Trang chủ » 6. MINH TRIẾT VỀ NHÂN SINH

6. MINH TRIẾT VỀ NHÂN SINH

by Trung Kiên Lê
237 views

TÁC GIẢ - LỜI GIỚI THIỆU

I. PLATON

1. Bối cảnh

2. Socrate

3. Thời kỳ học hỏi của Platon

4. Vấn đề đạo đức

5. Vấn đề chính trị

6. Vấn đề tâm lý

7. Giải pháp tâm lý

8. Giải pháp chính trị

9. Giải pháp luân lý

10. Phê bình

II. ARISTOTE

1. Một chút lịch sử

2. Công việc của Aristote

3. Nền tảng của luận lý học

4. Hệ thống khoa học

5. Siêu hình học và thực chất của Thiên Chúa

6. Tâm lý học và bản chất của nghệ thuật

7. Đạo đức học và bản chất của hạnh phúc

8. Khoa học - chính trị

9. Phê bình

10. Tuổi già và chết

III. FRANCIS BACON

1. Từ ARISTOTE đến thời phục hưng

2. Sự nghiệp chính trị của Bacon

3. Những bài tiểu luận

4. Cuộc tái tạo vĩ đại

5. Phê bình

6. Kết luận

IV. SPINOZA

1. Tiểu sử

2. Luận về tôn giáo chính trị

3. Sự cải tiến trí năng

4. Đạo đức học

5. Chính trị luận

6. Ảnh hưởng của Spinoza

V. VOLTAIRE

1. Paris: Oedipe

2. London: những lá thơ từ Anh quốc

3. Cuộc sống ở Cỉrey

4. Ở Potsdam với hoàng đế Frédérique

5. Les délices: "Luận về đạo đức"

6. Ferney: Candide

7. Bách khoa tự điển và triết lý tự điển

8. Chống độc tài áp bức

9. Voltaire và Rousseau

10. Đoạn kết

VI. IMMANUEL KANT

1. Những nẻo đường đến KANT

2. Con người

3. Phê bình lý tính thuần túy

4. Phê bình lý tính thực tiễn

5. Về tôn giáo và lý trí

6. Về chính trị và nền hòa bình vĩnh cửu

7. Phê bình và đánh giá

8. Vài lời về Hegel

VII. SCHOPENHAUER

1. Thời đại

2. Con người

3. Thế giới kể như biểu tượng

4. Thế giới: dục vọng

5. Thế giơi: Sự ác

6. Minh triết về nhân sinh

7. Minh triết về cái chết

8. Phê bình

VIII. HERBERT SPENCER

1. COMTE và DARWIN

2. Sự phát triển của Spencer

3. Nguyên lý đầu

4. Sinh vật học: quá trình tiến hóa của sự sống

5. Tâm lý học: sự tiến hóa của tâm trí

6. Xã hội học: tiến hóa của xã hội

7. Đạo đức học: tiến hóa của đạo đức

8. Phê bình

9. Kết luận

IX. FRIEDRICH NIETZSCHE

1. Dòng dõi

2. Tuổi trẻ

3. Nietzsche và Wagner

4. Tiếng hát Zarathustra

5. Đạo đức siêu nhân

6. Siêu nhân

7. Suy tàn

8. Quý tộc

9. Phê bình

10. Kết cục

TRIẾT HỌC

Trước hết, hãy xét sự phi lý của lòng ham muốn của cải vật chất. Những kẻ ngu tin tưởng chỉ cần có nhiều tài sản vào là đủ làm cho ý dục họ hoàn toàn thoả mãn. Người ta tưởng rằng một người có đầy đủ phương tiện là một người có thể thoả mãn mọi ước muốn. “Người ta thường bị trách cứ là tham tiền hơn mọi thứ, và yêu tiền hơn bất cứ gì khác; nhưng đối với con người thì đấy là điều tự nhiên không thể tránh khi họ yêu chuộng cái thứ luôn luôn sẵn sàng tự biến thành bất cứ thứ gì mà những ước vọng lang thang của họ, những ham muốn muôn mặt của họ để mắt xanh đến. Mọi vật khác chỉ có thể thoả mãn một ước muốn, chỉ có tiền là tuyệt đối tốt, vì đấy là sự thoả mãn một cách trừu tượng mọi ước muốn” (Tiểu luận, tr. 47).

