Trang chủ » Mãyã

Mãyã

by Trung Kiên Lê
165 views

 Lời giới thiệu của người dịch

Đại sư Vivekananda

 JNĀNA-YOGA

Sự cần thiết của tôn giáo

Thực tính của con người

Mãyã

Mãyã và sự tiến hóa trong quan niệm về thượng đế

Mãyã và tự do

Cái tuyệt đối về sự biểu hiện

Thượng đế trong vạn hữu

Thực chứng

Tính thống nhất trong đa thù

Sự tự do của linh hồn

Vũ trụ thế giới vĩ mô

Thế giới vi mô

Sự bất tử

Chân ngã (Atman)

Atman: ràng buộc và giải thoát

Con người thực và con người biểu kiến

Vedanta thực tiễn I

Vedanta thực tiễn II

Vedanta thực tiễn III

Vedanta thực tiễn IV

Con đường thực chứng tôn giáo phổ quát

Lý tưởng của tôn giáo phổ quát

BHAKTI-YOGA

Lời cầu nguyện

Định nghĩa Bhakti

Triết học về thần Isvara

Thực chứng tâm linh: Mục tiêu của Bhakti-yoga

Cần có một bậc đạo sư (Guru)

Phẩm chất của người nhiệt tâm cầu đạo và vị đạo

Các hóa thân

Âm om (Aum) huyền mật

Sùng bái vật thay thế hay ngẫu tượng

Pháp môn tu học

Tu tập pháp môn Bhakti như thế nào

Bước đầu buông xả

Sự buông xả của hành giả Bhakti phát sinh từ yêu thương

Bản chất tự nhiên của Bhkti-yoga và bí quyết cốt yếu

Những hình thức biểu hiện của tình yêu

Lòng bác ái

Tính nhất như giữa tri thức tâm truyền và tình yêu tối thượng

Tam giác tình yêu

Thượng đế của tình thương là bằng chứng của chính

Cách biểu hiện tình yêu của con người dành cho thượng đế

Kết luận

KARMA-YOGA

Karma và ảnh hưởng của nó trên tính cách

Ai cũng vĩ đại trong chính chức vị của mình

Bí quyết làm việc

Bổn phận là gì?

Chúng ta tự giúp mình, không phải giúp thế gian

Vô chấp là vô ngã hoàn toàn

Tự do

Lý tưởng của Karma-yoga

RAJA-YOGA

Lời tựa của tác giả

Lời giới thiệu

Những giai đoạn đầu tiên

Prāna

Prāna tâm linh

Điều khiển Prana tâm linh

Pratyahara và Dharana

Dhyāna và Samādhi

Tóm lược về Rāja-yoga

Giới thiệu cách ngôn yoga của Pantajaly

Chương I: Chú tâm - tác dụng tâm linh

Chương II: Chú tâm - Thực hành

Những quyền năng

Tự tại

Phụ lục: Tham chiếu đến yoga

Thuật ngữ

Ghi chú thêm của người dịch

( Diễn thuyết tại London)

Hầu hết các bạn đều từng nghe nói về danh từ Māyā. Danh từ này thường được dùng không chính xác theo nghĩa là “ảo tưởng”, “ảo giác” hoặc một cái gì đại loại như thế. Nhưng học thuyết về māyā tạo nên một trong những trụ cột chống đỡ cho triết học Vedānta; do đó, ta cần phải hiểu nó cho đúng.

Tôi xin các bạn hãy kiên nhẫn một chút, bởi vì hiểu sai sẽ rất nguy hiểm. Ý tưởng xa xưa nhất về māyā mà ta tìm thấy trong nền văn học Vedānta theo nghĩa là ảo tưởng, nhưng như thế là không đạt đến chân nghĩa của tư tưởng này.

Ta thấy có nhiều đoạn như sau: “Indra dùng māyā của mình để hóa thân thành vô lượng hình tướng”. Đúng là danh từ māyā có một cái gì đó giống như huyễn thuật, và ta cũng tìm thấy nhiều đoạn văn khác có ý nghĩa tương tự. Vậy là danh từ māyā cũng khuất khỏi tầm mắt ta.

Nhưng trong khi chờ đợi thì ý tưởng đó lại phát triển. Về sau, một vấn đề đã nảy sinh: “Vì sao ta không thể thấu hiểu được những điều huyền bí của vũ trụ?”. Và câu trả lời cũng rất có ý nghĩa: “Vì chúng ta chỉ nói suông, vì chúng ta thấy thỏa mãn với những sự vật thuộc phạm vi giác quan, và vì ta chỉ biết chạy theo dục vọng; bởi vậy có thể nói là ta phủ kín Thực Tại trong một lớp sương mù”.

Ở đây, không hề dùng đến từ māyā, nhưng ta vẫn hiểu được một ý là: nguyên nhân khiến chúng ta vô minh là do giữa ta và Chân Lý có một lớp sương mù.

Càng về sau nữa, trong một trong các kinh thư Upanishad cổ nhất, ta lại thấy từ māyā tái hiện, nhưng lần này diễn ra sự chuyển dịch về ý nghĩa: rất nhiều nghĩa mới được gán cho nó. Nhiều học thuyết đã được đề xuất và lặp lại, nhiều học thuyết khác được chọn lựa, cho đến cuối cùng ý tưởng về māyā trở nên cố định.

Ta đọc trong Śvetāśvatara Upanishad: “Hãy biết thế giới tự nhiên là māyā, và đấng Cai Trị māyā này chính là Thượng Đế”. Đến các triết gia về sau thì ta thấy từ māyā này lại được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, cho đến khi ta gặp được Śhankarāchārya vĩ đại.

Học thuyết māyā ít nhiều cũng được các luận sư Phật giáo sử dụng, nhưng trong tay các luận sư này thì nó giống như cái gọi là thuyết duy tâm, và đó là ý nghĩa thường được gán cho danh từ māyā hiện nay. Khi tín đồ Hindu nói rằng thế giới này là māyā, lập tức mọi người nghĩ ngay rằng thế giới này là ảo ảnh.

Cách giải thích đó cũng có cơ cở, như được sử dụng qua tay các luận sư Phật giáo, bởi vì có một bộ phận các triết gia hoàn toàn không tin vào thế giới ngoại tại. Nhưng māyā của triết học Vedānta, trong hình thức phát triển cuối cùng, không phải là thuyết duy tâm [ idealism] cũng chẳng phải là thuyết duy thực [ realism], thậm chí nó cũng chẳng phải là một học thuyết.

Đơn giản nó chỉ là một phát biểu về những sự kiện, về con người thực của ta và về những gì ta thấy chung quanh mình. Như tôi đã nói với các bạn trước đây, tâm trí của những người viết nên kinh Veda đều mải mê đi theo những nguyên lý, khám phá ra những nguyên lý.

Họ không có thời gian để vạch nên những chi tiết hoặc đợi chờ chi tiết; họ muốn đi sâu vào lòng sự vật. Một cái gì đó ở phía bên kia đang réo gọi, có thể nói như thế, và họ không thể đợi chờ. Rải rác khắp các kinh thư Upanishad, ta thấy rằng chi tiết của những chủ đề – mà hiện nay ta gọi là khoa học hiện đại – thường rất sai lầm, nhưng đồng thời những nguyên lý của chúng thì chính xác.

