên đây? Làm sao dạy trẻ ngữ pháp trước khi chúng biết đọc biết viết?

Nhưng hãy thử suy ngẫm kĩ hơn một chút. Cơ sở của ngôn ngữ là gì? Chẳng phải là ngữ pháp sao? Chúng ta (bao gồm cả trẻ nhỏ) khi nói đều cần tuân thủ ngữ pháp. Một đứa trẻ 4 tuổi đang thuộc giai đoạn hoàn thiện cơ chế ngôn ngữ, mở rộng vốn từ của bản thân. Vì vậy, nếu chúng ta trợ giúp trẻ một chút về ngữ pháp khi trẻ 4 tuổi thì sẽ có tác dụng tốt cho việc học ngôn ngữ của trẻ. Thông qua việc truyền thụ ngữ pháp, chúng ta có thể giúp trẻ thông thuộc những khẩu ngữ đã từng học được. Kinh nghiệm cho thấy trẻ rất hứng thú với ngữ pháp, đây cơ hội tốt nhất để dạy trẻ ngữ pháp. Trong giai đoạn thứ nhất (từ 0–3 tuổi), việc học ngữ pháp được tiến hành trong trạng thái vô thức, còn trong giai đoạn này, trẻ phải tiến hành hoàn thiện chúng một cách có ý thức. Ngoài ra, chúng ta còn nhận thấy trẻ trong độ tuổi này học được khá nhiều từ mới. Trẻ có một khả năng cảm nhận đặc biệt đối với từ ngữ, nhờ vậy sẽ học được một lượng từ vựng lớn một cách tự nhiên.

Rất nhiều kết quả thực nghiệm chính xác cho thấy, lượng từ vựng trong giai đoạn này của trẻ tăng lên rất nhanh chóng, dường như trẻ khao khát học được từ mới. Nếu không có ai đó giúp trẻ, trẻ sẽ tự cố gắng học tập. Vì vậy chúng ta cần căn cứ vào nhu cầu của trẻ để dạy chúng từ vựng một cách có hệ thống.

Điều này vô tình dẫn đến một vấn đề mà chúng ta vẫn thường gặp phải. Trong trường học mà tôi lập ra, vào giai đoạn đầu làm việc, những giáo viên mà tôi thuê không nhiều người được gọi là “trí thức”. Họ liệt kê ra rất nhiều từ đơn cho lũ trẻ đọc, sau đó viết những từ này trên những tấm giấy khác nhau. Nhưng không lâu sau đó, những giáo viên này nói với tôi rằng, những từ họ viết ra không đủ dùng nữa. Ngoài tên gọi của những đồ vật xung quanh, họ không biết những từ khác, nhưng lũ trẻ lại muốn học được nhiều hơn. Vì vậy, tôi bắt đầu lựa chọn một số từ chuyên ngành hơn, ví dụ như danh từ chỉ các loại hình học, hình đa giác, hình thang, hình tam giác. Sau khi bọn trẻ học những từ này, tôi lại dạy chúng những từ chuyên sâu hơn nữa, ví dụ như nhiệt kế, áp kế… Sau đó tôi còn dạy bọn trẻ một số danh từ chỉ các loại thực vật, ví dụ như đài hoa, nhị hoa, nhụy hoa… Sau khi học rất hào hứng, lũ trẻ muốn tôi dạy chúng nhiều từ hơn nữa. Khi đưa lũ trẻ ra ngoài chơi, chúng sẽ kể cho giáo viên tên của hàng loạt các loại xe hơi, có những loại thậm chí chính giáo viên còn không biết, điều này khiến họ cảm thấy ngại ngùng.

Trẻ ở độ tuổi này có khát khao mạnh mẽ với từ ngữ, và trong suốt quá trình học tập không hề tỏ ra mệt mỏi. Nhưng giai đoạn tiếp theo sẽ hoàn toàn không như thế nữa. Trẻ có thêm những năng lực khác, nhưng việc học từ mới sẽ trở nên ngày càng khó khăn hơn. Chúng tôi phát hiện ra rằng, những từ mà trẻ học được trong giai đoạn này sẽ được sử dụng suốt đời.

Khi 8–9 tuổi, ở độ tuổi đến trường và cả những năm tháng sau đó, trẻ sẽ sử dụng lưu loát những từ ngữ này. Vì vậy có thể rút ra kết luận, 3–6 tuổi là độ tuổi tốt nhất để học ngôn ngữ. Tất nhiên việc học trong thời kì này không có nghĩa là học một cách máy móc. Khi dạy trẻ từ ngữ, chúng ta nên kết hợp chúng với đồ vật thực tế hoặc với các hoạt động dã ngoại, duy trì sự đồng bộ giữa từ ngữ và trải nghiệm thực tế. Ví dụ chúng ta có thể cho trẻ thấy hoa hoặc lá có hình dạng như thế nào, dùng quả địa cầu để minh họa cho trẻ thấy các dạng địa lí (doi đất, vịnh, hải đảo…). Nếu có sự vật thật, tranh minh họa, biểu bảng, trẻ sẽ rất dễ ghi nhớ những từ đơn đó. Trẻ ghi nhớ mà chẳng gặp khó khăn nào, trong khi giáo viên lại thường cho rằng những từ này rất khó nhớ hoặc dễ bị nhầm lẫn.

Tôi đã từng chứng kiến một cậu bé 14 tuổi trong trường không biết gọi tên các bộ phận trên một bông hoa. Lúc đó, một cậu bé chừng 3 tuổi chạy tới, chỉ vào bông hoa và nói: “Đây là nhụy hoa” rồi chạy mất.