Tuy nhiên, một đời sống cù chày để thu hoạch tài sản thật là vô dụng nếu chúng ta không biết làm thế nào để biến tài sản thành lạc thú, và đấy là một nghệ thuật đòi hỏi văn hoá và sự minh triết. Một chuỗi tiếp nối những đeo đuổi dục lạc không bao giờ đem lại thoả mãn lâu dài, người ta cần phải hiểu những cứu cánh cũng như hiểu nghệ thuật kiếm phương tiện. “Con người có nhiều định ý để làm giàu gấp ngàn lần định ý thu nhập văn hoá, mặc dù điều hoàn toàn chắc chắn là “nội tài” của con người đem lại hạnh phúc cho y nhiều hơn sở hữu “ngoại tài” của y” (Ibid, 11).

“Một kẻ không có nhu cầu tâm thức gọi là một con người hủ lậu” (tr. 41). Y không biết làm gì với sự nhàn rỗi của y – difficilis in otio quies (được bình an trong lúc nhàn rỗi là điều khó) (tr. 39); y hăm hở thèm thuồng đi hết nơi này đến nơi khác để tìm kiếm cảm giác mới, và cuối cùng y phải chịu hình phạt của kẻ giàu nhàn rỗi hay một kẻ túng dục liều lĩnh – hình phạt ấy chính là nỗi bực mình, ennui (tr.22).

Không phải tài sản mà chính sự minh triết mới là chánh đạo. “Con người đồng thời vừa là sự nỗ lực hùng hổ của ý dục (mà trung tâm nằm ở hệ thống sinh sản) vừa là chủ tể bất diệt, tự do, an tịnh của tri thức thuần khiết (mà trung tâm là não bộ)” (I, 262). Điều kỳ diệu là tri thức, mặc dù là con đẻ của ý dục, song lại có thể khắc phục nó, khả tính độc lập của tri thức bắt đầu xuất hiện khi trí năng thỉnh thoảng lơ là trong việc đáp ứng những đòi hỏi của dục vọng. “Đôi khi trí năng từ chối không phục tùng ý dục, như khi chúng ta cố gắng vô vọng vào một việc gì, hay khi ta không thể nào làm cho ký ức nhớ lại một điều đã giao cho nó giữ.

Sự tức giận của ý dục chống lại trí năng vào những dịp như thế làm nổi bật mối liên hệ giữa tri thức và ý chí, và sự khác biệt giữa đôi bên. Quả thế, bị bực tức vì sự giận dữ của ý dục, trí năng đôi khi láu táu mang lại điều mà ý dục đòi hỏi nhiều giờ sau đó, hay cả đến sáng hôm sau, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái mùa” (II, 439). Từ sự phục dịch bất toàn, trí năng có thể đi đến chỗ thống trị ý dục. Theo ý định hay vì cần thiết, con người có thể thản nhiên chịu đựng hay hoàn thành những hành động có tầm quan trọng ghê gớm đến tính mạng y – sự tự sát, hành quyết, đấu kiếm và những việc nguy hiểm khác nói chung, những việc mà toàn thể bản năng thú vật của y chống lại. Trong những trường hợp như thế, chúng ta thấy rõ lý trí đã làm chủ bản năng đến mức độ nào” (I, 112).

Quyền lực này của trí năng đối với ý chí có thể được phát triển tự do, dục vọng có thể bị tri thức tiết chế hay dập tắt tiếng nói, nhất là cái tri thức có một triết lý tất mệnh công nhận mọi sự là hậu quả hiển nhiên của những nguyên nhân trước nó. “Trong mười điều khiến ta buồn bực, có hết chín điều sẽ vô hiệu lực đối với ta nếu ta hiểu rõ nguyên nhân của chúng, và nhờ cậy bớt tính cách tất yếu và thực tính của chúng… Dây cương và hàm thiết đối với con ngựa bất kham có công dụng thế nào thì trí năng đối với ý chí cũng có công dụng như thế ấy” (II, 426).