Chẳng hạn ý tưởng hiện đại về ê-te [1] – vốn là một trong những lý thuyết mới mẻ nhất của khoa học hiện đại – đã được tìm thấy trong nền văn học cổ đại Ấn Độ trong những hình thức còn tiến bộ hơn nhiều so với lý thuyết khoa học về ê-te hiện nay, nhưng điều đó còn nằm trong phần nguyên lý.

Khi chúng cố chứng minh cho bằng được các hoạt động của nguyên lý này thì chúng lại phạm sai lầm. Học thuyết về một nguyên lý toàn nhiên phổ hiện trong sự sống, mà mọi cuộc sống trong vũ trụ này đều chỉ những biểu hiện khác nhau của nó, học thuyết đó đã được thấu hiểu ngay từ thời kinh điển Veda; ta tìm thấy nó trong các Brāhmana.

Có nhiều trường thi trong Samhitā ca ngợi prāna (nguyên sinh khí), mà mọi cuộc sống chỉ là sự biểu hiện của nó. Dần dần, một số trong các bạn có thể quan tâm tìm hiểu để biết được rằng có những học thuyết trong triết học Veda liên quan đến nguồn gốc sự sống trên trái đất này lại rất tương đồng với những học thuyết được đề xướng bởi những nhà khoa học châu Âu châu hiện đại.

Dĩ nhiên, tất cả các bạn đều biết rằng có một học thuyết cho rằng sự sống bắt nguồn từ một hành tinh khác. Học thuyết này dung hòa với quan điểm của những triết gia Veda cho rằng sự sống xuất phát từ mặt trăng.

Ta thấy những nhà tư tưởng này rất can đảm và dũng mãnh phi thường khi truyền giảng những học thuyết có nội dung phổ quát và rộng lớn. Đáp án của họ về bí ẩn của vũ trụ – một bí ẩn đến từ thế giới bên ngoài – đã đem lại sự thỏa đáng tối đa.

Những công trình chi tiết của khoa học hiện đại không đem câu hỏi tiến gần hơn với đáp án, bởi vì những nguyên lý đó đã thất bại. Nếu trong thời cổ đại, thuyết ê-te đã thất bại trong việc giải đáp bí ẩn của vũ trụ thì bây giờ dẫu thuyết đó có được nghiên cứu tường tận đến đâu đi nữa cũng không thể đưa ta đến gần chân lý hơn.

Nếu lý thuyết về sự sống toàn nhiên phổ hiện đã thất bại, khi giải đáp bí ẩn của vũ trụ, thì nó cũng không có nghĩa gì sâu xa hơn nếu ta nghiên cứu cặn kẽ đến từng chi tiết, bởi vì những chi tiết đó cũng không thay đổi được nguyên lý vũ trụ.

Điều tôi muốn nói ở đây là các nhà tư tưởng Ấn Độ, khi truy vấn nguyên lý này, nhiều lúc đã tỏ ra dũng mãnh hơn những người hiện đại rất nhiều. Họ đã khái quát hóa được một số vấn đề vĩ đại nhất mà con người từng đạt đến, và một số trong đó vẫn còn là những lý thuyết mà nền khoa học hiện đại thậm chí vẫn chưa đạt đến về phương diện lý thuyết.

Chẳng hạn, họ không chỉ đạt đến thuyết ê-te, mà còn tiến xa hơn nữa và phân loại tâm trí như là khí ê-te ở trạng thái tế vi hơn. Tiếp tục vượt xa hơn nữa, họ còn tìm thấy khí ê-te ở trạng thái còn tế vi hơn nữa. Thế nhưng không có lời giải đáp nào, thuyết đó không giải quyết được vấn đề.

Không một kiến thức nào về thế giới ngoại tại lại có thể giải quyết được vấn đề. “Nhưng mà”, các nhà khoa học bảo, “chúng ta chỉ mới bắt đầu biết được đôi chút; hãy chờ vài ngàn năm nữa, chúng ta sẽ có được lời giải đáp”.

“Không”, triết gia Vedānta tuyên bố, bởi vì ông ta đã chứng minh một cách rõ ràng rằng tâm trí luôn bị hạn chế, nó không thể vượt qua được những giới hạn nhất định – không thể vượt qua không gian, thời gian, và quan hệ nhân quả.

Khi con người không thể nhảy qua được Chân Ngã của mình, không một ai có thể vượt qua được những giới hạn đang đóng khung anh ta trong quy luật về thời gian và không gian. Mọi nỗ lực giải quyết những quy luật về quan hệ nhân quả, thời gian và không gian đều hoài công vô ích, bởi vì chính việc thực hiện nỗ lực đó đã mặc nhiên xác nhận cả ba thứ đó đều tồn tại.

Vậy thì lời phát biểu về sự tồn tại của thế giới có ý nghĩa gì? “Thế giới này không tồn tại”. Nói thế có nghĩa là gì? Có nghĩa là thế giới không tồn tại tuyệt đối. Nó chỉ tồn tại trong mối tương quan với tâm trí tôi, với tâm trí bạn, với tâm trí của tất cả mọi người khác.

Ta thấy được thế giới này bằng năm giác quan, nhưng nếu có một giác quan khác, ta sẽ thấy còn có một cái gì khác hơn thế nữa. Nếu ta có một giác quan khác thì thế giới có thể xuất hiện như một cái gì đó hoàn toàn khác lạ. Do đó, nó không thực sự tồn tại; sự tồn tại của nó không bất biến, bất động và vô hạn.

Ta cũng không thể gọi nó là không tồn tại, vì nó vẫn tồn tại sờ sờ ra đấy, và ta vẫn phải làm việc quần quật như nô lệ trong thế giới đó và khắp thế giới đó. Thế giới này là sự hòa hợp giữa tồn tại và không tồn tại, giữa hữu với vô.

Xuất phát từ cách nhìn trừu tượng đối với quần chúng, trong đời sống thường ngày của mình, ta nhận thấy toàn bộ cuộc sống của chúng ta là một khối mâu thuẫn, là sự hòa hợp giữa tồn tại và không tồn tại. Trong kiến thức cũng có mâu thuẫn này.

Con người tựa hồ như có thể biết được hết mọi sự, nếu như anh ta muốn biết, nhưng trước khi đi được chỉ một vài bước thì anh ta đã vấp phải một bức tường rắn tựa kim cương không thể vượt qua. Mọi công việc của anh ta chỉ lẩn quẩn trong một vòng tròn, và anh ta không thể bước ra khỏi vòng tròn đó.

Những vấn đề gần gũi nhất và thân thiết nhất đã thúc đẩy anh ta suốt ngày đêm đi tìm một lời giải đáp, nhưng anh ta không thể giải quyết được những vấn đề đó, vì anh ta không thể vươn lên khỏi trí năng của mình. Tuy nhiên, khát vọng này đã cắm sâu trong tâm hồn anh ta.