Một lần khác, tôi đang dạy bọn trẻ phân loại các loại rễ cây trong sách giáo khoa và đồng thời giảng giải cho chúng bằng những hình vẽ treo trên tường, một cậu bé chạy vào và hỏi chúng tôi rằng những thứ trong tranh là cái gì, tôi bèn giải thích cho cậu. Ngay sau đó, chúng tôi phát hiện ra tất cả cây cối trong vườn trường đều đã bị nhổ lên khỏi mặt đất. Thì ra cậu bé nọ đã say mê với những cái rễ cây, cậu ta muốn nhổ tất cả những cái cây lên để xem thực hư như thế nào. Vì vậy, chúng tôi đề nghị dạy từ ngữ cho trẻ bằng hình vẽ hoặc sự vật thật, nhưng có thể điều này sẽ làm các bậc phụ huynh không hài lòng. Hãy thử nghĩ xem, khi cha mẹ đi làm về phát hiện thấy cây cối trong nhà đều đã bị lũ trẻ nhổ lên, họ sẽ cảm thấy như thế nào?

Tâm lí của trẻ có hoàn toàn phù hợp với những gì trẻ đã nhìn thấy? Không. Loại hình cảm giác ở trẻ không chỉ có một loại cảm giác trực quan, mà trẻ có trí tưởng tượng vô cùng phong phú.

Sự phác họa hình tượng của những sự vật mà trẻ chưa từng được tận mắt nhìn thấy đòi hỏi một loại năng lực tâm lí đặc biệt. Nếu bộ não chỉ có thể ghi nhớ những gì đã nhìn thấy, vậy thì việc đưa trẻ ra ngoài là vô cùng cần thiết. Chúng ta không chỉ dùng mắt để nhìn, văn hóa cũng không chỉ được hình thành nhờ những gì chúng ta đã nhìn thấy. Trong quá trình tìm hiểu thế giới, nếu chúng ta chưa từng được nhìn thấy hồ hoặc tuyết, chúng ta có thể phác họa nên hình dáng của chúng bằng trí tưởng tượng. Muốn làm được điều này, cần có một năng lực hoạt động tâm lí nhất định.

Trí tưởng tượng của trẻ phong phú đến mức nào? Không thể đưa ra một đáp án chính xác, vì vậy chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trên những đứa trẻ 6 tuổi. Chúng tôi không bắt đầu giảng giải cho trẻ về từng phần trên bản đồ (sông, hải đảo, bờ biển) mà cố gắng đưa ra cho trẻ một khái niệm có tính toàn cục, chúng tôi đưa cho trẻ một tấm bản đồ và nói: “Đây chính là trái đất”.

Trẻ không thể phát huy trí tưởng tượng thông qua sự vật ở môi trường xung quanh để tưởng tượng ra hình dáng của thế giới. Khi trong não trẻ hình thành khái niệm này, nó nhất định được tạo thành thông qua một sức mạnh chưa biết trong bộ não, đó chính là trí tưởng tượng. Trong tấm bản đồ cho trẻ xem, chúng tôi minh họa đại dương bằng màu xanh đậm, bề mặt đất minh họa bằng bột phát quang. Trên đó không có bất cứ kí hiệu hay địa danh phổ thông nào, nhưng những đứa trẻ đột nhiên nói:

“Đây là lục địa.”

“Đây là biển.”

“Đây là châu Mỹ.”

“Đây là Ấn Độ.”

Trẻ rất thích xem bản đồ, bản đồ đã trở thành vật không thể thiếu trong phòng của bọn trẻ. Trẻ từ 3–6 tuổi không những có thể phân biệt quan hệ giữa các sự vật mà còn có thể phát huy trí tưởng tượng, tưởng tượng ra những thứ mà mình chưa thể trực tiếp nhìn thấy. Trí tưởng tượng có một vai trò rất quan trọng trong tâm lí của trẻ. Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, cha mẹ cũng đều thích kể chuyện cổ tích cho trẻ nghe như một hình thức rèn luyện trí tưởng tượng cho trẻ. Nếu trẻ có thể tưởng tượng về đủ loại chuyện cổ tích, vậy thì vì sao trẻ lại không thể tưởng tượng một chút về châu Mỹ cơ chứ? Từ những khác biệt rút ra trong khi nói chuyện, trẻ có thể qua quan sát bản đồ để có được một ấn tượng trực quan hơn. Chúng ta đã quên rằng trí tưởng tượng là sức mạnh để phát hiện ra chân lí. Tưởng tượng không phải là thứ bị động mà nó đầy cảm hứng và không bao giờ mệt mỏi.

Một lần, tôi nhìn thấy một đám trẻ 6 tuổi đang túm tụm bàn tán trước một tấm bản đồ, lúc đó một đứa bé khoảng 3 tuổi rưỡi nhập bọn và nói:

“Cho em xem với, đó là thế giới à?”

“Đúng rồi.” Một đứa trẻ khác nói. Cậu bé 3 tuổi rưỡi có vẻ kinh ngạc, tiếp tục nói:

“Bây giờ thì em hiểu rồi. Chú của em đã đi vòng quanh thế giới 3 lần rồi.” Câu này cho thấy đứa bé hiểu rằng đây chỉ là mô hình mà thôi, trái đất thật rất to, trước đó chắc chắn cậu bé đã từng nghe người khác nói về điều này.