“Sự tất yếu ở nội tâm cũng như sự tất yếu ở ngoại cảnh: không gì đem lại cho ta sự an bình rốt ráo cho bằng một sự hiểu biết rõ ràng” (I, 396). Chúng ta càng hiểu rõ dục vọng đam mê của chúng ta bao nhiêu, thì chúng càng ít khống chế chúng ta được bấy nhiêu, và “không gì che chở ta thoát được sự cưỡng bức của ngoại vật cho bằng tự kiềm chế mình” (“Lời khuyên và châm ngôn”, tr. 51). “Nếu bạn muốn khắc phục mọi sự, thì chính bạn hãy phục tùng lý trí” (Si vis tibi omnia subjicere, subjice te rationi). Kỳ quan vĩ đại nhất trong tất cả, không phải là kẻ chinh phục thế giới, mà chính là kẻ hàng phục được bản thân.

Như vậy triết lý thanh luyện ý dục. Nhưng triết lý ở đây phải hiểu là kinh nghiệm và tư duy, không phải chỉ là việc đọc sách và nghiên cứu thụ động.

“Khi để những tư tưởng của người khác liên tục tràn vào đầu ta, chúng sẽ hạn chế và đàn áp những tư tưởng của riêng ta; và cuối cùng làm tê liệt năng lực tư duy. Khuynh hướng của mọi học giả là tống khứ hết cái nghèo nàn của tâm thức họ bằng cách đưa vào những tư tưởng của kẻ khác… Thật nguy hiểm khi ta đọc về một vấn đề trước khi chính chúng ta đã suy nghĩ về nó. Khi ta đọc, một người khác suy nghĩ cho ta, ta chỉ có lập lại quá trình tâm thức của người ấy…

Như thế, chuyện xảy ra hầu như thế này: là nếu một người đọc sách suốt ngày, y sẽ mất dần khả năng suy tưởng… Kinh nghiệm thế gian có thể xem như một bài học, mà sự tư duy và hiểu biết về nó là phần bình luận. Khi có quá nhiều tư duy và hiểu biết mà quá ít kinh nghiệm thì chẳng khác nào những cuốn sách mỗi trang chỉ có hai dòng chính văn mà đến bốn mươi dòng bình giải”. (II, 254, Tiểu luận “Sách và đọc sách”, “Lời khuyên và châm ngôn”, tr. 21).

Như vậy lời khuyên thứ nhất là: cuộc đời trước sách vở; và lời khuyên thứ hai là chính văn trước bình giải. Hãy đọc chính những tác phẩm hơn là những sách trình bày và phê bình tác phẩm. Chỉ từ chính những triết gia chúng ta mới thu thập được những tư tưởng triết học: bởi thế kẻ nào tự thấy mình ưa thích triết học, thì phải tìm những bực thầy bất tử trong thánh địa an tĩnh của chính tác phẩm họ. Một tác phẩm của thiên tài đáng giá một ngàn thiên bình luận.

Trong những giới hạn ấy, sự theo đuổi văn hoá dù qua sách vở, cũng có giá trị, vì hạnh phúc tuỳ thuộc những gì ta có trong đầu hơn những gì ta có trong túi. Ngay cả tiếng tăm cũng là sự điên rồ. “Những cái đầu của kẻ khác là một nơi khốn nạn để làm nhà ở cho hạnh phúc chân thật của một con người” (“Minh triết và đời sống”, tr. 117).

“Một người có thể bị kẻ khác phán đoán thế nào, điều ấy không quan trọng, vì chung quy, mọi người đều côđộc. Nhưng điều quan trọng là: kẻ cô độc ấy là ai… Niềm hạnh phúc ta nhận được từ chính mình vốn thường lớn lao hơn hạnh phúc mà ta có được từ hoàn cảnh xung quanh… Hình ảnh của thế giới trong đó một con người sống, chính do cách thế y nhìn thế giới ấy… Vì mọi sự hiện hữu hay xảy đến cho một người chỉ có trong ý thức y, và chỉ xảy đến cho một mình y, nên điều thiết yếu nhất là sự tạo thành ý thức của y… Vì thế Aristote đã nói lên chân lý vĩ đại sau đây: được hạnh phúc có nghĩa là tự mình đầy đủ cho mình” (Ibid. tr. 27, 4-9).