Ta cũng biết rằng chỉ bằng cách kiểm soát và chế ngự khát vọng đó, ta mới có thể đạt được điều tốt đẹp duy nhất. Mọi hơi thở, mọi nhịp đập của trái tim đều buộc ta phải mang lòng ích kỷ. Đồng thời lại có một năng lực nào đó bên ngoài chúng ta bảo ta rằng điều tốt đẹp duy nhất là lòng vị tha.

Mọi đứa bé khi sinh ra đều lạc quan, chúng mơ ước những giấc mộng vàng. Đến lúc trưởng thành, chúng vẫn còn lạc quan. Đối với một thanh niên thì thật khó mà tin rằng có cái gọi là cái chết, hay một cái đại loại như là thất bại hay sa sút.

Rồi tuổi già đến, và cuộc đời chỉ là một đống đổ nát hoang tàn. Những giấc mơ tan biến, và con người trở nên bi quan. Thế đó, chúng ta đi từ cực đoan này đến cực đoan khác, bị thiên nhiên vùi dập cho tơi tả mà không hề biết mình đang đi về đâu.

Tôi nhớ đến một bài ca nổi tiếng trong Lalita Vistara (kinh Phổ Diệu) nói về cuộc đời Đức Phật. Kinh đó kể rằng, Đức Phật đản sinh như một đấng Cứu Thế, nhưng Ngài lại đắm chìm trong cảnh xa hoa lộng lẫy của cung đình. Chư thiên liền đến hát bài ca này để thức tỉnh Ngài.

Nội dung chính của bài ca là như vầy: ta đang không ngừng trôi nổi đắm chìm trong dòng sông luân hồi sinh tử. Cuộc đời ta cũng thế, thịnh suy hưng phế nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Ta phải làm gì đây? Hễ người nào có đầy đủ đồ ăn thức uống thì lạc quan yêu đời, anh ta tránh không muốn nghe nói đến những cảnh khổ đau phiền não, vì nó làm anh ta khiếp hãi.

Đừng nói với anh ta về sự phiền muộn đau thương của thế gian; hãy đi đến mà bảo với anh ta rằng mọi sự trên đời đều tốt đẹp. “Vâng, tôi đang sống bình yên.”, anh ta bảo: “Hãy nhìn tôi này! Tôi có nhà đẹp để ở. Tôi không hề sợ đói rét; bởi vậy đừng có mang những hình ảnh kinh khủng đó đến trước mặt tôi”.

Nhưng mặt khác, có biết bao nhiêu người chết vì đói rét. Nếu bạn đi đến và dạy họ rằng mọi sự trên đời đều tốt đẹp thì họ sẽ không nghe bạn. Làm sao họ có thể mong cầu cho người khác được hạnh phúc trong khi họ bất hạnh khổ đau? Thế đấy, chúng ta cứ dao động lắc lư giữa tinh thần lạc quan và tinh thần bi quan.

Cái chết là sự kiện vô cùng khủng khiếp. Toàn thể thế giới đều hướng về cõi chết: tất cả đều phải chết. Tất cả mọi sự tiến bộ, cảnh tượng phồn hoa, bao nhiêu chương trình cải cách, bao nhiêu sự lộng lẫy xa hoa, tài sản, kiến thức đều đi kết thúc đó: cái chết.

Đó là điều chắc chắn nhất trong mọi điều. Những thành phố dựng lên rồi sụp đổ, những đế chế trỗi dậy rồi lụi tàn, những hành tinh tan vỡ thành tro bụi rồi bị thổi bay đi bởi khí quyển của những hành tinh khác. Mọi sự đã như vậy rồi vô thủy. Cái chết là sự kết thúc của mọi sự.

Cái chết là sự kết thúc của sự sống, sắc đẹp, của giàu sang, quyền lực và của cả đức hạnh nữa. Các thánh nhân chết, những kẻ tội phạm cũng chết, vua chúa đều chết và kẻ ăn mày cũng chết. Tất cả đều đang đi về cõi chết, nhưng tất cả đều bám chặt vào cuộc sống một cách khủng khiếp. Ta không biết vì sao mình phải bám chặt vào cuộc sống, thế nhưng ta lại không thể từ bỏ nó.

Và đây là māyā. Một bà mẹ chăm bẵm nuôi con; linh hồn của bà, sự sống của bà đều nằm trong đứa bé. Đứa bé trưởng thành, có thể trở thành một đứa con bất hiếu thô bạo, đánh đập bà hàng ngày, nhưng người mẹ vẫn bám chặt vào đứa con; khi lý trí thức tỉnh thì bà lại phủ lấp nó đi bằng tình yêu thương.

Bà ít khi nghĩ rằng đó không phải là tình yêu, rằng đó là một cái gì đó bám chặt trong não tủy mình, mà bà không sao dứt ra được; dù có cố gắng đến bao nhiêu đi nữa bà cũng không sao dứt bỏ được sự triền phược đang trói buộc mình. Và đây là māyā. Tất cả chúng ta đều chạy theo Bộ Lông Cừu Vàng[2].

Ai trong chúng ta cũng đều nghĩ rằng nó sẽ là của mình. Hễ ai có chút lý trí cũng đều thấy rằng cơ hội dành cho mình có lẽ chỉ là một phần hai mươi triệu, vậy mà ai cũng tranh nhau đi tìm. Và đây là māyā. Cả ngày lẫn đêm, cái chết cứ lảng vảng trên thế giới này để chờ chúng ta, nhưng đồng thời chúng ta lại cứ luôn nghĩ rằng mình sẽ sống đời đời, không bao giờ chết.

Nhà vua Yudhishthira, khi được hỏi: “Điều kỳ diệu nhất trên thế gian này là gì?”, đã đáp: “Hàng ngày mọi người đều chết ở quanh ta, vậy mà con người lại cứ ngỡ rằng mình sẽ không bao giờ chết”. Và đây là māyā. Những mâu thuẫn khủng khiếp trong trí năng ta, trong kiến thức ta, vâng, trong cả mọi sự kiện trong đời sống, luôn đối mặt với ta trong mọi hướng.

Một nhà cải cách nổi dậy, muốn chữa trị mọi tội ác đang hoành hành trong một đất nước nào đó; và trước khi chữa trị được những tội ác đó thì hàng ngàn tội ác khác đã phát sinh để thay thế. Điều đó giống như một cái nhà cũ đổ nát, hễ bạn sửa được chỗ này thì sự hư hoại lại lan đến chỗ khác.

Ở Ấn Độ, những nhà cải cách của chúng ta kêu gọi và truyền giảng hãy chống lại tệ nạn góa bụa cưỡng bức[3]. Ở phương Tây, sống độc thân là một tội lớn. Hãy giúp những người độc thân ở bên này, họ đang chịu khổ đau. Hãy giúp những người góa bụa ở bên kia, họ cũng đang chịu khổ đau.

Điều đó giống như bệnh thấp khớp mãn tính: bạn loại bỏ được đau nhức ở đầu thì nó chạy xuống mình, loại bỏ được đau nhức ở mình thì nó chạy xuống chân. Những nhà cải cách đứng lên và truyền giảng rằng kiến thức, tài sản và văn hóa chỉ nằm trong tay một thiểu số ít ỏi, và họ nỗ lực để san sẻ chúng đều cho tất cả mọi người.