Một cậu bé 4 tuổi khác trong trường của chúng tôi cũng yêu cầu được xem bản đồ. Sau khi quan sát kĩ một lúc, cậu bé vẫn chưa biết nước Mỹ mà những đứa trẻ khác đang nói nằm ở đâu, vì vậy nói xen vào:

“New York đâu?” Những đứa trẻ khác kinh ngạc, nhưng vẫn chỉ cho cậu nơi cậu muốn tìm. Cậu bé nói tiếp: “Hà lan ở đâu?” Điều này khiến mọi người xung quanh càng kinh ngạc hơn. Sau khi những đứa trẻ khác chỉ cho cậu, cậu nói:

“Mỗi năm bố em đều đi Mỹ hai lần và ở New York. Sau khi bố đi, mẹ sẽ nói: ‘Bố đang ở trên biển.’ Bà sẽ nói vậy mấy ngày. Mấy ngày sau, mẹ lại nói: ‘Bố đã tới New York.’ Mấy ngày nữa trôi qua, mẹ lại bảo em: ‘Bố đang ở trên biển.’ Khi mẹ nói rằng: ‘Bố đang ở Hà Lan, mẹ con mình có thể gặp bố ở Amsterdam’, có nghĩa là một ngày vui vẻ sắp đến rồi.”

Đứa trẻ này đã nhiều lần nghe nói về nước Mỹ, khi nghe người khác nói về nước Mỹ và bản đồ, cậu ta lập tức tìm đến xem, nét mặt của cậu dường như muốn nói rằng: “Tôi đã phát hiện ra nước Mỹ.”

Hình tượng hóa những gì đã từng nhìn thấy cũng đòi hỏi phải trải qua một giai đoạn rất vất vả giống như giai đoạn nhận thức thế giới vật chất trước đó. Cho tới cuối cùng, trẻ sẽ liên hệ những từ ngữ trong trí tưởng tượng với những sự vật thật với nhau.

Trẻ ở độ tuổi này thường mong muốn người lớn phải hiểu biết rất nhiều thứ. Trẻ vô cùng hiếu kì, chúng ta dường như bị “dội bom” bởi những câu hỏi của trẻ. Nếu chúng ta không tỏ ra mệt mỏi mà coi những hành vi này của trẻ là biểu hiện ham hiểu biết và lần lượt trả lời những câu hỏi của trẻ, trẻ sẽ cảm thấy vô cùng vui vẻ. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng, trẻ không thích nghe lí luận dài dòng trong khi người lớn lại thường thích cách trả lời như vậy.

Có một đứa trẻ hỏi bố của cậu rằng, tại sao lá cây lại có màu xanh. Cha cậu cho rằng đó là một vấn đề học vấn rất uyên thâm nên đã cố giải thích cho con diệp lục là gì và nó lợi dụng ánh sáng mặt trời như thế nào. Nhưng cuối cùng người cha thấy con trai nói lí nhí: “Con chỉ muốn biết tại sao lá cây lại màu xanh, chứ chẳng muốn biết về diệp lục hay ánh mặt trời.”

Chúng ta đều biết ham chơi, trí tưởng tượng phong phú, hay hỏi rất nhiều câu hỏi là đặc điểm chủ yếu của trẻ ở độ tuổi này. Nhưng trẻ vẫn còn rất nhiều điều chưa hiểu rõ. Những câu hỏi của trẻ đôi khi rất khó trả lời.

“Mẹ ơi” Đứa trẻ hỏi, “Con từ đâu tới ạ?” Lũ trẻ luôn muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề này. Người mẹ thông minh đã có sự chuẩn bị sẵn sàng này quyết định nói với con sự thật. Khi cậu bé 4 tuổi đưa ra câu hỏi này, mẹ của cậu đã trả lời: “Con là con của mẹ, con là do mẹ sinh ra.”

Câu trả lời rất ngắn gọn và rõ ràng này đã thỏa mãn nguyện vọng của đứa trẻ. Một năm sau đó, người mẹ nói với đứa trẻ rằng: “Mẹ vừa sinh một em bé nữa.” Sau khi từ nhà hộ sinh trở về, người mẹ bế đứa bé sơ sinh cho cậu anh trai xem và nói: “Đây là em của con, em và con đều do mẹ sinh ra.”

Lúc này, cậu bé nọ đã 6 tuổi, cậu tỏ ra vô cùng bất bình. “Tại sao mẹ không cho con biết rốt cuộc con đã đến với thế giới này bằng cách nào? Con đã đủ lớn rồi, cũng nên biết những chuyện như vậy. Tại sao mẹ không nói sự thật? Khi mẹ nói rằng mẹ đang tạo ra em bé, con đã theo dõi mẹ, nhưng chẳng thấy mẹ làm gì cả.”

Ngay cả nói sự thật xem ra không phải là một việc dễ dàng, giáo viên và cha mẹ cũng cần đủ thông minh để thỏa mãn trí tưởng tượng của trẻ.

Giáo viên cần được đào tạo đặc biệt, bởi lẽ những câu hỏi này không thể được trả lời theo logic thông thường của người lớn. Chúng ta cần biết trẻ con phát triển như thế nào và phải từ bỏ mọi quan điểm định kiến của mình. Câu trả lời phải phù hợp với trẻ từ 3–6 tuổi, trong khi chúng ta lại rất thiếu kĩ năng đó. May mắn là những điều mà trẻ học được từ môi trường nhiều hơn so với chúng ta nhiều lần. Nhưng chúng ta vẫn cần thấu hiểu tâm lí của trẻ và cố gắng giúp đỡ trẻ.

Trẻ muốn biết rất nhiều điều, không ngừng tìm kiếm không mệt mỏi. Cho đến nay, tâm lí học trẻ em vẫn còn rất nhiều lầm lẫn. Điều này cho thấy việc chúng ta dạy dỗ trẻ theo những nguyên tắc của những người đi trước chưa hẳn đã đúng, vì chúng ta còn chưa hiểu hết về trẻ. Chỉ có trẻ mới có thể dạy chúng ta cách hiểu chúng – thông qua phương thức hành vi.