Cách thoát ra khỏi dục vọng vô bờ chính là sự chiêm quan cuộc đời một cách thông minh, và nói chuyện với những công trình của vĩ nhân trong mọi thời mọi xứ. Chính cho những tâm hồn biết yêu thương chân lý này mà những vĩ nhân đã sống. “Trí năng vô vị kỷ vươn lên như một làn hương vượt trên những lỗi lầm và điên rồ của thế giới ý dục” (“Minh triết về nhân sinh”, 34, 108). Phần đông người ta không bao giờ vượt khỏi lối nhìn vạn vật như đối tượng của dục vọng, do đó mà họ khổ sở. Nhưng thấy được mọi sự chỉ như đối tượng của tri thức, tức là đã vươn đến tự do.

“Khi một nguyên nhân bên ngoài hay thiên tính bên trong bất chợt nâng ta lên khỏi lòng ham muốn bất tận, và giải phóng tri thức ra khỏi sự nô lệ ý dục, thì sự chú ý không còn được hướng đến những động lực của ham muốn, không còn lĩnh hội mọi sự trong tương quan với ý dục, mà quan sát sự vật không xen lẫn tư lợi, hoàn toàn khách quan, hoàn toàn chú mục vào sự vật trong giới hạn chúng là những ý tưởng, chứ không phải là những động lực thúc đẩy dục tình. Khi ấy bỗng chốc niềm an lạc mà chúng ta vẫn luôn tìm kiếm nhưng luôn vụt khỏi tầm tay ta để trở lại con đường dục vọng, niềm an lạc ấy sẽ tự ý đến với ta và giảng hoà với ta. Đấy là trạng huống không khổ đau mà Epicure cho là điều thiện cao tột và là trạng huống của những thần linh, vì trong lúc ấy chúng ta được giải phóng khỏi những nỗ lực đeo đẳng khốn nạn của ý dục, chúng ta được nghỉ lễ Sabbath, không còn làm tôi mọi nhọc nhằn cho dục vọng, bánh xe của Ixion được yên nghỉ[20].

THIÊN TÀI

Thiên tài là hình thức tuyệt đỉnh của tri thức vô dục này. Những hình thức thấp nhất của sự sống hoàn toàn làm bằng ham muốn, vắng bóng tri thức; con người nói chung là một phần lớn ham muốn và rất ít tri thức; thiên tài là một phần lớn tri thức và rất ít ham muốn. “Thiên tài bao gồm trong điều này: là khả năng hiểu biết phát triển đến mức độ vô cùng lớn hơn mức cần thiết để phục vụ cho ý dục” (III, 139). Việc ấy cần mọi sự chuyển dịch năng lực dành cho hoạt động sinh sản thành ra năng lực hoạt động tri thức.

“Điều kiện căn để của thiên tài là tính nhạy cảm trội hẳn đến độ bất thường vượt trên năng lực sinh sản” (III, 159). Do đó có sự thù địch giữa thiên tài và phụ nữ vốn tượng trưng cho sự sinh sản và sự phục tùng của trí năng đối với dục vọng muốn sống và làm ra sự sống. “Đàn bà có thể có tài lớn, nhưng không thể có thiên tài, vì họ luôn luôn chủ quan”. Đối với họ mọi sự đều riêng tư, và đều được xem như một phương tiện để đạt những cứu cánh riêng. Trái lại.