Họ có thể mang hạnh phúc đến cho một số người nào đó, nhưng có lẽ khi văn hóa đến thì hạnh phúc về thể xác sẽ giảm bớt đi. Hiểu biết về hạnh phúc cũng mang theo hiểu biết về bất hạnh. Vậy thì ta sẽ đi theo lối nào đây?

Số lượng tài sản nhỏ nhất mà ta đang hưởng thụ, nó đem cho ta niềm vui thì đồng thời cũng đem lại nỗi khổ đau tương tự đến một nơi nào đó. Đó là quy luật. Thanh niên có thể không thấy rõ được điều này, song những ai đã sống đủ lâu và những ai đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh trong đời đều hiểu cả. Và đây là māyā.

Sự việc trên đời cứ luôn diễn ra như thế, cả ngày lẫn đêm, và tìm ra một giải pháp cho vấn đề này là điều bất khả. Tại sao nó lại như vậy? Không thể nào trả lời được, bởi vì câu hỏi không thể được trình bày một cách hợp lý.

Thực ra, không hề có “thế nào” và “tại sao”; chúng ta chỉ biết rằng sự việc là như vậy, và ta không thể làm được gì. Thậm chí nắm bắt được vấn đề, vẽ ra một bức tranh chính xác trong tâm trí ta cũng là điều vượt quá sức mình.

Vậy thì ta có thể giải quyết vấn đề bằng cách nào? Māyā là lời phát biểu về thực trạng của vũ trụ này, và cách thức mà vũ trụ vận hành. Hầu như ai nấy đều kinh hãi khi nghe nói đến những điều này. Nhưng chúng ta hãy dũng cảm lên. Che giấu thực trạng không phải là phương thuốc chữa trị.

Như tất cả các bạn đã biết, một con thỏ khi bị bầy chó săn đuổi thường chui đầu xuống đất, và ngỡ thế là an toàn; chúng ta cũng như vậy đó, khi chạy theo đời sống lạc quan yêu đời, ta cũng hành động không khác gì con thỏ. Nhưng đó hoàn toàn không phải là phương thuốc chữa trị.

Có những lời phản bác lại điều này, nhưng bạn có thể thấy rằng những lời phản bác đó thường xuất phát từ những người gặp được nhiều điều tốt đẹp trong đời. Ở nước Anh này thật khó mà trở thành người bi quan.

Người nào cũng bảo với tôi rằng thế giới này tuyệt diệu biết bao, tiến bộ biết ngần nào; nhưng người sao thì cảnh vậy. Vấn đề cũ được đặt ra: Cơ Đốc giáo phải là tôn giáo chân chính duy nhất trên thế giới, bởi vì những quốc gia theo Cơ Đốc giáo đều giàu có!

Nhưng lời khẳng định đó tự mâu thuẫn với chính nó, bởi vì sự giàu có của những quốc gia theo Cơ Đốc giáo tùy thuộc vào vào sự bất hạnh của những quốc gia không theo Cơ Đốc giáo. Phải có một số quốc gia chịu bóc lột.

Giả sử toàn thế giới đều theo Cơ Đốc giáo thì những quốc gia Cơ Đốc giáo cũng sẽ trở nên nghèo khổ, vì sẽ không còn quốc gia phi Cơ Đốc giáo nào cho họ bóc lột nữa[4]. Như vậy lập luận này đã tự giết chính nó.

Muông thú sống dựa vào thảo mộc, con người sống dựa vào muông thú, và tệ hại hơn hết là sống dựa trên kẻ khác, kẻ mạnh sống dựa vào kẻ yếu. Điều này đang diễn ra ở khắp mọi nơi. Và đây là māyā. Bạn tìm được giải pháp nào cho điều này?

Ngày nào ta cũng nghe nhiều lời giải thích, và nghe bảo rằng rốt cuộc rồi tất cả mọi chuyện đều sẽ trở nên tốt đẹp. Cứ cho rằng điều đó hiển nhiên khả thi, thế thì tại sao điều tốt lại được thực hiện một cách hiểm độc như vậy? Tại sao điều tốt không được thực hiện thông qua điều tốt, mà lại phải thông qua những cách thức hiểm độc này?

Hậu duệ của loài người ngày nay sẽ được hạnh phúc trong tương lai, nhưng tại sao lại phải có những khổ đau ngày hôm nay? Không có một lời giải đáp nào cả. Và đây là māyā. Chúng ta cũng lại nghe rằng một trong những đặc điểm của sự tiến hóa là nó giảm thiểu tội ác, và những điều xấu xa đang liên tục bị loại dần ra khỏi thế giới này, cuối cùng chỉ còn lại những gì tốt đẹp.

Điều này nghe thì rất sướng tai, nó cố sức làm thỏa mãn đầu óc phù phiếm của những kẻ có đầy đủ của cải trên thế gian, những kẻ suốt ngày không phải đầu tắt mặt tối, chúi đầu nơi đồng ruộng, và không bị nghiền nát dưới bánh xe của cái gọi là sự tiến hóa.

Đối với những kẻ may mắn đó thì điều này thực sự tốt đẹp và đem lại niềm an ủi. Đám dân đen có thể chịu đựng khổ đau, nhưng những kẻ may mắn kia không hề quan tâm; hãy để đám dân đen chết đi, họ chẳng làm được tích sự gì.

Thật là tốt đẹp, nhưng lập luận này sai lầm từ đầu đến cuối. Trước hết, nó hiển nhiên chấp nhận rằng thiện và ác, tốt và xấu trong thế giới này là hai thực thể tuyệt đối. Thứ hai là nó giả định một điều còn tệ hại hơn nữa, đó là: số lượng điều thiện đang gia tăng còn số lượng điều ác đang giảm sút.

Như vậy, nếu điều ác bị giảm sút theo cách đó, bởi cái mà họ gọi là sự tiến hóa, thì sẽ đến một lúc nào đó cái ác sẽ bị tiêu trừ, và chỉ còn lại cái thiện cái tốt mà thôi. Nói thì rất dễ, nhưng lấy gì để chứng minh rằng cái ác đang giảm sút?

Chẳng hạn một người sống trong rừng, không biết trau dồi tâm trí, chẳng biết đọc sách, thậm chí cũng chưa từng nghe nói đến những thứ như văn tự, chữ nghĩa. Nếu anh ta bị thương nặng thì sẽ phục hồi mau chóng; trong khi chúng ta có thể chết vì một vết trầy xước.

Máy móc đang làm cho hàng hóa rẻ hơn, mở đường cho tiến bộ và tiến hóa, nhưng hàng triệu người bị nghiền nát để cho một kẻ trở nên giàu có; khi một người trở thành đại gia thì đồng thời có hàng ngàn người đã nghèo lại càng nghèo hơn nữa, và toàn thể nhân loại bị biến thành nô lệ.

Điều đó đang diễn ra ở khắp nơi. Những người chưa tiến hóa sống trong phạm vi giác quan. Nếu không đủ cái ăn, anh ta sẽ đau khổ, hoặc có điều gì xảy đến với thể xác mình, anh ta sẽ đau khổ. Cả hạnh phúc lẫn đau khổ của anh ta đều bắt đầu và chấm dứt trong phạm vi giác quan.