Đã có rất nhiều bằng chứng chứng minh rằng, trẻ không chỉ muốn những điều thú vị, mà chúng còn muốn biết chính xác làm thế nào để thực hiện được những điều đó. Sự chính xác có sức hấp dẫn lớn đối với trẻ, đó cũng là nguyên nhân khiến trẻ không ngừng khám phá. Vì vậy chúng ta có thể suy đoán rằng, hứng thú của trẻ đối với sự vật là mục đích có ý thức. Trẻ có bản năng nỗ lực phối hợp sự vận động của mình và đặt chúng dưới sự kiểm soát của bản thân.

Bằng cách quan sát, chúng ta phát hiện một khi trẻ đã bị thu hút bởi một sự việc nào đó, trẻ sẽ không ngừng lặp lại sự việc đó. Chúng ta sẽ kinh ngạc phát hiện ra rằng, trẻ sẽ lặp đi lặp lại một số hành động thường gặp trong cuộc sống đồng thời tập trung toàn bộ tinh thần vào những việc đó. Ví dụ, trẻ sẽ tỉ mỉ mài một đồ vật bằng đồng cho tới khi nó sáng bóng lên mới thôi, cứ như thế nhiều lần. Điều này cho thấy mục đích bề ngoài đối với trẻ chỉ là một kích thích. Mục đích thật sự là thỏa mãn một nhu cầu có ý thức, đó là nguyên nhân vì sao trẻ làm những việc đó lại có lợi cho quá trình trưởng thành. Vì hoạt động không ngừng lặp đi lặp lại này sẽ nâng cao năng lực kiểm soát của hệ thống thần kinh, tạo ra sự hài hòa trong hệ cơ bắp của trẻ, sự hài hòa này không phải là món quà của tạo hóa mà là do rèn luyện mà thành. Việc người lớn chúng ta không ngừng chơi các trò chơi hay các hoạt động cũng như vậy. Mục đích chúng ta chơi tennis, đá bóng không chỉ để chơi ngày càng chính xác hơn mà còn vì những hoạt động này có thể giúp chúng ta rèn luyện một số kĩ năng mà trước kia ta chưa có. Nâng cao những năng lực này mới là mục đích chân chính của sự vận động của con người.

Những hành động này của trẻ có thể bị người lớn coi là trò chơi. Nhưng những trò chơi như vậy sẽ giúp trẻ thu được những khả năng mà chúng cần có.

Bản năng yêu cầu trẻ phải thích ứng với thời đại mà trẻ sinh sống. Điều này đòi hỏi bản thân trẻ phải không ngừng cố gắng, giống như có người nói với trẻ: “Con phải bồi dưỡng khả năng này, đó là thứ mà con cần có”. Thời kì thơ ấu là thời kì tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ này. Đó là lí do tại sao chúng ta nói, khả năng mô phỏng là động lực cho công việc tự hoàn thiện bản thân của trẻ.

Mỗi đứa trẻ đều có động lực xây dựng năng lực bản thân. Đối với trẻ, hành vi của mọi người xung quanh chính là những kích thích, trẻ mô phỏng những hành vi này, để sau đó tự bồi dưỡng những khả năng của bản thân. Vậy trẻ bồi dưỡng những khả năng nào? Lấy ngôn ngữ làm ví dụ, nó giống như việc người thợ dệt trước tiên sẽ căng những sợi chỉ lên máy dệt, những sợi chỉ này không phải thứ họ muốn dệt mà là nền tảng của việc dệt nên một tấm vải. Những sợi chỉ này giống như những âm thanh có vần luật của từ ngữ, khi được sắp xếp một cách có trật tự thì sẽ tạo thành quy luật ngữ pháp. Thông qua hàng loạt kinh nghiệm thực tế, những hành vi này sẽ định hình nên nền tảng của một dân tộc hay một chủng người nào đó. “Tấm vải ngôn ngữ” này sẽ được dệt trong giai đoạn 3–6 tuổi. Vì vậy lứa tuổi trước 6 tuổi là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trong giai đoạn này, trẻ sẽ xây dựng những năng lực sẽ theo mình suốt cả cuộc đời. Cách đi đứng, phương thức làm việc đều được định hình, đồng thời trở thành đặc trưng vĩnh viễn cho tính cách của trẻ. Những điều này sẽ quyết định trẻ thuộc về tầng lớp xã hội nào, cao hay thấp. Sự khác biệt đẳng cấp xã hội được thể hiện qua đó, cũng giống như ngôn ngữ khác nhau giúp phân biệt các dân tộc khác nhau.

Cũng chính vì điều này nên nếu một người được sinh ra trong tầng lớp xã hội thấp, thì chỉ khi thay đổi môi trường sống, người đó mới có thể bước vào tầng lớp cao hơn, nếu không sẽ không thể thoát khỏi những dấu ấn mà tầng lớp xã hội thấp đã để lại trên con người mình. Nếu một nhà quý tộc muốn đóng giả thành một công nhân, chính cách thức xử lí mọi chuyện và thói quen sinh hoạt sẽ làm người đó bị bại lộ.

Đây cũng chính là độ tuổi định hình khẩu âm của trẻ. Ngay cả một giáo sư đại học quen dùng những từ ngữ chuyên ngành cũng không thể che đậy khẩu âm của mình.

Giáo dục đại học cũng không thể xóa đi những gì đã hình thành trong giai đoạn sơ sinh. Bởi vậy giáo dục xã hội trong độ tuổi này vô cùng quan trọng. Nếu một đứa trẻ trước 3 tuổi gặp phải một vài trở ngại dẫn đến sự thay đổi nhân cách, thì trong giai đoạn này có thể tiến hành bù đắp và thay đổi, bởi vì giai đoạn này chính là giai đoạn tạo hóa kết thúc việc xây dựng nên tâm lí của trẻ. Đồng thời, nếu phương pháp giáo dục khoa học và phù hợp, chúng ta có thể thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, chủng tộc, điều đó sẽ khiến con người trên trái đất này hòa hợp hơn. Hay nói cách khác, văn minh có thể thay đổi bản thân nhân loại, cũng giống như con người có thể thay đổi tự nhiên vậy. Chính tạo hóa đã ban tặng cho con người sức mạnh thần bí này.