“Thiên tài nói giản dị là khách quan tính toàn vẹn nhất, nghĩa là khuynh hướng khách quan của tâm thức… Thiên tài là năng lực gạt hẳn ra khỏi tầm mắt mình những lợi thú riêng, ước vọng và mục đích riêng, là năng lực khước từ bản ngã của mình trong một thời gian để có thể đóng vai chủ thể tri giác thuần tuý, thị kiến sáng suốt về vũ trụ… Bởi thế sự biểu hiện của thiên tài nơi một nét mặt là ở điểm này: trong nét mặt kia ta có thể thấy được một sự thắng vượt quyết định của tri thức đối với ý dục. Trong những nét mặt thông thường, có sự nổi bật của ý dục, và ta thấy rằng tri thức chỉ hoạt động dưới sự thúc đẩy của ý dục, và chỉ được hướng dẫn bởi những động lực của tư lợi” (I, 249, 243).

Khi giải thoát khỏi ý dục, tri thức có thể thấy được sự vật trong tự thân của chúng; “thiên tài đưa lên cho chúng ta chiếc kính thần, trong đó mọi sự cốt yếu và ý nghĩa đều được quy tụ lại và hiển lộ được ánh sáng rõ ràng, còn những gì ngẫu nhiên xa lạ đều bị gạt ra” (I, 351). Tư tưởng đâm thủng dục vọng như ánh mặt trời xuyên qua một đám mây, làm hiển lộ trọng tâm của sự vật; đặc biệt nó hướng đến “Ý tưởng” kiểu Platon hay cái tinh yếu phổ quát mà nó chỉ là một hình thể phát xuất từ đấy, hệt như họa sĩ thấy qua người mẫu mà ông phác họa, không những chỉ cá tính và dáng vẻ của một cá nhân mà còn thấy một tính chất phổ quát và một thực tại trường cửu mà cá nhân kia chỉ là một biểu tượng, một phương diện để làm hiển lộ. Vậy thì bí quyết của thiên tài nằm ở sự tri giác một cách sáng suốt vô tư cái khách quan, tinh yếu và phổ quát.

Chính sự mất quân bình ấy khiến cho thiên tài khó thích ứng trong thế giới đầy những hoạt động của ham muốn, thực tế, tư lợi. Vì thấy quá xa, thiên tài không thấy cái gì gần, nên thường bất cẩn và “quái dị”; trong khi chú mục nhìn một ngôi sao, ông có thể rơi tòm xuống giếng. Một phần vì thế mà thiên tài không có xã hội tính, ông chỉ nghĩ đến cái căn để, phổ quát bất diệt, trong khi những kẻ khác nghĩ đến giai đoạn, đặc thù, thức thời. Tâm thức của ông và của những kẻ khác không có gì chung, không bao giờ gặp gỡ.

“Thường xã hội tính của một người tỉ lệ với mức độ nghèo nàn về tri thức và nói chung, mức độ tầm thường của y” (Minh triết nhân sinh, tr. 24). Con người thiên tài có những đền bù cho mình, không cần bạn bè nhiều như những người sống trong mối lệ thuộc vĩnh viễn vào những gì bên ngoài họ. “Lạc thú mà thiên tài nhận được từ mọi vẻ đẹp, niềm an ủi mà nghệ thuật đem lại cho ông, mối hăng say nghệ sĩ… giúp thiên tài quên đi những phiền muộn của cuộc sống, và bù đắp cho nỗi đau khổ càng tăng của ông khi ý thức càng sáng suốt, và cho sự cô đơn sa mạc của ông giữa một nòi giống khác biệt” (I, 345).

Tuy nhiên, kết quả là thiên tài bị bắt buộc đi vào thế cô lập, và đôi khi vào nỗi điên loạn; tính nhạy cảm quá độ đã đem lại cho ông khổ đau, tưởng tượng và trực giác hợp lực với nỗi cô đơn và tính khó thích nghi để bẻ gãy những giây liên lạc giữa tâm thức với thực tế. Aristote một lần nữa lại đúng: “Những người xuất sắc về triết học, chính trị, thi ca hay nghệ thuật hầu hết đều thuộc loại đa sầu” (Minh triết nhân sinh, 19). Mối liên lạc trực tiếp giữa điên loạn và thiên tài “đã được đặt ra trong những tiểu sử của các vĩ nhân, như Rousseau, Byron, Alfieri, v.v. Qua một cuộc truy tầm cẩn thận trong những nhà điên, tôi đã khám phá nhiều trường hợp những con bệnh rõ rệt là có tài lớn, và thiên tài của họ xuất hiện rõ rệt qua cơn điên loạn” (I, 247).