Khi con người này tiến bộ hơn, khi chân trời hạnh phúc mở rộng ra thì chân trời bất hạnh cũng mở rộng theo một cách tương xứng.

Con người trong rừng không hề biết thế nào là ghen tuông, là ra tòa, là đóng thuế, là bị xã hội bêu riếu, là bị cai trị ngày đêm bởi sự độc tài khủng khiếp nhất mà đầu óc hiểm độc của con người đã từng phát minh ra – sự hiểm độc nhìn xoi mói vào tận những điều bí ẩn trong từng tâm hồn của con người.

Anh ta không hiểu làm thế nào mà con người lại hiểm độc hơn loài vật khác gấp cả ngàn lần, bằng tất cả những thứ kiến thức phù phiếm và lòng kiêu ngạo. Như vậy đấy, khi chúng ta vươn cao lên khỏi phạm vi giác quan, chúng ta phát triển năng lực hưởng thụ cao hơn thì đồng thời chúng ta cũng phát triển năng lực chịu đau khổ sâu sắc hơn.

Thần kinh trở nên tinh tế hơn và có khả năng chịu đựng nhiều khổ đau hơn. Trong mọi xã hội, ta thường thấy một kẻ thường dân dốt nát chẳng cảm nhận được gì nhiều khi bị xúc phạm, nhưng y sẽ cảm nhận được một trận đòn đau.

Còn người nho nhã thì không thể chịu nổi một lời xúc phạm; thần kinh anh ta đã trở nên quá đỗi tinh tế. Khốn khổ đã tăng theo độ bén nhạy với hạnh phúc. Điều này không chứng minh thêm được gì cho lập luận của nhà tiến hóa luận.

Khi ta gia tăng năng lực cảm thụ hạnh phúc, ta cũng gia tăng năng lực cảm thụ khổ đau, và đôi khi tôi còn muốn nói rằng nếu ta gia tăng năng lực cảm thụ hạnh phúc theo cấp số cộng thì mặt khác, ta sẽ gia tăng năng lực cảm thụ khổ đau theo cấp số nhân.

Những người đang tiến bộ đều hiểu rằng ta càng tiến bộ thì càng có nhiều con đường dẫn đến đau thương lẫn khoái lạc. Và đây là māyā.

Như vậy, ta thấy rằng māyā không phải là một học thuyết nhằm giải thích thế giới; mà nó chỉ đơn giản là lời phát biểu về thực trạng đang hiện hữu, rằng tận nền tảng của hiện thể chúng ta là sự mâu thuẫn, rằng ở nơi đâu ta cũng đều phải di chuyển xuyên qua sự mâu thuẫn khủng khiếp này, rằng hễ nơi nào có năng lực tạo ra điều thiện thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực tạo ra điều ác, nơi nào có năng lực tạo ra điều ác thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực tạo ra điều thiện, bất cứ nơi nào có sự sống thì có cái chết đi theo như hình với bóng, kẻ nào cười đều phải sẽ khóc và ngược lại.

Trạng thái này của sự vật là vô phương cứu chữa. Rất có thể chúng ta đã tưởng tượng ra một nơi toàn thiện, hoàn toàn vắng bóng cái ác, nơi chỉ có nụ cười chứ không có tiếng khóc. Điều này hoàn toàn bất khả đối với chính bản chất sự vật, và những điều kiện này vẫn cứ luôn mãi thế.

Nơi nào có năng lực đem lại cho chúng ta nụ cười thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực đem lại cho chúng ta nước mắt. Nơi nào có năng lực tạo ra hạnh phúc thì nơi đó cũng ẩn tàng năng lực làm chúng ta khốn khổ. Bởi vậy, triết học Vedānta không lạc quan mà cũng chẳng bi quan.

Nó nói về cả hai quan điểm và quán chiếu sự vật đúng y như thực. Nó chấp nhận thế giới này là sự hòa hợp giữa thiện và ác, giữa hạnh phúc và đau khổ; khi gia tăng cái này thì tất yếu ta cũng phải gia tăng cả cái kia.

Không bao giờ có một thế giới toàn thiện hay toàn ác, bởi vì ngay cả ý tưởng đó cũng đã mâu thuẫn trong thuật ngữ rồi. Từ sự phân tích này đã phát lộ một điều huyền mật vĩ đại: đó là thiện và ác, tốt và xấu không phải là hai thực thể tách rời biệt lập.

Trong thế giới của chúng ta, không hề có một sự vật nào mà bạn có thể gán cho nhãn hiệu là tốt và luôn luôn chỉ là tốt; và trong vũ trụ này không hề có một sự vật nào mà bạn có thể gán cho nhãn hiệu là xấu và luôn luôn chỉ là xấu.

Cũng một hiện tượng như nhau nhưng hôm nay nó có thể tốt mà ngày mai lại xấu. Cùng một sự vật có thể gây khổ đau cho người này nhưng lại đem đến hạnh phúc cho người khác. Ngọn lửa thiêu cháy đứa bé cũng có thể nấu chín một bữa ăn ngon lành để cứu một người đang đói lả.

Những dây thần kinh dẫn truyền cảm thụ về khổ đau thì đồng thời cũng dẫn truyền cảm thụ về hạnh phúc. Do đó, cách duy nhất để chấm dứt điều xấu là ngừng làm điều tốt; không còn cách nào khác. Muốn chấm dứt cái chết, ta cũng phải dừng sự sống.

Sinh mà không tử, hạnh phúc mà chẳng khổ đau là điều mâu thuẫn; không thể tìm được một điều nào riêng lẻ bởi vì cả hai chỉ là cách biểu hiện khác nhau của cùng một sự vật. Điều mà tôi cho là tốt hôm qua thì hôm nay có thể tôi không còn xem là tốt nữa.

Khi hồi tưởng lại quá khứ, nhìn lại những lý tưởng của đời mình tại những giai đoạn khác nhau, ta thấy quả nhiên là vậy.

Có lúc lý tưởng của tôi là được cưỡi một cặp tuấn mã; lúc khác thì tôi cho rằng nếu tự tay làm được món mứt nào đó thì tôi hạnh phúc trọn vẹn; về sau, tôi lại nghĩ rằng tôi sẽ hoàn toàn thỏa mãn nếu có vợ đẹp con ngoan và tiền của rủng rỉnh.

Hôm nay tôi cười nhạo tất cả những lý tưởng đó, xem như là điều vớ vẩn trẻ con. Kinh điển Vedānta nói rằng chắc chắn phải có lúc ta hồi tưởng lại và cười nhạo những lý tưởng đã từng khiến ta lo sợ đánh mất đi bản sắc cá nhân.

Người nào trong chúng ta cũng đều muốn gìn giữ thể xác này đến vô hạn, đều nghĩ rằng chúng ta sẽ rất hạnh phúc, nhưng rồi sẽ đến lúc ta cười nhạo tất cả những ý tưởng này.

Giờ đây, nếu quả như điều đó là chân lý thì chúng ta đang ở tình trạng mâu thuẫn đầy tuyệt vọng – không tồn tại mà cũng không bất – tồn – tại, không khổ đau mà cũng chẳng hạnh phúc, mà là sự hòa hợp của cả hai. Như vậy thì kinh điển Vedānta cùng tất cả những triết học và tôn giáo khác có ích gì?