Cá tính có liên quan đến việc điều khiển sự phát triển của trẻ sẽ được bộc lộ qua hành vi, chúng ta sẽ phát hiện tác dụng của chúng thông qua những hoạt động mà chúng ta tạo ra cho trẻ.

Vậy chúng ta nên giáo dục cảm giác như thế nào? Cảm giác chính là điểm nối liền con người với tự nhiên. Tâm hồn con người có thể trở nên cực kì tinh nhạy nhờ những kinh nghiệm cảm giác, cũng giống như một nghệ sĩ dương cầm có thể tạo nên những giai điệu tuyệt vời từ một chiếc đàn rất bình thường, một thợ dệt ưu tú có thể dệt nên một tấm vải satin từ chỉ đơn hoặc chỉ kép, một người của bộ lạc nguyên thủy có thể nghe thấy âm thanh của rắn trườn rất khẽ trong thảm cỏ.

Tuy những khả năng này là do con người rèn luyện mà thành, nhưng chúng vẫn chịu ảnh hưởng của cuộc sống thường nhật. Không có sự hợp tác của trí tuệ và vận động thì giáo dục cảm giác cũng không thể xuất hiện.

Sự khác biệt giữa các cá thể được quyết định bởi những nhân tố nội tại ảnh hưởng đến hứng thú, việc mỗi người có nhiều hay ít nhân tố này cũng không giống nhau. Hay nói cách khác, mỗi chúng ta bẩm sinh đều có hứng thú nào đó, hứng thú này tuân theo quy luật tự nhiên và sẽ thúc đẩy sự phát triển và trưởng thành của chúng ta.

Đứa trẻ lớn lên trong căn phòng nhỏ mà chúng ta đã nói ở trên không những có khả năng thao tác tốt mà khả năng nhận biết thế giới bên ngoài cũng rất tốt. Xét từ góc độ này, thế giới bên ngoài cũng trở nên phong phú hơn, bởi vì so với những người năng lực hiểu biết thấp thì những đứa trẻ này có thể cảm nhận từng sự khác biệt nhỏ bé nhất của sự vật, trong khi những người có năng lực thấp kia cơ bản không thể cảm nhận những khác biệt này.

Trong các trường học hiện nay, giáo viên thường tổ chức một tiết học được gọi là “tiết vật thể”. Mỗi học sinh phải đưa ra một số đặc tính của một vật thể nào đó, ví dụ như màu sắc, hình dạng, đường vân… Trên đời này có đủ các loại vật thể, nhưng đặc tính của mỗi vật thể là hữu hạn. Cũng giống như số lượng chữ cái là có hạn, nhưng cách kết hợp các chữ cái thành từ đơn thì vô hạn.

Việc chúng ta trao cho trẻ các vật thể, mỗi vật thể lại có nhiều đặc tính riêng, cũng giống như đã trao cho trẻ một bảng chữ cái, một chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa tri thức rộng lớn. Bởi trẻ sẽ không chỉ nắm vững đặc tính của các loại vật thể mà còn nắm được phương thức phát triển của những vật thể đó, từ đó tạo nền tảng cho trẻ hiểu biết về môi trường xung quanh và về thế giới.

“Bảng chữ cái” đến từ thế giới bên ngoài này có giá trị vô cùng to lớn. Trên thực tế, đúng như những gì chúng ta đã nói ở trên, văn hóa không chỉ đơn giản là vấn đề tích lũy thông tin, mà còn cho thấy sự phát triển của cá tính con người. Giáo dục một đứa trẻ mà cảm giác đã được rèn luyện khác hẳn với việc giáo dục một đứa trẻ mà cảm giác chưa từng được rèn luyện. Mỗi vật thể, mỗi cách nghĩ đều khiến trẻ hứng thú cao độ, bởi vì những đứa trẻ này vô cùng nhạy cảm với từng sự khác biệt nhỏ giữa các vật thể, ví như hình dáng của từng chiếc lá, màu sắc của từng bông hoa, hình dạng của từng loại côn trùng… Sự phát triển của trẻ được quyết định bởi những sự vật trẻ từng tiếp xúc và hứng thú của trẻ với sự vật. Một bộ não có sự chuẩn bị quan trọng hơn một thầy giáo tốt.

Trong số những vật thể nhỏ mà chúng tôi cung cấp cho trẻ, bản thân mỗi vật thể đều có đặc tính riêng. Những đặc tính này sẽ hỗ trợ rất lớn cho tính mạch lạc của bộ não trẻ.

Phân biệt đặc tính giữa sự vật này với sự vật khác là một việc hết sức tự nhiên. Không cần đến sự giáo dục đặc biệt nào, con người vẫn có thể phát hiện sự khác biệt giữa các màu sắc và các hình dạng. Thực tế, điều này có liên quan đến hình thức tư duy của con người. Bộ não của con người không chỉ có trí tưởng tượng mà đồng thời còn có thể chỉnh lí và sắp xếp nội dung tư tưởng, trừu tượng hóa những sự vật xung quanh thành “bảng chữ cái đặc trưng”. Tất cả những điều này đều được hoàn tất nhờ tư duy trừu tượng. Người phát minh ra bảng chữ cái sẽ vận dụng năng lực này, bởi vì chữ cái trong tất cả các từ đơn đều do các chữ trong bảng chữ cái tổ hợp thành. Vì vậy, bảng chữ cái là một hệ thống trừu tượng, bởi vì từ đơn mới là hình thức biểu hiện chủ yếu của khẩu ngữ. Nếu một người không thể phát huy trí trưởng tượng và tiến hành tư duy logic, điều này chứng tỏ người đó chưa thông minh. Trí tuệ của những người như vậy thiếu sự biến hóa giống như động vật cao cấp, đồng thời chỉ giới hạn trong một loại hành vi có hình thức nhất định, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của người đó.