Nhưng chính những người nửa điên nửa tỉnh ấy, những bậc thiên tài là giai cấp quý tộc đích thực của nhân loại. “Về phương diện trí năng, thiên nhiên rất nặng về quý tộc chủ nghĩa. Những phân biệt mà thiên nhiên đã thiết lập thường lớn lao hơn những phân biệt do bất cứ quốc gia nào lập ra theo dòng giống, địa vị, tài sản hay giai cấp” (II, 342). Thiên nhiên chỉ đem lại thiên tài cho một số ít bởi một thiên tính như vậy sẽ là một cản trở cho những mục đích thông thường trong đời sống vốn luôn luôn đòi hỏi chú tâm vào những gì riêng biệt cấp thiết. “Thật ra thiên nhiên định rằng ngay những học giả cũng phải là những người cày ruộng, quả thế, những giáo sư triết phải được đánh giá theo tiêu chuẩn này, và khi ấy ta sẽ thấy những công trình của họ đạt đến mọi mong đợi tốt đẹp” (III, 20).

NGHỆ THUẬT

Sự giải phóng tri thức khỏi bị nô lệ ý dục, sự bỏ quên ngã chấp và mối bận tâm vật chất của nó, sự nâng cao tâm thức đến chỗ chiêm ngưỡng chân lý một cách vô dục, chính là nhiệm vụ của nghệ thuật. Đối tượng của khoa học là cái phổ quát chứa đựng nhiều cái đặc thù, đối tượng của nghệ thuật là cái đặc thù chứa đựng một cái phổ quát. “Ngay cả bức chân dung cũng phải là, như Winckelmann bảo, hình ảnh lý tưởng của cá nhân” (I, 290). Trong sự phát họa động vật, bức hoạ điển hình nhất được kể là bức hoạ đẹp nhất, bởi nó biểu lộ giống loài một cách tốt đẹp nhất.

Vậy một tác phẩm nghệ thuật cũng thế, thành công tuỳ mức độ nó gợi lên cái Ý tưởng kiểu Platon nhiều hay ít, gợi lên cái phổ quát chung cho đồng loại của vật được trình bày. Chân dung của một con người, bởi thế, không phải cốt ở sự giống hệt kiểu chụp hình, mà ở nỗ lực trình bày qua một dáng hình, vài đặc tính cốt yếu hay phổ quát của con người. “Nghệ thuật cao cả hơn khoa học, vì khoa học tiến hành nhờ quá trình tích trữ và lý luận, trong khi nghệ thuật đạt đến đích ngay qua trực giác và sự trình bày. Khoa học chỉ cần có tài là đủ, nhưng nghệ thuật đòi hỏi phải có thiên tài.

Niềm lạc thú của ta trong thiên nhiên, như trong thi hay hoạ, phát sinh nhờ sự ngắm nhìn đối tượng mà không xen lẫn ý muốn cá nhân. Đối với nghệ sĩ, sông Rhin là một loạt những phong cảnh thay đổi thần kỳ, kích động cảm quan và trí tưởng tượng với những gợi ý của cái đẹp, nhưng người du lịch đang chú tâm vào những công việc riêng tư “sẽ thấy con sông và bờ sông chỉ là một đường thẳng, và cây cầu chỉ là một đường cắt ngang” (III, 145).

Nghệ sĩ tự giải thoát khỏi những lo nghĩ cá nhân đến nỗi “đối với cái nhìn của nghệ sĩ, không có gì khác nhau giữa sự ngắm cảnh hoàng hôn từ một nhà giam hay từ một lâu đài” (I, 265). “Chính hạnh phúc của tri giác vô dục này đã rọi một ánh sáng huyền ảo trên quá khứ và khoảng cách, và trình bày chúng cho ta thấy dưới một ánh sáng vô cùng mỹ lệ” (I, 256). Ngay cả những đối tượng nghịch, khi được ngắm nhìn không xen lẫn kích động của ý dục, và không có mối nguy kề cận, cũng trở thành cao đẹp.