Và trên hết, làm điều thiện thì có ích gì? Đây là câu hỏi xuất hiện trong tâm trí. Nếu quả thật là bạn không thể làm điều thiện mà không gây thêm điều ác, hễ bất cứ khi nào tạo ra hạnh phúc thì bạn cũng luôn đem lại khổ đau, như vậy người ta sẽ hỏi bạn: “Vậy thì làm điều thiện thì có ích gì?”

Trước tiên, câu trả lời sẽ là: ta phải làm việc để giảm thiểu khổ đau, bởi vì đó là cách duy nhất khiến chúng ta hạnh phúc. Sớm muộn gì mỗi người trong chúng ta cũng tìm ra được điều này trong đời. Người thông minh tìm thấy sớm hơn một chút, còn kẻ đần độn sẽ tìm thấy muộn hơn một chút.

Kẻ đần độn phải trả giá rất đắt cho khám phá này, còn kẻ thông minh lanh lợi trả giá ít hơn. Thứ hai, chúng ta phải làm việc vì bản thân ta, đó là cách duy nhất để thoát ra khỏi cuộc sống đầy mâu thuẫn này. Cả hai lực lượng thiện và ác đều giữ gìn cho vũ trụ được sinh động cho ta, cho đến khi ta thoát khỏi những giấc mơ và thôi trò nắn bùn làm bánh.

Bài học đó ta cần phải học, và để học được nó phải cần đến nhiều, rất nhiều thời gian. Tại nước Đức đã có những nỗ lực xây dựng một nền triết học dựa trên nền tảng: Cái Vô Hạn trở thành hữu hạn. Tại nước Anh cũng vậy. Lập trường của những triết gia này được phân tích như vầy: Cái Vô Hạn cố gắng biểu hiện tự thân trong vũ trụ này, và đến một thời điểm nào đó Cái Vô Hạn sẽ thực hiện thành công.

Tất cả đều rất tốt đẹp, và chúng ta đã sử dụng các danh từ Vô Hạn, hiển thị, biểu hiện, v.v…, nhưng theo lý tự nhiên thì các triết gia yêu cầu nền tảng lý luận cơ bản cho lời phát biểu rằng cái hữu hạn cũng có thể toàn nhiên biểu hiện trong Cái Vô Hạn, Cái Tuyệt Đối; và Cái Vô Hạn chỉ có thể biến thành vũ trụ này là do sự giới hạn.

Mọi sự vật đều bị giới hạn nếu thông qua giác quan, thông qua tâm trí hoặc thông qua trí năng; cái bị giới hạn mà trở thành vô biên vô hạn là điều hoàn toàn phi lý và không thể xảy ra. Kinh điển Vedānta, mặt khác, tuyên bố như thực rằng Cái Tuyệt Đối hay Cái Vô Hạn đang cố gắng biểu hiện tự thân trong cái hữu hạn, nhưng sẽ đến một lúc nó thấy điều đó là bất khả, nên sẽ nhanh chóng rút lui, và sự rút lui nhanh chóng này có nghĩa là buông xả, từ bỏ – đó là khởi đầu chân chính của tôn giáo.

Ngày nay thật khó mà nói đến hai chữ buông xả. Ở Mỹ, người ta nói tôi là người đến từ một vùng đất chết đã bị chôn vùi cách hàng năm ngàn năm rồi, để nói về sự buông xả. Có lẽ các triết gia người Anh cũng nói thế. Nhưng quả thực, đó là con đường duy nhất dẫn đến tôn giáo. Buông xả và từ bỏ.

Đấng Christ đã nói gì? “Kẻ nào vì ta mà đánh mất sự sống sẽ tìm thấy nó”. Ngài dạy đi dạy lại sự buông xả như là con đường duy nhất dẫn đến sự toàn thiện. Sẽ đến lúc tâm trí thức tỉnh, thoát ra khỏi cơn trường mộng thê lương này – đứa bé từ bỏ trò chơi và muốn quay về với mẹ.

Nó tìm thấy chân lý trong lời nói: “Không thể làm thỏa mãn tham dục bằng sự hưởng thụ, điều đó chỉ làm cho tham dục tăng thêm như ngọn lửa khi tưới bơ vào”. Đây là sự thực đối với mọi sự hưởng lạc bằng giác quan, bằng tri thức hoặc mọi sự hưởng lạc những thứ mà tâm trí con người có thể nghĩ ra.

Chúng là hư không, chúng nằm trong māyā, nằm bên trong mạng lưới mà ta không thể vượt ra ngoài. Ta có thể bươn chải ở trong mạng lưới đó trong khoảng thời gian vô tận mà không tìm thấy đâu là điểm dừng, và bất cứ khi nào ta cố tìm cho được sự khoái lạc nhỏ nhoi thì một đống khốn khổ sẽ đổ ập lên đầu chúng ta.

Thật đáng sợ biết bao! Khi nghĩ đến điều này, tôi không thể không xem học thuyết māyā, xem lời phát biểu rằng tất cả đều là māyā, là cách lý giải duy nhất và tuyệt hảo nhất. Số lượng những nỗi bất hạnh trong thế giới này thật là khổng lồ; và nếu bạn du lịch qua nhiều quốc gia, bạn sẽ thấy rằng quốc gia này thì tìm cách chữa trị những điều xấu xa bằng phương tiện này, quốc gia khác thì bằng phương tiện kia.

Cùng một điều xấu xa nhưng mỗi quốc gia lại cố gắng khống chế bằng nhiều phương thức khác nhau, vậy mà chẳng có quốc gia nào thành công. Nếu điều xấu xa giảm đến mức tối thiểu ở điểm này thì nó lại tập trung ở điểm khác. Sự vật cứ diễn ra như thế.

Người Ấn Độ, do rất xem trọng sự thuần chủng, nên ủng hộ tục tảo hôn; điều đó trong suốt một thời gian dài đã làm giống nòi này suy kiệt. Song đồng thời, tôi cũng không thể phủ nhận rằng tục tảo hôn lại giúp cho giống nòi được thuần chủng hơn.

Các bạn sẽ chọn điều gì? Nếu các bạn muốn quốc gia được thuần chủng hơn thì sẽ làm cho dân tộc suy yếu về thể chất bởi tục tảo hôn. Ngược lại, các bạn ở nước Anh thì có tốt hơn không? Không, bởi vì tình trạng thuần chủng là sự sống còn của một quốc gia.

Các bạn há lại không thấy rằng, trong lịch sử, dấu hiệu diệt vong đầu tiên của một quốc gia là đánh mất đi sự thuần chủng. Khi điều đó xảy ra thì sự diệt vong của một chủng tộc hiện ngay ra trước mắt. Vậy thì chúng ta sẽ có giải pháp nào cho những khốn khổ này?

Nếu cha mẹ chọn vợ chọn chồng cho con cái thì điều tệ hại này được giảm đến mức tối thiểu. Những người con gái ở Ấn Độ có đầu óc thực tế hơn là cảm xúc. Nhưng cuộc đời họ có quá ít những điều thơ mộng. Lại nữa, nếu mọi người tự mình chọn chồng chọn vợ thì điều đó dường như cũng không mang đến nhiều hạnh phúc.