Ngày nay chúng ta ít khi vận dụng quan điểm tư duy trừu tượng, nhưng trong thực tế cuộc sống sẽ gặp vô vàn sự vật. Tư duy trừu tượng càng chuẩn xác thì giá trị của nó càng lớn. Tư duy trừu tượng có ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng trong bộ não con người.

Hai loại năng lực của bộ não (trí tưởng tượng và năng lực trừu tượng hóa) có thể giúp đào sâu những điều đằng sau sự vật. Cả hai năng lực này đều có tác dụng quan trọng như nhau đối với sự thành thục tâm lí. Cả hai năng lực này còn vô cùng quan trọng đối với việc học ngôn ngữ. Căn cứ vào bảng chữ cái và nguyên tắc ngữ pháp chuẩn xác có thể tạo ra vô số từ ngữ khác nhau. Vốn từ muốn phong phú và muốn tăng tính thực dụng của ngôn ngữ thì phải dựa trên nền tảng là phát âm và nguyên tắc ngữ pháp. Quy luật cấu tạo từ cũng phù hợp với cấu tạo bộ não.

Khi bạn nói một người “rất thông minh, nhưng tư duy chưa rõ ràng”, ý của bạn là bộ não của người đó có rất nhiều ý tưởng nhưng không thể sắp xếp những ý tưởng đó một cách có trật tự. Bạn cũng có thể mô tả về một người khác: “Tư duy của anh ta chuẩn xác như một tấm bản đồ, phán đoán của anh ta rất chính xác”.

Vì vậy chúng ta đặt cho phần chính xác đó của bộ não cái tên là “bộ não chính xác”. Cách dùng từ này xuất phát từ triết gia kiêm nhà vật lí học, nhà toán học người Pháp Pascal, bộ não con người bẩm sinh đã có tính chính xác, tri thức và sự phát triển đều bắt nguồn từ sự quan sát chuẩn xác.

Cũng giống như ngôn ngữ dựa trên cơ sở là sự phát âm chữ cái và nguyên tắc sắp xếp từ đơn, bộ não – nền tảng của trí tưởng tượng cũng chủ yếu được quyết định bởi tính quy luật nhất định. Nếu tiến hành nghiên cứu tác phẩm của một số nhà phát minh có ảnh hưởng trên thế giới, chúng ta sẽ phát hiện ra rằng, trong giai đoạn đầu nghiên cứu, suy nghĩ của họ cũng có tính quy luật nhất định. Trong lĩnh vực chủ yếu dựa vào trí tưởng tượng như thơ ca, âm nhạc cũng vậy, cũng đều tuân theo những vần luật và tiết tấu nhất định.

Vì vậy trong quá trình giáo dục, chúng ta phải ghi nhớ hai loại năng lực này của bộ não, cho dù đôi khi, đối với một tính cách nào đó thì ảnh hưởng của một năng lực sẽ mạnh hơn năng lực còn lại. Nhưng chắc chắn cả hai loại năng lực này sẽ cùng tồn tại đồng thời, cùng phát huy tác dụng một cách nhịp nhàng. Nếu chỉ khai thác trí tưởng tượng thì sẽ ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa hai năng lực, đồng thời tạo thành trở ngại cho cuộc sống hiện thực.

Đối với trẻ nhỏ, khuynh hướng theo đuổi sự chuẩn xác sẽ được biểu hiện qua rất nhiều phương thức rõ ràng và tự phát.

Trên thực tế, nếu chúng ta bảo trẻ cách làm một việc nào đó một cách chuẩn xác, tính chuẩn xác này cũng sẽ khiến chúng cảm thấy hứng thú. Làm một việc trước hết cần đạt được mục đích của việc đó, nhưng để làm được một cách chuẩn xác thì còn đòi hỏi sự nỗ lực của trẻ, sự nỗ lực này sẽ thúc đẩy trẻ phát triển. Tính quy luật và tính chuẩn xác là hai yếu tố chủ yếu trong các hoạt động khác nhau trong nhà trường của trẻ.

Những đồ vật nhỏ mà chúng tôi dùng để bồi dưỡng khả năng chú ý cho trẻ ( biểu hiện rõ nhất ở trẻ 3–4 tuổi), không những có thể giúp trẻ hiểu về môi trường xung quanh, mà còn có thể bồi dưỡng nên cho trẻ một bộ não chuẩn xác.

Những kết luận mà chúng tôi đã đúc rút hoàn toàn không giống với tình trạng đang diễn ra ở các trường học. Môn toán học trong nhà trường, đối với trẻ là một sự đày đọa, rất nhiều người gặp chướng ngại tâm lí với môn học này. Nhưng nếu sớm đưa quan niệm “chính xác” vào “tâm hồn có sức thẩm thấu” của trẻ thì tình hình có thể hoàn toàn thay đổi.