Cũng thế, bi kịch có thể có một giá trị nghệ thuật, khi nó giải phóng ta ra khỏi cuộc tranh chấp của dục vọng cá nhân, và làm cho ta có thể thấy nỗi khổ của ta trong một nhãn quan rộng rãi. Nghệ thuật làm dịu bớt những xấu xa sự sống bằng cách chỉ cho ta thấy cái bất diệt và phổ quát ở đằng sau cái phù du, cá biệt. Spinoza có lý: khi tâm trí nhìn sự vật trong khía cạnh vĩnh cửu của chúng, nó đã dự phần vào vĩnh cửu”.

Mãnh lực của nghệ thuật để nâng ta lên trên sự đấu tranh của những dục vọng, trước hết chính là âm nhạc. “Âm nhạc tuyệt nhiên không giống những nghệ thuật khác, sự mô phỏng những ý tưởng hay tinh thể của sự vật, mà âm nhạc là sự mô phỏng chính ý dục”; nó chỉ cho ta thấy ý dục vĩnh viễn di động, nỗ lực, lang thang, luôn luôn rốt cuộc trở về với chính nó để bắt đầu lại những nỗ lực. “Đây chính là lý do vì sao tác dụng của âm nhạc mãnh liệt hơn, sau xa hơn những nghệ thuật khác, vì chúng chỉ nói đến những cái bóng, trong khi âm nhạc nói ngay đến chính sự vật” (I, 313). Âm nhạc cũng khác các nghệ thuật khác bởi vì nó ảnh hưởng đến cảm thức của ta một cách trực tiếp, không qua trung gian những ý tưởng, âm nhạc đối thoại với một cái gì tinh tế hơn là trí năng. Sự cân đối đối với nghệ thuật tạo hình thế nào thì âm điệu đối với âm nhạc cũng thế ấy, bởi vậy âm nhạc là một phản cực của kiến trúc. Kiến trúc, như Goethe bảo, là âm nhạc đông lại và sự cân đối là âm điệu đứng im.

TÔN GIÁO

Vào giai đoạn trưởng thành, Schopenhauer bắt đầu có ý tưởng rằng lý thuyết của ông về nghệ thuật – theo đó nghệ thuật là sự rút lui của ý dục, và sự chiêm ngưỡng cái bất diệt phổ quát cũng áp dụng cho tôn giáo. Thời niên thiếu ông đã thu thập rất ít huấn luyện về tôn giáo, và tính khí ông không có khuynh hướng kính trọng những tổ chức giáo hội đương thời. Ông khinh bỉ những nhà thần học: “Luận chứng cuối cùng của những nhà thần học là các cọc giàn hoả thiêu mà ta thấy trong nhiều quốc gia” (II, 365) và ông mô tả tôn giáo là “nền siêu hình của quẩn chúng” (Tiểu luận, tr.2). Nhưng vào những năm về sau, Schopenhauer bắt đầu tìm thấy một ý nghĩa sâu xa trong vài lễ tục và giáo điều. “Sự tranh chấp tiếp diễn dai dẳng trong thời đại chúng ta giữa những nhà siêu nhiên và những nhà thuận lý là do ở chỗ họ không nhận chân được tính cách ẩn dụ của mọi tôn giáo” (II, 369).

Ki-tô giáo chẳng hạn, là một triết lý bi quan sâu xa; “lý thuyết về tội lỗi nguyên thuỷ (sự xác nhận dục vọng) và về sự cứu rỗi (chối bỏ dục vọng) chính là chân lý vĩ đại làm nên tinh yếu của Ki-tô giáo” (I, 254). Kiêng ăn là một phương tiện thiện xảo để làm yếu đi những dục vọng không bao giờ đưa đến hạnh phúc mà chỉ đưa đến sự vỡ mộng hay đến dục vọng khác.