Người phụ nữ Ấn Độ thường rất hạnh phúc, hiếm khi có chuyện vợ chồng cãi lộn nhau. Mặt khác tại Mỹ, một quốc gia có nền tự do vĩ đại nhất, con số những gia đình và hôn nhân bất hạnh cũng rất lớn. Tại đây, tại đó, ở đâu đâu cũng có sự bất hạnh.

Điều đó cho thấy gì? Rằng, rốt cuộc, tất cả những lý tưởng đó không đem lại nhiều hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều phấn đấu để được hạnh phúc, và ngay khi ta có được chút ít hạnh phúc bên này thì lại gặp bất hạnh ở bên kia. Vậy thì chúng ta không làm điều tốt nữa ư? Vâng, với sự nhiệt tình hơn bao giờ hết.

Nhưng điều mà sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta là đập tan óc cuồng tín của chúng ta. Người Anh không nên cuồng tín thêm nữa và thôi chửi rủa người Ấn Độ. Họ sẽ học cách tôn trọng phong tục tập quán của những quốc gia khác.

Sẽ bớt đi óc cuồng tín, và có nhiều thêm những công việc thực sự. Những kẻ cuồng tín không thể làm việc, họ phung phí đến ba phần tư năng lượng. Chỉ những người thực tế, điềm tĩnh, đầu óc tỉnh táo mới làm việc được. Do đó, năng lực làm việc sẽ tăng thêm nhờ ý tưởng này.

Biết rằng đó là trạng thái của sự vật, ta sẽ kiên nhẫn hơn nữa. Cảnh tượng khốn khổ hay tội ác sẽ không thể làm đầu óc ta mất quân bình mà khiến ta chạy theo những chiếc bóng. Bởi vậy, lòng kiên nhẫn sẽ đến với chúng ta, vì biết rằng thế giới này sẽ phải vận hành theo dòng chảy riêng của nó.

Chẳng hạn, nếu tất cả loài người đều trở nên tốt đẹp thì trong thời gian đó muông thú tiến hóa thành người, và sẽ phải chuyển qua trạng thái tương tự, và đến lượt cỏ cây cũng vậy. Nhưng chỉ có một điều duy nhất chắc chắn: con sông chảy cuồn cuộn ra biển, và mọi giọt nước cấu tạo nên dòng nước sớm muộn gì cũng đều bị cuốn về đại dương bao la vô tận.

Trong đời sống cũng thế đối với mọi niềm vui và nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, chỉ có một điều chắc chắn là vạn hữu đang hối hả lao về đến đích, vấn đề chỉ là thời gian để các bạn và tôi, cây cỏ cùng muông thú, cùng mọi phân tử của đời sống đang tồn tại phải đạt đến Đại Dương Viên Mãn Vô Biên, phải đạt đến Tự Do và Thượng Đế.

Một lần nữa, tôi xin nhắc lại rằng lập trường của triết học Vedānta không bi quan mà cũng chẳng lạc quan. Triết học đó không bảo rằng thế giới này toàn ác hay toàn thiện. Nó bảo rằng điều ác của ta cũng có giá trị không kém gì điều thiện, và điều thiện của ta cũng có giá trị không kém gì điều ác.

Thiện ác gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Đó là thế giới, và khi hiểu được điều này, các bạn sẽ làm việc với sự kham nhẫn kiên trì. Để làm gì? Vì sao ta phải làm việc? Nếu đó là trạng thái của vạn vật thì ta sẽ làm gì? Tại sao không trở thành người theo thuyết bất khả tri?

Những người theo thuyết bất khả tri hiện đại cũng hiểu rằng không hề có giải pháp cho vấn đề này, hay nói theo ngôn ngữ của chúng ta là không có cách nào thoát ra khỏi điều tai ác của māyā, bởi vậy họ bảo ta nên thỏa mãn và hưởng thụ cuộc sống.

Nhưng đây lại là một sai lầm, một sai lầm chí mạng, một sai lầm phi lý nhất. Và sai lầm đó là như vầy: cái mà các bạn gọi là cuộc sống có nghĩa là gì? Có phải các bạn muốn nói đến đời sống của giác quan? Về điểm này thì phần lớn chúng ta đều chẳng khác với loài vật bao nhiêu.

Tôi dám chắc rằng không một vị nào ở đây lại có đời sống chỉ nằm trong phạm vi giác quan. Cảm xúc, tư tưởng và khát vọng của chúng ta là toàn bộ đời sống chúng ta; cuộc đấu tranh hướng đến lý tưởng vĩ đại, hướng đến sự toàn mãn này há chẳng phải là một trong những thành phần cấu tạo quan trọng nhất của cái mà ta gọi là cuộc sống hay sao?

Theo các người theo thuyết bất khả tri thì ta phải hưởng thụ cuộc sống y như bản chất của nó. Lập trường của thuyết bất khả tri xem cuộc đời này, bỏ đi lý tưởng về sự toàn mãn, là tất cả những gì tồn tại. Người theo thuyết bất khả tri tuyên bố không thể nào đạt đến lý tưởng đó, cho nên anh ta phải từ bỏ việc truy tìm.

Nhưng cuộc sống, trên tất cả, lại có nghĩa là cuộc truy tìm lý tưởng đó; điều cốt tủy của cuộc sống là hướng đến sự toàn mãn. Ta phải đạt đến lý tưởng đó, và do đó, ta không thể là những người theo thuyết bất khả tri, và không thể xem thế giới giống như nó đang biểu hiện được.

Thiên nhiên này, vũ trụ này là cái được gọi là māyā. Tất cả mọi tôn giáo ít nhiều cũng đều nỗ lực vượt qua cảnh giới tự nhiên – tôn giáo thô sơ nhất, hay tinh tế nhất đều biểu hiện điều đó thông qua thần thoại, qua thuyết biểu tượng, qua truyền kỳ về chư thần hay ma quỷ, qua những câu chuyện về các bậc thánh hay những nhà thấu thị, những vĩ nhân hay những nhà tiên tri, hoặc qua những quan điểm trừu tượng về triết học – tất cả đều có một mục đích, tất cả đều đang nỗ lực vượt qua những giới hạn này. Nói tóm lại, chúng đang đấu tranh để hướng đến tự do.

Dù có ý thức hay vô thức, con người vẫn cảm nhận được mình bị trói buộc; anh ta không là cái mà anh ta muốn được là. Anh ra học được một điều là tại bất cứ thời điểm nào, anh ta cũng phải nhìn chung quanh.

Chính thời điểm đó, anh ta mới biết rằng mình bị trói buộc, đồng thời phát hiện ra rằng trong tâm hồn anh ta có một cái gì đó thèm bay bổng đến cõi bên kia, nơi mà thể xác không thể đi theo được, nhưng lại bị níu kéo bởi sự giới hạn này.

Ngay cả trong những ý tưởng thấp kém nhất của tôn giáo về việc thờ phụng tổ tiên ông bà đã khuất và những yêu ma quỷ quái – những loại hung bạo nhất, tàn ác nhất, luôn rình rập quanh ngôi nhà của bạn bè ta, khoái cảnh đổ máu và rượu mạnh – ta vẫn thấy một nhân tố chung, đó là nhân tố tự do.