Trong môi trường sống của hầu hết trẻ em không có thứ gì liên quan đến sự chuẩn xác của toán học. Tự nhiên có cây, có hoa, có các loài động vật, nhưng lại không có thứ liên quan đến toán học (chuẩn xác). Khuynh hướng toán học ở trẻ có thể thiếu đi cơ hội được phát huy, dẫn đến ảnh hưởng tới sự phát triển sau này. Vì vậy chúng ta có thể coi những món đồ vật nhỏ mà ta cung cấp cho trẻ là “vật chất trừu tượng” hoặc toán học cơ bản. Trong hai cuốn sách khác của mình, tôi đã thảo luận rất nhiều phương pháp dạy toán học. Hai cuốn sách này cũng là những tác phẩm có liên quan đến tâm lí học trẻ em.

Giai đoạn phát triển thứ nhất của trẻ chính là giai đoạn tạo nền móng từ thế giới vật chất xung quanh. Giai đoạn này có nhiều điểm tương tự như sự phát triển của phôi thai, vì sự phát triển của phôi thai cũng do tự nhiên quyết định. Đúng như những phát hiện của Kessen, cho dù là các bộ phận cơ thể tương lai do gen quyết định hay là hành vi của con người thì cũng đều phù hợp với quy luật này.

Trong ngôn ngữ, trẻ lại tạo dựng một nền móng khác. Nền móng này vững chắc, chuẩn xác, vì nó được cấu thành bởi âm thanh và quy tắc sắp xếp từ ngữ nhất định. Âm thanh và quy tắc sắp xếp từ ngữ không phải là thứ bẩm sinh đã có mà nó có quan hệ nhất định với quần thể con người. Chỉ khi cả cộng đồng có sự đồng thuận thì ngôn ngữ và từ vựng mới có được ý nghĩa chung mà mỗi người trong cộng đồng đều có thể hiểu được.

Các cộng đồng xã hội còn xây dựng nhiều thứ khác nữa. Ví dụ tập quán và truyền thống cuối cùng sẽ trở thành một phần của đạo đức. Điều thú vị là truyền thống không giống như những gì thuyết tiến hóa đã nhận định: “Truyền thống sẽ đơn giản hóa cuộc sống của con người”, và ngược lại, “bản năng tự vệ” không chỉ là trạng thái tốt nhất để theo đuổi sự sống. Mặc dù giới hạn cuộc sống là một thứ rào cản vô hình, nhưng con người cứ một mực cho rằng đó là một bản năng hi sinh bẩm sinh, chúng ta buộc phải thích ứng với nó. Hay nói cách khác, chúng ta buộc phải vứt bỏ hoặc hi sinh một số thứ. Những nghiên cứu về tập quán sinh hoạt của người nguyên thủy đã cho thấy rằng, tập quán có tính hạn chế này (ví dụ như những điều cấm kị) thậm chí làm tổn hại đến cơ thể cũng là điều thường gặp.

Sự theo đuổi cái đẹp của con người đã bị bẻ cong và bóp méo, thường đòi hỏi con người phải trả cái giá rất đắt. Chúng ta có thể vẫn còn nhớ đôi chân nhỏ của phụ nữ Trung Quốc, hay hành vi xuyên thủng mũi, tai để đeo đồ trang sức.

Sự hạn chế quan trọng nhất thể hiện ở lĩnh vực đồ ăn thức uống. Gần đây hàng ngàn người Ấn Độ đã bị chết đói trong khi họ đều sống ở những nơi mà dê, bò lũ lượt từng đàn. Truyền thống không tàn sát động vật để làm thức ăn đã ăn sâu vào tư tưởng của những người này, khiến cho đến chết họ vẫn nhất định không ăn thịt những con vật đó.

Đạo đức là kiến trúc thượng tầng của đời sống xã hội, nó đã bắt rễ trong tư tưởng con người. Nhưng chúng ta chớ quên rằng, đạo đức được xây dựng trên nền tảng là sự đồng thuận của toàn xã hội.

Tôn giáo cũng vậy, đối tượng mà các tôn giáo sùng bái, tôn thờ cũng phải được đại bộ phận công nhận. Tôn giáo không chỉ được sự thừa nhận của đại chúng, mà rõ ràng còn là một loại nhu cầu tinh thần của con người, đó chính là nhu cầu sùng bái chứ không chỉ là sự tiếp nhận một loại tín ngưỡng nào đó. Con người nguyên thủy cảm thấy sợ hãi trước một vài hiện tượng tự nhiên và tiến hành thờ phụng những hiện tượng đó. Cuối cùng, hành vi này được số đông chấp nhận, những sự kiện và hiện tượng tự nhiên đó đã trở thành thứ được số đông tôn thờ.

Không chỉ có những thứ đó đã kích thích trí tưởng tượng của con người mà tư tưởng của con người cũng chủ động thông qua đối tượng sùng bái để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, cũng giống như bộ não thông qua cảm nhận để tiến hành tư duy trừu tượng vậy. Con người thông qua hoạt động tâm lí nào đó để tìm hiểu đặc tính của sự vật, dưới nhu cầu của ý thức, con người thể hiện lòng sùng bái của mình thông qua một số dấu hiệu trừu tượng đã nhân tính hóa. Muốn trở thành dấu hiệu xã hội, những đối tượng này phải được sự công nhận của số đông. Lòng thành kính và hành vi thờ phụng của con người là một phương thức biểu hiện, một kiểu dấu hiệu và trở nên cố định trong cộng đồng xã hội.

Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng những điều này vẫn in dấu trong đầu óc của con người. Nó không chỉ trở thành một truyền thống vững chắc giống như đạo đức, mà còn trở thành công cụ để hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội được tạo thành bởi những người có cùng tôn giáo, và cũng được phân biệt với cộng đồng khác nhờ tôn giáo. Sự khác biệt giữa các cộng đồng xã hội của con người cũng giống như sự khác biệt giữa các loài động vật, chỉ có điều sự khác biệt giữa các loài động vật là do di truyền, còn sự khác biệt về hình thái tâm lí của con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nhưng đặc trưng này của cộng đồng xã hội không chỉ do trí tưởng tượng tạo thành, chấp nhận và định hình vững chắc, mà nó còn là kết quả của sự hợp tác giữa trí tưởng tượng và nhu cầu tinh thần. Nhưng sự trừu tượng này sau đó sẽ trở nên đơn giản hóa và đơn nhất, như vậy bộ não có thể thể hiện chính xác sự tưởng tượng siêu thực bằng một hình thức nhất định.