“Cái năng lực nhờ đó Ki-tô giáo có cơ thắng thế đối với Do thái giáo và vô thần luận của Hy lạp và La Mã, chỉ nằm ở một điểm duy nhất là bi quan luận của nó, ở chỗ nó thú nhận rằng trạng huống của chúng ta vừa khốn đốn vừa tội lỗi vô cùng, trong khi cả Do thái giáo lẫn vô thần luận đều lạc quan” (II, 372), xem tôn giáo như một sự hối lộ cho những quyền năng trên trời để giúp đỡ cho những thành công ở dưới đất. Ki-tô giáo trái lại, xem tôn giáo là sự ngăn cản cuộc săn tìm vô bổ chạy theo hạnh phúc trần gian. Ở giữa lòng sự xa hoa và quyền năng thế tục, “Ki-tô giáo đã đề cao lý tưởng của bậc thánh. Kẻ điên trong Chúa, người khước từ sự chiến đấu, hoàn toàn thắng lướt ý dục cá nhân” (I, 493).

Phật giáo còn sâu sắc hơn Ki-tô giáo, vì toàn bộ nền tôn giáo này nhằm vào sự phá huỷ dục vọng, và thuyết giáo về Niết bàn xem như mục đích của mọi sự tu tập của cá nhân. Những người Ấn-độ sâu sắc hơn những nhà tư tưởng của Âu châu bởi lối giải thích thế giới của họ có tính cách nội tâm và trực giác, không phải ngoại tại và tri thức; trí năng chia tách mọi sự, trực giác hợp nhất mọi sự. Những người Ấn-giáo thấy rằng cái “tôi” là một ảo tưởng; cá nhân chỉ là hiện tượng, và thực tại độc nhất là nhất thể vô biên – “cái kia là ngươi”.

“Kẻ nào có thể nói câu ấy với chính mình, đối với mọi thực thể y tiếp xúc, – kẻ nào có con mắt sáng và linh hồn minh mẫn đủ để thấy rằng tất cả chúng ta đều là những tay chân của một cơ thể duy nhất, những dòng nước nhỏ trong một đại dương của ý chí – kẻ ấy “chắc chắn có mọi đức hạnh và phước lành, và đang ở trên đường thẳng đến giải thoát” (I, 483). Schopenhauer không nghĩ rằng Ki-tô giáo sẽ có ngày thay thế Phật giáo ở Đông phương: “việc ấy giống hệt như thể ta bắn một viên đạn vào một mỏm đá” (I, 460). Đúng hơn, triết học Ấn sẽ tràn vào Âu châu, thay đổi sâu xa tri thức và tư tưởng của Âu châu. “Ảnh hưởng của văn học Phạn ngữ sẽ thâm nhập không kém sự phục hưng của văn chương Hy Lạp vào thế kỷ 15”.

Vậy thì, sự minh triết tối hậu chính là Niết bàn: giảm thiểu cái “ngã” của mình đến mức tối thiểu đối với ham muốn và dục vọng. Ý chí vũ trụ mạnh hơn ý chí cá nhân, chúng ta hãy nhượng bộ tức khắc. “Ý dục càng ít kích động bao nhiêu, chúng ta càng ít khổ đau bấy nhiêu” (Lời khuyên và châm ngôn, tr. 19). Những tuyệt tác vĩ đại về hội hoạ luôn luôn trình bày những nét mặt trong đó “ta thấy biểu hiệu của tri thức toàn vẹn nhất, không hướng về những sự vật đặc thù mà đã… trở thành yếu tố làm cho lặng bặt mọi dục vọng” (I, 300). “Niềm bình an vượt trên mọi lý tính ấy, vẻ an tịnh hoàn toàn ấy của tâm linh, sự nghĩ ngợi sâu xa ấy, trạng thái thanh bình bất khả xâm phạm ấy… mà Raphael và Correggio đã mô tả, chính là một thánh kinh toàn vẹn vững chắc; chỉ có tri thức còn lại, ý dục đã tiêu tan” (I, 531).

❁ ❁ ❁ 
Tác giả: William Durant
Nguồn: DTV eBook.

5 1 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x