Kẻ nào muốn thờ cúng chư thần nhìn thấy trong những đối tượng thờ cúng đó, trên tất cả mọi thứ, một sự tự do vĩ đại hơn bản thân mình. Nếu cánh cửa khép kín, họ tin rằng chư thần vẫn có thể đi xuyên qua, và những bức tường kia chẳng thể ngăn trở họ.

Ý tưởng về tự do tăng dần đến cho đến khi đạt đến lý tưởng về một Thượng Đế Mang Hình Ảnh Con Người hay Thượng Đế Nhân Thể [ Personal God], mà quan điểm trung tâm của lý tưởng là như vầy: Ngài là đấng Hằng Hữu vượt trên mọi giới hạn của tự nhiên, của māyā.

Có thể nói là tôi thấy trước mắt tôi, tại một chốn u cư tịch mịch nào đó trong rừng, các bậc hiền nhân Ấn Độ thời cổ đại đang bàn luận về vấn đề này; và tại một chốn ẩn cư khác – nơi mà ngay cả những bậc hiền triết thành trí nhất, kỳ cựu nhất cũng không tìm ra được lời giải đáp – một chàng trai đứng giữa họ và tuyên bố: “Hãy nghe đây, hỡi những người con bất tử, hãy nghe đây, hỡi những kẻ sống trong những cung điện tráng lệ nguy nga, ta đã tìm ra nẻo đạo.

Nhờ biết được Ngài – đấng nằm bên kia sự vô minh tăm tối – mà chúng ta có thể vượt qua được bên kia cái chết”. Māyā ở khắp mọi nơi. Nó thật là khủng khiếp.

Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể làm việc thông qua nó. Kẻ nào nói rằng anh ta sẽ làm việc khi thế giới này trở nên toàn thiện và anh ta sẽ hưởng thụ lạc phúc từ nó, kẻ đó cũng giống như người ngồi bờ sông Ganges và nói: “Tôi sẽ băng qua con sông này, khi nào nước của nó chảy hết về đại dương”.

Phương thức của chúng ta không phải là tùy thuận theo māyā, mà chống lại nó. Đó là một nhân tố khác cần phải học hỏi. Chúng ta không sinh ra như là những người giúp đỡ thiên nhiên mà là những người ganh đua với thiên nhiên.

Chúng ta là chủ nhân của thiên nhiên, nhưng chúng ta lại tự trói buộc để kéo mình xuống thấp. Vì sao có cái nhà ở đây? Thiên nhiên có xây dựng nó đâu. Thiên nhiên bảo: “Hãy đi vào sống trong rừng”. Con người bảo: “Tôi sẽ xây một ngôi nhà và chiến đấu với thiên nhiên”.

Và anh ta đã làm vậy. Toàn bộ lịch sử nhân loại là cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ để chống lại cái gọi là quy luật tự nhiên, và cuối cùng con người đã chiến thắng. Đi vào thế giới nội tâm, ta cũng thấy diễn ra một cuộc chiến tương tự, cuộc chiến giữa con người thú vật và con người tâm linh, giữa ánh sáng và bóng tối; và ở nơi đây con người lại chiến thắng.

Có thể nói là con người đã vạch ra một con đường giữa lòng thiên nhiên để đi đến tự do. Như vậy, ta thấy rằng ở cõi bên kia māyā, các triết gia Vedānta đã tìm ra được một cái gì đó không bị ràng buộc bởi māyā; và nếu ta có thể đạt được đến cảnh giới đó thì ta sẽ thoát khỏi sự ràng buộc của māyā.

Ý tưởng này, dù ở hình thức này hay hình thức khác, chính là thuộc tính chung của mọi tôn giáo. Nhưng với triết học Vedānta thì điều đó chỉ là sự khởi đầu của tôn giáo chứ không phải là cứu cánh.

Ý tưởng về một Thượng Đế Nhân Thể, về đấng Thống Trị và Sáng Tạo Vũ Trụ, theo cách con người phác họa về Ngài, đấng Thống Trị Māyā hay Thống Trị Thiên Nhiên, không phải là cứu cánh của những ý tưởng này trong triết học Vedānta; nó chỉ là sự khởi đầu.

Ý tưởng đó cứ phát triển dần cho đến khi triết gia Vedānta chứng ngộ được rằng Ngài – Đấng đứng bên ngoài – chính là bản thân mình và, trên thực tế, đang tiềm ẩn trong tự tâm mình. Ông ta chính là con người tự tại tự do, nhưng do những giới hạn nên cứ ngỡ rằng mình bị trói buộc[5].

[1] Ê-te [ ether] là một khái niệm thuộc vật lý học, trước đây nhiều nhà vật lý tin rằng đó là môi trường vật chất không khối lượng lấp đầy toàn bộ không gian, để làm môi trường cần thiết cho sóng điện từ có thể lan truyền đi được. Thí nghiệm Michelson-Morley năm 1887 đã bác bỏ giả thuyết về sự tồn tại của môi trường ê-te này. Vào giai đoạn đại sư Vivekananda thuyết giảng bài này thì lý thuyết ê-te rất thịnh hành trong giới khoa học phương Tây.

[2] Theo thần thoại Hy Lạp, Phrixus đã tế lễ Con Cừu Vàng để tạ ơn thần Zeus và tặng bộ lông cừu cho vua Aeetes. Ông vua này đem treo bộ lông Cừu Vàng tại khu rừng thiêng Colchis, được một con rồng canh giữ. Con rồng này không không bao giờ ngủ. Theo truyền thuyết thì quốc gia nào được sở hữu được Bộ Lông Cừu Vàng sẽ trở nên hùng mạnh.

[3] Nghĩa là những người phụ nữ góa có chồng chết phải sống vậy suốt đời, không được tái giá.

[4] Ý tác giả muốn nói các quốc gia châu Âu thời đó giàu mạnh là nhờ bóc lột các thuộc địa phương Đông; như Anh bóc lột Ấn Độ, Pháp bóc lột Đông Dương…

[5] Đọc đoạn văn này khiến ta liên tưởng đến một giai thoại Thiền tông. Có một vị tăng tên Đạo Tín đến thỉnh cầu tam tổ Tăng Xán dạy pháp môn giải thoát. Tăng Xán hỏi: “Ai trói buộc ông?”. Đạo Tín thưa: “Dạ, không ai trói buộc.” Tổ bảo: “Không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì?” Đạo Tín liền hoát nhiên đại ngộ, và trở thành tổ thứ tư Thiền tông Trung Quốc.

Tác giả: Swami Vivekananda
Dịch giả: Huỳnh Ngọc Chiến
(Nếu bạn yêu thích hãy mua sách giấy ủng hộ dịch giả và nhà xuất bản)

0 0 Đánh giá
Đánh giá bài viết

❁ Cánh cửa mở rộng ❁

guest

0 Bình luận
Inline Feedbacks
Xem tất cả bình luận
0
Ý kiến của bạn luôn tuyệt vời, hãy để lại bình luận ...x