Vì có tính chuẩn xác và tính ổn định nên hình thức này sẽ hình thành nên những tín hiệu đơn giản hóa, sao cho tất cả mọi người đều có thể hiểu được. Những tín hiệu này sẽ dẫn đến tính ổn định trong hành vi của con người.

Khi trẻ bắt đầu tiếp thu đạo đức, tôn giáo, truyền thống, rốt cuộc thứ mà trẻ học được là những gì?

Chúng ta có thể so sánh với việc học ngôn ngữ của trẻ. Con người tiếp thu một mô thức nào đó, cũng có nghĩa là thông qua trừu tượng hóa để có được tính ổn định và tính chính xác. Mô thức này sẽ trở thành một phần trong con người, giống như cơ thể sinh vật là một phần của phôi thai. Mô thức này rất hữu hiệu và có tính sáng tạo, nó mang lại cho cá thể một hình thức nào đó giống như gen quyết định đặc tính của cá thể. Trung khu thần kinh quyết định mô thức hành vi cũng tuân theo quy luật này.

Trong giai đoạn sơ sinh (cũng chính là giai đoạn tâm lí), trẻ sẽ học tập, tiếp thu mô thức nhất định mà cộng đồng xã hội xung quanh trẻ đã công nhận. Điều đó cũng có nghĩa là, thứ đầu tiên mà trẻ tiếp thu không phải thứ gì đó về tâm lí, mà là mô thức nào đó do tâm lí quyết định. Trẻ tiếp thu phần cơ bản, chính xác và có biểu hiện tập trung, cũng có nghĩa là phần được lặp đi lặp lại nhiều lần trong cuộc sống thường nhật. Khi mô thức này trở thành thứ trẻ tiếp thu được, nó sẽ được cố định trong cá tính của trẻ cũng giống như ngôn ngữ.

Sự phát triển sau đó của con người có thể trở nên không xác định, nhưng sự phát triển đó vẫn có một nền tảng nhất định. Cũng như vậy, tiếng mẹ đẻ của một người có thể không cố định, nhưng nó vẫn tuân theo những nguyên tắc ngữ pháp và ngữ âm nhất định đã được quy định ngay từ thời kì phôi thai.

Tính chuẩn xác trong bộ não trẻ được thể hiện từ rất sớm, nó không chỉ biểu hiện ở việc trẻ luôn đòi hỏi hành vi phải chuẩn xác mà còn ở những yêu cầu rất cao trong trật tự, nguyên tắc sống. Trẻ rất nhạy cảm với việc đồ vật có được bày biện đúng trật tự không, vị trí của đồ vật có hợp lí không. Hay nói cách khác, trong khi tìm hiểu môi trường xung quanh thông qua một số hành vi, thứ lưu lại trong kí ức của trẻ chỉ là những thứ có quy luật nhất định, nếu không trẻ sẽ không thể tập trung chú ý được.

Tất cả những điều trên bày ra trước mắt chúng ta hình thái cơ bản của tính cách tâm lí của trẻ. Thể hữu cơ của tinh thần được hình thành một cách tự phát, hơn nữa được hình thành dựa trên một mô thức được xác định trước. Nếu không thì chỉ có thể dựa vào suy luận và ý chí để phát triển tâm lí, cũng có nghĩa rằng đó là những năng lực thu được về sau đó. Suy luận này chắc chắc là vô lí.

Cũng giống như con người không sáng tạo thân thể bằng suy luận logic, loại hình tâm lí của con người cũng không được tạo ra bằng suy luận. Sự sáng tạo được nói tới ở đây là những thứ ban đầu không tồn tại, bỗng nhiên xuất hiện một cách thần bí, hơn nữa sẽ phát triển theo những quy luật nhất định. Nhưng trên thực tế thì mỗi sự vật đều bắt đầu từ một loại hình nhất định, khởi nguồn của mọi sự sống đều là từ tế bào phôi thai.

Vì vậy tư tưởng của con người được phát triển dựa trên một nền tảng nhất định, nền tảng này lại có tính sáng tạo nhất định. Nhưng ở giai đoạn sau khi chào đời, tư tưởng của con người từng bước hoàn thiện thông qua việc tiếp thu, học hỏi từ thế giới bên ngoài. Vì vậy bộ não hình thành một nền tảng, trên nền tảng đó biến mỗi cá thể thành một thành viên mà chủng tộc đó mong muốn. Mỗi quần thể đều có tính liên tục nhất định, văn minh nhân loại cũng được lưu truyền và kế thừa như vậy.

Chỉ khi cá thể có năng lực sáng tạo đó được sinh ra thì những thứ không phải bẩm sinh vốn có đó mới có thể phát triển, hơn nữa từng bước phát triển theo mô thức xã hội. Chỉ có bằng cách thích nghi với môi trường xung quanh, con người mới có thể hoàn thành quá trình này. Đó chính là chức năng sinh học thực sự của trẻ, sự phát triển của xã hội cũng phụ thuộc vào điều đó. Nhưng chính vì chúng ta có thể khống chế quá trình mang tính sáng tạo này, nên tầm quan trọng của người lớn chúng ta mới được thể hiện một cách rõ ràng.

❁ ❁ ❁

Ảnh: Viktor Jakovlev on Unsplash

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x